Top 7 bài phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay chọn lọc

Mời các bạn xem danh sách tổng hợp Phân tích bài thơ tình cảnh lẻ loi hot nhất được tổng hợp bởi M & Tôi

phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ của ặng trần côn ể thấy ược nỗi cô ơn, buồn thương của đal. người chinh phụ cùng với mẫu bài phân tích tình cảnh lẻ loi cọa người chinh chinh siêu han sẽ lài tài lihu tham kh. >

  • top 3 bài phân tích khổ 2 sang jue hay chọn lọc
  • top 5 mẫu phân tích bài thơ từ ấy khổ 1 siêu hay
  • tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã được tác giả Đặng trần côn khắc họa rõ net qua bài thơ chinh phụ ngâm. Chỉi Với Hơn 400 Câu ượC Làm Theo Thể đoản Trường Cú, Tac Giả đã Khéo Léo Miêu tả diễn biến tâm trạng của người chinh pHụ Trong Thời gian chồng đi chiến trường cũng cũng như Trong Bài Viết Này Hoatieu Xin Chia sẻ dàn ý pHân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh pHụ, phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụn gọn gọn, phnit tícnh c ẻ c c c c. ầ c c. ầ ng ầ ng n. đọc hiểu rõ hơn về nội dung tác giả muốn truyền tải qua bài thơ.

    1. dàn ý phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

    i. mở bai

    – giới thiệu tác giả Đặng trần côn và dịch giả Đoàn thị Điểm: tên tuổi, with người, sự nghiệp văn chương

    – giới thiệu tác phẩm chinh phụ ngâm (hoàn cảnh sáng tác) và đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (vị trí, nội dung).

    ii. thanks bai

    1. 16 câu đầu: tình cảm cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.

    a. hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị.

    – “thầm reo từng bước”: bước chân lặng lẽ dạo trên hiên vắng.

    – “rủ thác đòi phen”: vào trong phòng cuốn rèm, buông rèm

    → hành động lặp lại đi lặp lại một cách vô thức, thể hiện sự bần thần, bất định của người chinh phụ

    – chữ “vắng, thưa”: không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn cho thấy nỗi trống vắng trong lòng người người chinh phụ

    b. thao thức ngong trông tin chồng

    – forbid ngày:

    + người chinh phụ gửi niềm hi vọng vào tiếng chim thước – loài chim khách báo tin lành.

    + nhưng thực tế “thước chẳng mách tin”: tin tức chồng vẫn bặt vô âm tín.

    – forbid đêm:

    + người chinh phụ thao thức cùng ngọn đèn hi vọng đèn biết tin tức về chồng, san xẻ nỗi lòng cùng nàng.

    + thực tế: “đèn chẳng biết” “Lòng Thiếp riêng bi thiết” Câu thơ có hình thức ặc Biệt khẳng ịnh rồi lại phủ ịnh, ngọn đèn cón cón cón cón nh ậ sẻ nỗi lòng cùng người chinh phụ.

    + so sánh với bài ca dao “khăn thương nhớ ai”, bài ca dao cũng có xuất hiện hình ảnh ngọn đèn. nếu “đèn” trong bài ca dao là tri âm tri kỉ với người phụ nữ thì ở đây ngọn “đèn” lay lắt lại cứa sâu thêm nỗi đau trong ờing.

    – hình ảnh so sánh “hoa đèn” và “bong người”.

    + “hoa đèn” đầu bấc ngọn đèn, thực tế là que. cũng giống như ngọn đèn cháy hết mình ể ể rồi chỉ with hoa đèn tàn lụi, người pHụ nữ đau đáu hết lòng chờng nhưng her cuối c cùng nhận lại sự ơ ơ

    + liên hệ với nỗi cô đơn của thúy kiều sau khi từ biệt thúc sinh trở về với chiếc bóng năm canh:

    “người về chiếc bóng năm canh/kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”

    c. cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh.

    – “gà gáy”, “sương”, “hòe”: là những hình ảnh gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả

    – từ láy “eo óc, phất phơ”: cực tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật.

    → dưới with mắt trống trải cô ơn cả người chinh phụ, những cảnh vật vốn gắn với cuộc sống yên bình, ả nay trở n khcC thường, hoang vu, ớn lạnh. Đó là cách nói tả cảnh để ngụ tình.

    d. cảm nhận khác thường của người chinh phụ về thời gian.

    – “khắc giờ đằng đẵng”, “mối sầu dằng dặc”: thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt.

    – biện phÁp so sÁnh kết hợp với cÁc từ lÁy giàu như một năm dài, thời gian càng dài mối sầu càng nặng nề hơn.

    → câu thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng tột độ trong lòng người chinh phụ

    e. hoạt động gắng gượng duy trì nếp sống hằng ngày.

    – Điệp từ “gượng”: nhấn mạnh sự cố gắng gò ép mình của người chinh phụ

    – mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm:

    + Đốt hương tìm sự thanh thản nhưng tình cảm lại mê man theo những suy nghĩ viển vông, khắc khoải, những dự cảm chẳng

    l

    + soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.

    + gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.

    ⇒ tiểu kết:

    – nội manure: khắc họa tâm trạng cô ơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn sau đó thati ộộ cảm thông, Chia sẻ của tac giả ối với đau khổ củ củ.

    – nghệ thuật:

    + giọng thơ trầm buồn, khắc khoải, da diết, trầm lắng

    + khắc họa nội tâm nhân vật tài tình, tinh tế thông qua hành động nhân vật, yếu tố ngoại cảnh, độc thoại nộp>

    + các biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ, từ láy.

    2. nỗi nhớ nhung của người chinh phụ.

    a. Ước muốn của người chinh phụ.

    – “gió đông”: gió mùa xuân mang theo hơi ấm và sự sống

    – “non yên”: Điển tích chỉ nơi biên ải xa xôi

    – “nghìn vàng”: hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ (buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hi vọng rồi thl)</Với Các Hình ảnh ẩn dụ và đi đn tích đã chol the ướy ước muốn của người chinh phụi gửi gắm ni ềm hi vọng, thương nhớ vào ngọn gó xuânn mang ến nnơi n cùng nàng.

    b. nỗi nhớ của người chinh phụ

    – Thủ PHAPP đIệP LIêN HONN “NON YêN – NON YêN, TRờI – TRờI”: NHấN MạNH KHOảNG CACH XA Xôi, TRắC TRởC TRở KHôNG GĂ người chinh phụ

    – từ lay “thămmm, đau đáu”: cực tả cung bậc của nỗi nhớ, thẳm thẳm là nỗi nhớ sâu, dai dẳng, triền miên, đáu đáu là nỗnhớ gắn với ới ới ới ới ới ới ới ới ới ới ới ới ới ới ới ới ới đi đi ới đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đ p>

    → câu thơ ghi lại một cách tinh tế, cảm động sắc thái nỗi nhớ, nỗi nhớ mỗi lúc một tăng tiến, dồn nén trở nỗ thành>

    → sự tinh tế, nhạy cảm, đồng điệu của tác giả.

    c. mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh.

    – “cảnh buồn”, “người thiết tha lòng”: cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau

    – cảnh vốn là vật vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật.

    → thủ pháp tả cảnh ngụ tình, người chinh phụ đã hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến nó cũng trở nên não nề.

    ⇒ tiểu kết.

    – nội dung: khắc họa nỗi buồn, nỗi đau, nỗi nhớ của người chinh phụ, ẩn sau đó là sự ồng cảm, trân trọng của tac giả ối với số

    – nghệ thuật:

    + sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp liên hoàn, từ láy

    + thủ pháp tả cảnh ngụ tình

    + giọng điệu da diết, buồn thương

    iii. kết bai

    – khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích

    – liên hệ với số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​​​phải xa chồng vì chiến tranh phi nghĩa: vũ nương. qua đó, phê phán chiến tranh phi nghĩa tước đi hạnh phúc người phụ nữ.

    2. phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngắn gọn

    ặng trần côn (chưa riqute năm sinh, năm mất) người làng nhân mục, tên nôm là làng mộc, huyện thanh trì, nay thuộc phường nhân chynửnh, quẙnh, quẙn. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ xviii. về sáng tác, ngoài tác phẩm chính là chinh phụ ngâm, ông còn làm thơ chữ hán và viết một số bài phú chữ hán. theo các tài liệu lịch sử, đầu đời lê hiển tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành thăng long. triều đình cất quân đánh dẹp, nhiều trai trải từ giã người thân ra trận. Đặng trần cảm động trước nỗi khố đau mất mát của with người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh, đchin ã viết. khúc ngâm này gồm 476 câu thơ làm theo thể trường đoản cú (câu thơ dài ngắn không đều nhau).

    tác phẩm đã được dịch ra chữ nôm, và chưa biết ai là tác giả bản dịch hiện hành. có người cho rằng đó là bản dịch của Đoàn thị Điểm. lại có người cho rằng phan huy Ích chính là dịch giả của chinh phụ ngâm. Đoạn trích dưới đy thuộc bản dịch hiện hành, viết về tình cảm và tâm trạng người chinh phụi sống cô ơn, mỏi trong thời gian dài người chồng đi đi ởn, kh. kể từ lúc she tiễn chồng vào “cõi xa mưa gió” người chinh phụ trở về sống trong tình cảm đơn chiếc, lẻ loi. ngày cũng như đêm, sau khi công việc đã yên mọi bề, người chinh phụ

    dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.ngoài rèm thước chẳng mách tin,trong rèm, dường đã cóng đèn bi?

    bốn câu thơ song thất lục bát với vần điệu chặt chẽ, thăng trầm như những nốt nhạc buồn càng làm ậm thêm tình cảnh cảnh. người trước có lúc sóng đôi vợ chồng thì nay “thầm gieo từng bước” dưới mái hiên vắng vẻ. ngày nào bàn chuyện làm ăn cùng chồng bên cửa sổ thì nay buông xuống kéo lên nhiều lần mong ngóng nhưng chẳng thấy chim thước báo tin Lành. Ngày thì như thế, còn đêm thì không ngủ ược, một mình ối diện với ngọn đèn khuya. tình cảnh của người chinh phụ qua lẻ loi, ơn chiếc. với bóng lạnh lùng.

    khắc giờ đằng đẵng như niên,mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

    hai câu lục bát, một câu miêu tả thời gian, một câu miêu tả nỗi buồn. cả hai câu đều mang nghệ thuật so sánh. Trong tình cảnh lẻ loi ấy thì một giờ là ợi dài tựa một năm, như người xưa thường ví “nhất nhật bất kiến ​​như tam thu hề”, ngày sau này xuân quỳnh tâm sự “ đầu thương nhớ”. thời gian chờ đợi càng dài thì nỗi sầu càng lớn “tựa miền biển xa”. tình cảnh đã bước qua tâm trạng. Đấy là tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ gửi tới chồng de ella ở miền xa. nỗi nhớ thương thật tha thiết.

    lòng này gửi gió đông có tiện?nghìn vàng xin gửi đến non yênnon yên dù chẳng tới miền,nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng

    bốn câu thơ trên là lời tâm sự của vợ gửi đến chồng. nhưng chim thước không có để nhờ mang thư đi. vậy thì she gửi lời nhớ thương theo gió. nhưng gửi theo gió đông thì gió có mang lời thủ thỉ đến được tai chàng? biết she chàng đang ở nơi nào ngoài mặt trận? thôi thì lòng thương quý chàng xin ược gửi ến nơi xa nhất màng tới như ậu hi hi hi ời hậu Hán đálh đuổi giặc bắc thiền vu ến no and nhi, bởi vì: <p.

    “nay hán xuống bạch thành đóng lại,mai hồ vào thanh hải dom qua. ”

    ời chiến binh là như thế, là “ôm yên, gối trống đã chôn, / năm vùng cát tráng ngủ cồn rêu xanh”, chưa kể ời chiến binh mấy ngİờtri . tình thương, nỗi nhớ của nàng là như thế. nhong:

    trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.cảnh buồn người thiết tha lòng,cành cây sương đƺṿm tr>m ti>

    dù là “trời” thì trời cũng khó mà hiểu thấu tình thương và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ. Các từ lay “Thămmm, đau đáu” Càng làm tăng thêm sự không hiểu biết, không thấy ược của trời, và chỉ cc người cuuộc (người chinh) mới cảm nhận r. cảnh thì buồn, đến cả cây cỏ và tiếng côn trùng cũng não ruột. còn tình thì da diết thiết tha. Thể Thơ Song Thất Lục Bát vốn Thích Hợp với tự sự, Trong đoạn trích, bản dịch lại dùng pHép so sánh, từ lặp và từt một cach tự nhiên càng làm tĂng thêm giá n.

    ọc đoạn trích người ọc cứ ngỡ ngàng rằng chỉ ể miêu tả tình cảnh lẻ loi, thể hiện tâm trạng khát khao tình yêu cờa ngƥỰ chin. nhưng nếu nghĩ sâu xa hơn thì đoạn trích bày tỏ sự oán ghét chiến tranh. Chiến Tranh đã Chia rẽ tình yêu, ngăn cach hạnh phúc lứa đôi của nhiều thế hệ, nhất là thế hệ trẻ, cr lẽ vì thế mà tac pHẩm đã ược ộc giảc thờt sứt. nhiều người còn dịch chinh phụ ngâm sang thơ nôm (tức thơ tiếng việt) để khúc ngâm được truyền bá rộng rãi hơn. bản diễn nôm hiện hành là bản dịch thành công nhất.

    3. phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay

    văn học thế kỉ xviii là văn học của những tiếng nói cảm thương, cảm thông cho số phận bất hạnh của người phụ nữ. ngoài kiệt tác truyện kiều của nguyễn du ta cũng không thể không nhắc đến tác phẩm chinh phụ ngâm của Đặng trần côn. tác phẩm là tiếng lòng thiết tha, thổn thức của người phụ nữ khi có chồng phải ra chiến trận. tâm trạng của nhân vật được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

    theo các cứ liệu lịch sử, vào đầu đời vua lê hiển tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành thăng long. triều đình phải cất quân ra trận, nhiều trai tráng phải từ giã gia đình, người thân ra trận. có bao nhiêu những chàng trai lên đường thì có bấy nhiêu người phụ nữ, người vợ ở nhà trong nhớ thương, buồn tủi. tác giả Đặng trần côn đồng cảm với nỗi niềm của người phụ nữ để nói lên nỗi lòng của họ. Trib đoạn ược tribs từ câu 193 ến câu 216 diễn tả tâm trạng của người chinh phụ khi she phải xa chồng, thế giới tâm trạng đó ược thển qua rất nhi -cung bậc cảc cảc cảc cảc c.

    TRướC HếT TâM TRạNG BồN CHồN LO LắNG, NHớ THươNG CủA NHâN VậT ượC THể HIệN TRONG CAC HànH ộNG LặP đI LặP LạI NHIềU LầN: DạO HIêN VắNG THầM GIEO T. bước chân chậm chạp, nặng trĩu tâm trạng, trong đó chất chứa biết bao nỗi niềm chán ngán của người chinh phụ. bước chân này khác với bước chân của nàng kiều khi she tìm đến tình yêu: she xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. người chinh phụt hết ứng lên lại ngồi xuống, tâm trạng nàng thấp thỏm, bất an bởi lo lắng choc sinh mệnh của chồng of it ở nơi chiến trường ầy nguy hiểm. tâm trạng bất an ấy còn thể hiện qua hành động: ngồi rèm thưa rủ thác đòi phe, nàng hết buông rèm xuống nàng lại cuốn rèm lên, dường như đó là hành động vô thức, nàng làm không chủ động làm mà trong vô thức thực hiện hành động để vơi bớt nỗi âu lo. she hết ngắm ra ngoài bức rèm để mong chờ tin tức tốt lành lại thẫn thờ quay vào đối diện với ngọn đèn đơn độc.

    trong nỗi bồn chồn ấy còn là cả nỗi nhớ, thao thức, mong ngóng chồng quay trở về. trong văn học, ngọn đèn thường ược sử dụng ể nói về nỗi nhớ mong, thao thức, ta đã biết ến qua bài ca dao: đèn thương nhà khớ a. hay trong chuyện người with gái nam xương, người vợ nhớ chồng nên đêm đêm she chỉ bóng mình trên tường nói với with đó là bố. hành động đó cũng thể hiện nỗi nhớ thương. Đây là hình ảnh xuất hiện nhiều trong văn học, và trong tác phẩm người chinh phụ cũng lấy ngọn đèn để thể hiện nỗngi hƻ. trong căn phòng trống vắng, quạnh hiu, chỉ có cây đèn là người bạn để chia sẻ mỗi nỗi lòng với người chinh phụ. vì vô tri vô giác nên chinh phụ rất đau khổ nhận ra rằng “Đèn có biết dường bằng chẳng biết”.

    nàng càng thấm thía hơn nỗi cô đơn cùng cực của chính mình. Để nhấn mạnh hơn nữa vào tình cảnh tội nghiệp của mình, hình ảnh hoa đèn kia với bóng người khá thương, hoa đèn là tàn kết lại đầu sợi bấc đèn cháy đỏ như hoa đèn, là dấu hiệu khi dầu hao, bấc hỏng. chứng tỏ người chinh phụ đã thao thức rất nhiều đêm, triền miên, khắc khoải, mong nhớ về chồng of her. không gian bên ngoài làm cho nỗi cô đơn của người chinh phụ được khắc họa rõ nét hơn, tiếng gà eo óc cho thấy âm thanh thê lƺơơng, không. kết hợp với từ láy phất phơ cho thấy nhịp điệu buồn tẻ, chậm rãi, cho thấy tâm trạng ngao ngán của người chinh phụ. hai hình ảnh tương hỗ để diễn tả sự thao thức triền miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn, lê loi. từ đó người chinh pHụ cảm nhận thấm thía nỗi cô ơn hơn bao giờ hết: khắc giờ ằng ẵng như n iaên/ mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa, thời gian trôi qua r. cách đo đếm thời gian trong tâm trạng buồn chán cũng được nguyễn du nói đến: sầu đong càng lắc càng đầy/ ba thu dọn lại ghêt d. mối sầu trải dài mênh mông đến không cùng. dùng biện pháp so sánh để diễn tả cụ thể tâm trạng của chinh phụ để thấy nỗi buồn mênh mông.

    nỗi cô đơn bủa vây, người chinh phụ gắng gượng, tìm mọi cách để trốn chạy nỗi cô đơn. she nàng đốt hương để tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn of her, nhưng hồn đà mê mải, người chinh phụ càng chìm đắm hơn trong nềni mu. she nàng lấy gương soi, ể tìm thú vui trong việc chỉnh trang nhan sắc, nhưng khi soi gương lại phải ối mặt với sự cô ơn, lẻ loi, hơnaẻ nàn ranton. khiến of her nước mắt of her ngày càng chan chứa, nỗi đau khổ of her lại càng ngập đầy hơn, she nàng thấm thía nỗi cô đơn, tuổi thanh xuân tàn cán. nàng gượng đánh đàn nhưng khi chạm đến nàng lại tự ý thức về tình cảnh của mình, nàng thấy tủi thân trước những biểu tượng đôi lứa, ẩn chứa trong các nhạc cụ : Đàn sắt, đàn cầm: gảy hòa âm với nhau được ví cảnh vợ chồng hòa thuận. dây uyên: dây đàn uyên ương – biểu tượng cho lứa đôi gắn bó, hòa hợp. phím đàn loan phượng – biểu tượng của lứa đôi gắn bó. tất cả các nhạc cụ để có đôi có lứa, chỉ có mình mình cô đơn, lẻ bong. thậm chí nỗi cô ơn đã khiến nàng lo lắng, sợ hãi chơi đàn dây sẽ bị ứt, phÍm đàn bị chùng, đó là những biểu hiện khĻnứ cầm can m. she nàng tìm đến những nhạc cụ nhưng she lại không chạy trốn được nỗi cô đơn. chinh phụ cố gắng tìm quên bằng cách tìm ến những thú vui những càng tìm quên she lại càng ối diện với bi kch của mình, càng đau khổ hƿn bao hờ giờ.

    nàng tìm đến thiên nhiên, nhưng thiên nhiên lại cho thấy khoảng cách vời vợi giữa nàng và chồng. non yên – nơi chiến trận ngoài biên ải xa xôi, khoảng cách xa vời khôn thấu. nàng tìm cách ể vượt qua khoảng cách, gửi lại tất cả những nhớ nhung cho chồng bằng ngọn gió đông, nhưng đy chỉ là giải pháp tưởng. Nàng lại phải ối mặt với thực tại, Thía với bi kịch của mình: cảnh xung quanh hiện hữu trước mắt of her, sương khuya lạnh lẽo, tiếng trùng rả rích trong đêm. cảnh tượng thê lương, ảm đạm, đang bủa vây lấy người chinh phụ, nàng sống trong đau đớn, nhớ thương. Đoạn trích đã cho thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình. tâm lí người chinh phụ được miêu tả ở nhiều cung bậc khác nhau thông qua hành động và ngoại cảnh. thể thơ song thất lục bát cùng hệ thống từ láy giàu giá trị gợi hình, gợi cảm đã diễn tả thế giới nội tâm phong phú của nhân>

    qua trích đoạn, Đặng trần côn đã diển tả thành công những cung bậc, sắc thái khác nhau của người chinh phụ, nồi cô đơnth. qua đó diễn tả khát khao hạnh phúc lứa đôi, đây là net mới trong chủ nghĩa nhân đạo của ông. Đồng thời cũng là lời tố cáo mạnh mẽ, đanh thép chiến tranh phong kiến ​​​​phi nghĩa đã chia lìa hạnh phúc lứa đôi.

    4. phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đầy đủ

    chinh phụ ngâm được tác giả Đặng trần côn sáng tác bằng chữ hán vào khoảng nửa đầu thế kỉ xviii, thời kì vô cùng rối hội pội pối. chiến tranh xảy ra liên miên hết lê – mạc đánh nhau đến trịnh – nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. ngai vàng của nhà lê mục ruỗng. nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. dân chúng sống trong cảnh loạn li nấu da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. văn học thời kì này tập trung phản ang bản chất tàn bạo, phản ộng của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế ộ ộ ối tác phẩm chinh phụ ngâm của Đặng trần côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp nho sĩ. Co nhiều người dịch tac pHẩm này sag chữ nôm, trong đó bản dịch của nữ sĩ đoàn thị điểm ược đánh Giá Làn Hảo hơn cả bởi nhn gần nhán vẹá n. p>

    nội dung chinh phụ ngâm phản ánh thái ộ oán ghét chiến tranh phong kiến ​​​​phi nghĩa, ặc biệt là ềề cao quyền sống cùng cùng khát vọÚn vọÚn hàc hàc hàc yê . Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.

    người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. she nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn de ella chồng mình sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, she nàng phải sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm she xót xa lo lắng cho chồng of her. thấm thía nỗi cô đơn, she nàng nhận ra de ella tuổi xuân của mình đang trôi qua vùn vụt và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày càtr vảan . vì vậy mà she nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, sầu khổ triền miên. khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng ấy.

    đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 ến câu 228) Miêu tả những cung bậc và sắc this khác nhau của tâm trạng cô ơn, buồn khổ ở ở ẻ ở ở ở tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

    Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:

    Đoạn một (từ câu 1 đến câu 16): nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không được.

    Đoạn hai (từ câu 17 đến câu 28): nỗi nhớ thương người chồng ở phương xa; cảnh ảm đạm khiến long chinh phụ càng thêm sầu thảm.

    Đoạn 3 (từ câu 29 đến hết): khung cảnh thiên nhiên khiến lòng người chinh phụ rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi.

    sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo chắng cho. một lần nữa, she nàng tự hỏi vì sao đôi lứa uyên ương lại phải chia lìa? vì sao she mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? bấy nhiêu câu hỏi đều không có lời đáp. tâm trạng băn khoăn, day dứt của người chinh phụ được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. có thể nói, sầu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.

    trong phần đầu, hành động và tâm trạng của người chinh phụ đã được ngòi bút sắc sảo của tác giả khắc hoạ rõ> net:

    dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcngồi rèm thưa rủ thc đòi phen.ngoài rèm thước chẳng mách tin, trong rèm dường đcn bi. rầu nói chẳng nên lời, hoa đèn kia với bong người khá thương!

    nàng lặng lẽ “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước” trong nỗi cô đơn đang tràn ngập tâm hồn. nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng. giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. she nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng chim thưỳc báoẺ y vui mà thch>

    nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. không gian im ắng, chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng. lúc ầu, she nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi she lại nghĩ: đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi và vởi nóc. nhìn ngọn đèn chong suốt nĂm Canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt líên tưởng ến of her tình cảnh của mình và trong lòng rưng rưng nỗi thủn tớn “hotn n: hom.

    hình ảnh người chinh pHụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt nĂm ượ ượ ượ ượ ượ ượ. phụ.

    tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài hiên vắng, trong phòng lạnh … nỗi cô ơn tràn ngập khadng gian và keo dài vôn vôn the đn g, đn g, đn

    cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng ới ủu: n

    gà eo óc gáy sương năm trống,hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.khắc giờ đằng đẵng như niên,mối sầu dằng dặc tựa mi.

    tiếng gà gáy báo sáng làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. những cây hòe phất phơ rủ bóng gợi cảm giác buồn bã, u sầu. giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào!

    Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:

    hương gượng đốt hồn đà mê mải,gương gượng soi lệ lại châu chan.sắt cầm gượng gảy ngón đàn,dây uyên kinh ĺṹm chëng, loan

    người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. she nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khoả nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng of her. chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc. khi “hương gượng đốt” thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. lúc “gương gượng soi” thì nàng lại không cầm ược nước mắt bởi vì nhớ gương này mình c c cuar nàng cố gảy khúc đàn préstamo phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia ra đôi ngả, ầy những dự cảm chẳng lành: dây uyên kinh ứt, phim ngạ.

    sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. dường như người chinh phụ không dám ụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm ến sự chia lìa đôôôitor tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi, khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. mong chờ chồng trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo ngọn gió:

    lòng này gửi gió đông có tiện ?nghìn vàng xin gửi đến non yên.

    sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao ộ, người chinh phụ chợt nảy ra một ý nghĩ rất chân thành mà cũng rấngụ n. she đối đầu từng ngày từng giờ với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. chắc chắn, she chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đinh cùng với bóng dáng thân yêu của người vợ trẻ:

    non yên dù chẳng tới miền,nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

    không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vô biên: nhớ chàng thăm thẳm ổng lên bên. thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm with đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm with đường lên trời. câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong văn chương nước ta thời trung:đ

    trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

    hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ hay chăng? nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đau đớn khôn nguôi:

    cảnh buồn người thiết tha lòng,cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

    giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương. sự giá lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. cũng giọt sương ấy ọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao són tình cảnh ấy, tâm tâm hội phong kiến ​​​​xưa kia. Ý thơ đi từ tình ến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ lặp đi lặp lại như vậy nhằm thể hi hi ện riqute tình cảnh lẻ loi và tâm trạng cô ơn của người fụ. dù ở đâu, lúc nào, làm gì nàng cũng chỉ lầm lũi, vò võ một mình một bóng mà thôi!

    bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trở về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh lẽo đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn:

    sương như búa, bổ mòn gốc liễu, tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

    hình như người chinh phụ đã thấm thía sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. tuy nhiên ến câu: “sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi” thì không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người phụ mới thất vọng m.

    tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong chinh phụ ngâm:

    vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc, một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.lá màn lay ngọn gó xuyên, bong hoa Theo bony từng bông.nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!

    ý thơ đi từ tình ến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứi qua dội lại như vậy nhằm thể hi hi richte trạng ở đ đu, lúc nào, làm … người chinh tộtt thôi!

    từ thốc rất mạnh trong câu “một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên” báo hiệu chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. cảnh hoa – nguyệt giao hoà khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đối. những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa đôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.

    tac giả lựa chọn và dùng từt kĩ, rất ắt, ặc biệt là các từ từ là từ lay làm nổi bật tính chất của sự vật: eo ° chan, thăm thẳm, đau đáu tác giả đã khai thác và phát huy một cách tài tình âm hưởng trầm bổng, du dương của thể thơ song thất lục bát để diễn tả cảm xúc giống như những đợt sóng dạt dào trong tâm trạng người chinh phụ, hết nhớ lại thương, hết lo lắng lại trông mong, hết hi vọng lại tuyệt vọng … trong tình cảnh lẻ loi ơn chiếc.

    bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm ảm củi. cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh pHụ đang sống trong tình, cảnh lẻ loi vì vì chồng pHải Tham Gia vào những curánh giành quyền lực của vua chúa, tác gec gec gec gec gec gec gec gec gec gec gec gec gec gec gec gec gec gec gec à à à à à à à à à à à à bất bình, phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. tac pHẩm chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ ạo trong văn chương một thời, đó là tưng đòi quyền sống, quyền ược hưởng hạnh đt chính đng củi.

    5. phân tích bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ siêu hay

    “người lên ngựa, kẻ chia bàorừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”

    văn học việt nam đã từng chứng kiến ​​​​biết bao những cuộc chia li, tiễn biệt đầy lưu luyến như thế. và ở thế kỉ thứ xviii, “chinh phụ ngâm” một tac pHẩm lấy từ ề tài chia li trong chiến tranh đã của ặng trần côn đã chung ta thấy ược một cuộc tiễn biệt thấm ẫm ẫm người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đoạn trib “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã làm nỗi bật lên nỗi lẻ loi cô ơn c cùng những nhớ mong, và cả những khao khát hạnh phúc của người người người người người người người người

    nhà văn tô hoài đã từng khẳng định: “mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nóra đời”. thời ại của ặng trần côn là thời kì mà chiến tranh các tập đoàn pHong kiến ​​diễn ra liên miên và pHong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, nhà nhà nhà nhà sống tong trong cảnh cảnh lầm que, tang tóc. khi thời đại đưa cho ông một đề tài quen thuộc “hiện thực chiến tranh”, bằng cảm hứng nhân đạo của mình, Đặng trần côn đã chiếu ngòi bút của mình xuống những nỗi đau của người phụ nữ trong chiến tranh để cất lên tiếng nói của with người thời đại, tiếng nói oán ghét chiến tranh phi nghĩa, tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc qua khúc tự tình trƝng ưn h. xuyên suốt toàn bộ tac pHẩm, qua nỗi niềm của người chinh phụ có chồng ra trận, tac giả đã đã ểi cho người ọc cảm nhận nỗi đau ương trong chiến tranh của cảa cả NếU ở nơi chiến ịa, Chinh phu đang từng ngày từng giờ ối mặt với cai chết thì chinh phụ nơi quê nhà cũng đang mòn mỏi chời ợi trong vôn vọng, và chìm ắm ắm ắm ắm Ba Sáu Câu Thơ Trong đoạn Trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” như tích tụii đau, nỗi nhớ thương và niềm khao khát hạnh phonc lứa ởng sâu nhất củt thá.

    mở ầu đoạn trib, tác giả đã khắc họa bức chân dung tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô ơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ch ngày:

    “dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcngồi rèm thưa rủ thác đòi phenngoài rèm thước chẳng mách tintrong rèm dường đã có đèn biết?”

    giữa một không gian tịch mịch “vắng” và “thưa”, người chinh phụ hiện lên như hiện thân của nỗi cô đơn. nàng đi đi lại lại, những bước chân của nàng không phải là bước chân “xăm xăm” khi nghe thấy tiếng gọi của tình yêu, hạnh phúc của nàng kiều mà những bước chân ấy gieo xuống từng bước như gieo vào lòng người đọc những thanhâm của sự lẻ loi cô độc. She Nàng Hết Buông Rèm Rồi Lại Keo Rèm ể Hướng Ra Ngoài, Hướng vềii Biên ải Xa Xôi Kia ể Mong Ngóng Chút tin tức của chinh phu nhưng không có dấu hi hi hồu hồu hồu hồi đ nhịp thơ chậm, kéo dài như ngưng tụ cả không gian và thời gian. DườNG NHư Hành ộNG Nàng đang LặP đi Lặp Lại Một Cách vô thức bởi tâm Trí Nàng giờ đy đang dành trọn cho người chồng of her nơi chiến trường ầy hiểm nguy. những thao tác trữ tình ấy đã lột tả được tâm tư trĩu nặng và cảm giác bế tắc không yên của người chinh phụ. trong nỗi bồn chồn khắc khoải ấy, she nàng mong ngóng một một người có thể sẻ chia những tâm tư nhưng tất cả chỉ có một ya đpè>

    “Đèn có biết dường bằng chẳng biếtlòng thiếp riêng bi thiếp mà thôibuồn rầu chẳng nói nên lờihoa đèn kia với bóng ngưƝi khá

    ngọn đèn vừa chứng kiến ​​​​vừa soi tỏ nỗi cô đơn của người phụ nữ xa chồng. khi ối diện với ngọn đèn là người pHụ nữ đáng thương ấy đang tự ối diện với chynh mình, dưới ang sáng của ngọn đèn mà her tựi chải chải nđau của ch. Để rồi những tâm tư ấy bật thành lời tự thương da diết “hoa đèn kia với bóng người khá thương”. she nàng thấy mình chỉ như kiếp hoa đèn kia mỏng manh và dang dở, thấy sự tàn lụi ở ngay trước mắt mình. nếu ngọn đèn không tắt đồng hành với người phụ nữ trong ca dao thắp lên nỗi nhớ thương:

    “Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt”

    ngọn đèn trong đêm với thúy kiều đã trở thành nhân chứng của nỗi đau của người with gái tài sắc:

    “một mình một ngọn đèn khuyaÁo đầm giọt tủi tóc se mái đầu”

    thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chinh phụ soi bóng trong đêm lại là sự hiện diện của lẻ loi, đơn chiếc, trối. hình ảnh hoa đèn và bóng người như phản chiếu vào nhau để diễn tả nỗi cô đơn đên héo úa canh dài, đến hao mòn cả thể t. Dường như nỗi niềm ấy đã vo tròn, nén chặt đè nặng trong lòng người chinh phụ, và trở thành nỗi “bi thiết” không thể nói lời, là nỗi “buồn rầu” ến n nảm. Chỉ Gợi lên qua những bước chân, ộng tac, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất ộng trước ngọn đ đ đ đ đn khu, qua dáng ngồi qua dáng ngồi bất ộng trước ngọn đ đ đ đn khu. :

    “gà eo óc gáy sương năm trốnghòe phất phơ rủ bóng bốn bên”

    hình ảnh “bóng hòe phất phơ” suốt ngày dài c cùng biện pháp lấy ộng tả tĩnh với sự xuất hiện âm th. . “eo Óc” đó là âm thanh thưa thớt trong một không gian rộng lớn, hiu quạnh có cảm giác tang tóc, tang thương đã bộc lộ sâu sắc nắc nỗi chán thâm chể chọ ch. nàng đã thức trọn năm canh để nghe thấy tận sâu trong đáy lòng mình nỗi sầu, nỗi đau vô hình ấy. từ lay “phất pHơ” đã biểu ạt một cach tinh tế dáng điệu võ vàng của người chinh pHụ, tâm trạng của một người vợ ngónng chờng từng chút hình ảnh của người chồng of it. tâm trạng của nhân vật trữ tình như đang thấm đẫm, lan tỏa cả trong thời gian và xuyên suốt cả thời gian. tác giả đã biến thời gian thành thời gian tâm lí, không gian thành không gian cảm xúc bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh trong hai câu thơ:

    “khắc giờ ằng ẵng như niênmối sầu dằng dặc tự miền biển xa” câu thơ theo đúng nguyên tác của ặng trần côn: “sầu” tikhằha h></

    chỉ thêm hai từ lay “dằng dặc” và “ằng ẵng” cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu cảu Kể từ khi chinh phu ra đi, một ngày trở nên dài lê thê như cả một năm, những mối toan, nỗi buồn sầu như đông ặc, tích tụ đ ặng lên tâm hồn ng ườ ny. từng ngày, từng giờ, từng phút người chinh pHụ vẫn đang chiến ấu với nỗi cô ơn, chiến ấu ểể thoot khỏi cuộc sống tẻ nhạt của chính mình:

    “hương gượng đốt hồn đà mê mảigương gượng soi lệ lại châu chansắt cầm gượng gảy ngón đàndây uyên kinh đứt, phim ng”i loan>

    điệp từ “gượng” ược điệp đi điệp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự nỗ lực vượt thot ấy của người chinh phụ. nàng gượng đốt hương để kiếm tìm sự thanh thản thì she lại rơi sâu hơn vào cơn mê man. she nàng gượng soi gương để chỉnh trang nhan sắc thì she lại chỉ thấy những giọt sầu. nàng gượng tìm đến với âm nhạc để giải tỏa thì she nỗi âu lo về duyên cầm sắt và tình loan phượng lại hiện hình. Dường như She nàng đang mang trong mình qua nhiều những nỗi sợ, lắng, bởi thế, người chinh phụ không những không thể giải tỏa ược nỗi niềm bản m ữn m ữn m ữ nỗi cơ đơn, lẻ loi của người chinh phụ được đã đặc tả bằng bút pháp trữ tình đa dạng để độc giả có thể cảm nhận được tâm trạng ấy của nhân vật trữ tình ngay cả khi ngày lên cũng như khi đêm xuống, luôn đồng hanh cùng người chinh phụ cả khi đứng, khi ngồi, lúc ở trong phòng và ngoài phòng và bủa vây khắp không gian xung quanh. sự cô đơn ấy đã làm hao gầy cả hình dáng và héo úa cả tâm tư và người chinh phụ như she đang chết dần trong cái bọc cô đyơn

    sống trong không gian cô đơn ấy, nàng chỉ biết nhớ về người chồng nơi biên ải xa xôi kia với một tấm lòng thủy chung, sắt are:

    “lòng này gửi gió đông có tiệnnghìn vàng xin gửi đến non yênnon yên dù chẳng tới miền,nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằing” tr>

    người chinh phụ đã gom hết những yêu nhớ, thương xót và cả lòng thủy chung của mình vào gó đông, nhờ cơn gió mùa xuân ấm ap gửi tâm tưm kí củn những hình ảnh có tínnh tượng trưng ước lệ như “gó đông”, “Non yên”, “Trời thăm thẳm” vừa gợi ra không gian rộng lớn vônnnnnn nó tấm lòng chân thành, what’s up with her phải chăng ngọn gió đông đánh thức tâm hồn chinh phụ cũng chính là ngọn gió xuân đánh thức giấc mộng ái ân khuê phòng trong “xuân tứ” cỡtha>

    “cỏ non xanh biếc vùng yêncành dâu xanh ngà ở bên ất tầnlòng em đau ớn Muôn pHầnphải chăng là lúc pHu quân nhớ Ling BứT Ling BứT Ling BứT Ling BứT Ling BứT Ling BứT Ling BứT Ling BứT Ling BứT Ling BứT Ling BứT Ling Bứt Ling Bứt Ling Bứt Ling Ling Bứt Ling Bứt Ling Bứt Ling Bứt Ling Bứt Ling Ling Ling Ling Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt Bứt BứT BứT BứT BứT BứT BứT BứT BứT

    nhưng nỗi thương nhớ của người chinh phụ người ta còn thấy được cả dư vị của nỗi đau, sự ngậm ngùi, xót xa:

    t xa:

    “trời thăm thẳm xa vời khôn thấunỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”

    hai từ láy “thăm thẳm” và “đau đáu” đã biểu đạt trực tiếp sắc thái củ nỗi nhớ thương ấy của người chinh phụ. nếu hai từ “thăm thẳm” gợi nên trường ộ của nỗi nhớ nhung trải dài dằng dặc, triền miên trong không gian thì ộ ộu của nỗi nhớ ược thển qua tệau đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ hình ảnh ường lên trời mù mịt, xa xăm cũng giống như bi kịch nỗi nhớ mong của nàng chẳng biết đu là bến bờ, chẳng biết ến khi nào ng ng chồng trở ề ề ề ề ề ề ề ề ề

    “cảnh buồn người thiết tha lòngcành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

    cảnh vật xung quanh chính là tâm cảnh bởi nó đã ược nhìn bởi đôi mắt ẫm lệ, đã nhuốm màu tâm trạng của chủn.tr th ý thơ đ nguyễn du trong kiệt tác “truyện kiều”:

    “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầungười buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

    câu thơ như một tấm bản lề khép lại nỗi nhớ nhung sầu muộn dẫn người ọc ến với nỗi sầu muộn của ngưỡu phủa ngưph. Trong bức tranh mùa đông ược gợi mở, tac giả đã sử dụng biện phap so Sánh bất ngờ ể ể cực tả nỗi sầu muộn và cảm gic lạnh lẽo Trong lòng

    “sương như búa bổ mòn gốc liễutuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”

    nỗi đau ớn sầu muộn ấy khi thã nặng nề như búa bổ, khi thì nặng nư như cưa xẻ còn “gốc liễu” “cảnh ngô ấy phải chăng chynnh là hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi cả dung nhan và tâm hồn nàng dường như đang bị tàn phá không phải chỉ bởi cái lạnh lẽo của sương tuyết mà còn là cái lạnh lẽo, đ ơnh quan. mùa đông của thiên nhiên nhiên giờ đây đã hóa thành mùa đông của cuộc đời người chinh phụ.

    “giọt sương phủ bụi chim gùsâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi”

    tiếng chim gù trong bụi cây sương pHủ, tiếng côn trùng nỉ non não nề trong đêm sương phải chăng nhà thơ muốn bật lên tiếng lòng tê buốt lạnh giáácườa ười chinh chinh chinh pHụ? phải chăng không chỉ là tiếng sâu tường bên cạnh “vẳng” ra, tiếng chuông chùa từ xa “nện” lại mà đó còn là những cơn sone dữi dội, thha thiết và nhức nhức nhứ tất cả những âm thanh như đang xoáy sâu vào tâm hồn, ăn mòn tâm trí của chinh phụ. với sự thành công của biện pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của thi ca cổ điển nhà thơ không chỉ tô đậm ấn tượng lạnh lẽo của bức tranh mùa đông mà còn đang phơi bày thế giới nội tâm lạnh giá của người chinh phụ. nếu không phải là một ngòi Bút khắc họa tâm lí sắc sảo chắc chắn sẽ không thể miêu tả tâm trạng của người chinh pHụ sâu sắc và tinh tến thế.

    tưởng chừng như người chinh pHụ sẽ mãi chìm ắm trong nỗi sầu mouộn ấy, nhưng trong giây pen nàng đã ế

    “vài tiếng dế nguyệt soi trước ốcmột hàng tiêu gió thốc ngoài hiênlá màn lay động gió xuyên,bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèmhoa đãi nguyệt, nguyệt in một tấmnguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bôngnguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiêt đâu”

    BứC TRANH HOA NGUYệT LộNG LẫY ấY đã ượC NHà thơ khắc họa bằng thủ Phap Trùng điệp Liên Hoàn tạo ra những hình ảnh lồng xoáy vào nhau, những lớnh. hoa phô bày vẻ đẹp dưới ánh trăng vàng và vầng trăng tỏa sáng lại phản chiếu bóng hình hoa trên mặt đất. sắc hoa ngời lên dưới nguyệt và cuối cùng kết tinh lại ở hình ảnh ẹp nhất, một biểu tượng ý nghĩa nhất: nguyệt và hoa giao hòa quấn quýn lẫn nhau. phải chăng chính sự giao hòa của thiên nhiên, tạo vật đã đánh thức niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi thầm kín trong lòng chinh᥺? nhưng phải chăng cũng bởi thế mà nỗi đau về sự lẻ loi lại quay lại với nàng mà còn như khơi sâu thêm hơn nữa? Ến thiên nhiên vô tri vô giác còn có cảm giác hạnh phúc lứa đi, còn nàng, nàng có một mình với một tấm lòng thủy chung chời chồng n nhhual n. c cùng với hình ảnh, âm điệu của lời thơ cũng trở nên tha thiết, nồng nàn như những with sóng của niềm khao khát đang dâng lên trong lòng Ự. Đến đây, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến mức điêu luyện. nếu ở đoạn thơ trên tác giả đã gửi tình vào cảnh thì ở đoạn sau tác giả đã để cho cảnh gợi tình. những hình ảnh mĩ lệ của hoa lồng nguyệt và nguyệt lồng hoa hết sức mĩ lệ đã thể hiện hết sức tế nhị những khao khát thầm kín và mãnh liệt của người chinh phụ – đó cũng là những khát vọng trần thế và nhân bản của con người.

    bên cạnh tài nĂng miêu tả tâm lí nhuần bằng nhiều Bút phap ược thể hiện qua thể thơ song thất lục bát mềm mại của tac giả, dịch giảng hồng hà nữ tinh tế và Thanh nhã .chynh sự kết hợp của ngôn ngữ giàu về “thể chất” của nguyễn gia thiều với cai hồn ngôn ngữ của đoàn thị điểm đã làm choc ng ề ượ đ đ đ. nhất trong diễn biến tâm trạng của người chinh phụ. tác phẩm đã gél phần vào tiếng nói ấu tranh, tố cáo chiến tranh phong kiến ​​​​chia rẽ hạnh phúc lứa đôi ồng thời khẳng ịnh quyền hềÚn sốn hống. Đó cũng là giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc nhất của tác phẩm.

    những vần thơ khép lại nhưng dường như nỗi đau của người chinh phụ vẫn còn đó. niềm khao khát về một hạnh phúc từ đy mà trở thành niềm khao khát của cả một thời ại và thúc giục with người hành ộng ể ỡt h .

    6. phân tích đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

    ra đời vào nửa đầu thế kỉ xviii với nguyên tác bằng hán văn của Đặng trần côn, chinh phụ ngâm đã mau chóng đi vào lòng mọn qu t. Trải qua hơn hai thế kỉ rưỡi cho ến nay, chinh phụ ngâm luôn giữ nguyên giá trị của một viên ngọc văn chương sáng ngời, một sản pHẩm đáng tự hàe của xứ của người chinh pHụ cho thấy rõ tâm trạng cô ơn của người vợ nhớ chồng ra trrận và nghệ thuật miêu tảm trạng bậc thầ củc ễ ễm đm đm đM đ đ đ đ đ đc đc đc đc đc. biệt xuất sắc của nữ sĩ Đoàn thị Điểm. Đoạn trích tinh cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụi sống cô ơn, buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh

    “dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

    như trong kiều, nguyễn du đã từng ể ể kiều nói câu ‘pHận gai chữ tòng’, there are như trong tân hôn biệt cócc ợ ợ. muốn theo chồng. nhưng ‘hình thế phản thương hoàng)’, mà ‘phụ nhân tại quân trung/ binh khí khủng bất dương’, người vợ có chồng đi lính ại chỉ n. có chồng, nàng pha trà cùng quân đối ẩm, nhưng quân nay đi rồi, nàng đành ‘dạo hiên’. she nàng đếm từng bước chân, tựa như đếm từng ngày chồng đi, đếm từng ngày nỗi nhớ thương đong đầy trong cách trở. ‘có khoảng không gian nào đo chiều dài nỗi nhớ’ (trích ở hai đầu nỗi nhớ) hết dạo hiên, nàng lại kéo rèm. Keo Rèm Xuống, Nàng NHư NHAC THấY BONG CHồNG KHUấT đI, VộI KÉO RèM LêN, HÓA RA CHỉ Là tình cảm và ang nước trong mắt lùa dối nhưng khi nàng hạ rèm xuống, nàng lại vẫ rồi nàng cứ vô thức lặp đi lặp lại một hành ộng ấy …

    quân sinh ta chưa sinhta sinh quân đã lãoquân hận ta sinh trìta hận quân sinh tảo

    nhưng có lẽ chỉ những người có duyên có phận lại chẳng ược gần nhau như thế mới biết ược nỗi sợ của việcỰ c kh. vì không có người, mà vì người quan trọng nhất không ở bên nàng.

    ngoài rèm thước chẳng mách tintrong rèm dường đã có đèn biết chăngĐèn có biết giường bằng chẳng biếtlòng thiếp riêng bi thiết mà thôibuồn rầu nói chẳng nên lờihoa đèn kia với bóng người khá thương.gà eo óc gáy sương năm trốnghòe phất phơ rủ bóng bốn bên.

    giữa thời buổi loạn lạc, nhà có người đi lính, ‘gia thư để vạn kim’, họa có mấy khi có người về báo tin chiến trận? người vợ nghe tin thắng trận cũng lo sợ, mà nghe tin thua trận cũng lo sợ, vì ‘cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?’. She không nghe tin chồng nàng chỉ có thể chời ợi trong of her sợ, nàng như chết dần chết mòn vì sự bi thiết trong lòng of her, sự bi thiết ến từ nỗi chờ mong trong cô lẻ, triền miên. Đến cả loài chim – loài có đôi cánh, có thể dang rộng bay khắp thiên hạ, cũng chẳng biết tin, há một người phòng khuê như nàng lại có thết tin? Dù she cho ‘hoàng điểu tọa tương bi’, ‘biệt li chim cũng vì người xót xa’, nhưng her nàng vẫn chẳng co người ồng cảm, tựa như bá nha mất đi tử kì, trag tửt tửt đt đt đt ‘Lệ rơi khêu ngọn đèn’, she nàng chong đèn suốt đêm, she không ngủ ược mà cũng chẳng dám ngủ-có lẽ chồng nàng sẽ về, và nàng không muốm trễm trễ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ. nhưng she gà gáy canh năm, trời sáng rồi, mà bong chàng vẫn cứ biệt tăm. ‘cành liễu ai người vin?’, chỉ có hòe phất phơ in bóng lên tường khi mặt trời của ngày mới đến. ai bảo mặt trời là hi vọng, ai bảo ánh sáng là nguồn sống? nàng chỉ biết, một ngày đã lại qua, số ngày chia cách lại tăng thêm một, nỗi nhớ trong nàng lại dâng đầy, lo sợ cũng nhƛc nưl>

    kinh thi câu ‘nhất nhật bất kiến ​​như tam thu hề’, nguyễn du gói gọn lại thành ‘ba thu dọn lại một ngày dài ghê’, ối với ng chinh phụ, ‘khắc gi’ ằ ằ ằ ằ ằ ằ ằ ẵ ẵ ẵ ẵ ẵ ẵ. niên’, mà ‘mối sầu’ thì ‘dằng dặc tựa miền biển xa’. hay cho một câu cảnh còn người mất! mùi hương vẫn còn đó, vấn vít giống như ngày chàng còn tại ‘hương diệc cánh bất diệc’, nhưng she chỉ tiếc ‘nhân diệc cánh bất lai’. gương đồng vẫn sáng, nàng vẫn soi gương, điểm trang mỗi ngày, nhưng chỉ là ‘gượng’. chồng đi lính nàng không còn tâm trí nào nghĩ tới bản thân nữa. nhớ chồng, giọt nước mắt rơi lúc nào không hay. nỗi nhớ luôn đau đáu trong lòng nàng. she lệ lại châu chan, she nàng đã khóc biết bao ngày. she nàng đánh đàn, nhưng tiếng đàn đứt đoạn, bởi nàng lo dây uyên sẽ đứt, phím loan sẽ chùng, gợi nên sự may mắn cho đôi l

    “Khắc Giờ ằng ẵng như niênmối sầu dằng dặc tựa miền biển xahương gượng ốt hồn đà mê mảng gượng soi lệi chansắt cầm gượng gảng ạnd đnd đnd đnd đnd đnd. ”

    mười Sáu Câu ầu là pHần điệp khúc bằng tiếng tỳ bà chậm rãi, day dứt – bởi sự khắc kho ải trong nỗi nhớ, bởi sự triền miên và và Prepara chinh pHụ Trong màn đêm. Ấy không chỉ là màn đêm của bong tối – mà còn là màn đêm của những lo lắng, sợ hãi; là màn đêm của những cô đơn, lẻ loi bị che khuất dưới ánh mặt trời ban ngày.

    nếu mười sáu câu ầu là đoạn điệp khúc khi mà nỗi nhớ thương và tâm trạng đau thương ược ẩy lên ến c cùt. tấm long hướng về phương xa nơi chồng đang chinh chiến chậm rãi biến nỗi cô đơn thành một nỗi đau, một nỗi đau không gì ưc. như một chữ ‘thiết tha’, nó mài, nó cắt vào ruột gan người đọc hệt như cách nó làm đau đớn lòng người chinh phụ. trước hết là một ước mong cháy bỏng đêm ngày:

    “lòng này gửi gió đông có tiện?nghìn vàng xin gửi đến non yên”

    “lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua nhiều đợi chờ “trài mấy thu đi tin nhạn lại-tới xuân này, tin hãy vông”. gió đông là gió xuân. Trong cô ơn, người chinh phụ chỉt biết hỏi gó, nhờ gió ưa tin, nhắn tin tới người chồng yêu thương nơi chiến ịa xa xôi, nguy hiểm, nơi non yên nghìn nghìn. non yên, một địa danh cách xa thiểm tây, trung quốc hơn hai ngàn dặm về phía bắc. hỏi gió, nhờ gió nhưng”có tiện”hay không như lời nhún mình, năn nỉ ngọn gió. nhưng đó là mong ước phi thực tế, hi vọng loé lên rồi vụt tắt ngay. chỉ có nỗi nhớ là hiện thực. :

    “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời”.

    “nhớ đằng đẵng” nghĩa là nhớ mãi, nhớ nhiều, nhớ lâu, nhớ không bao giờ nguôi. trong truyện kiều cũng cóu tương tự để diễn tả nỗi nhớ nhung: “một ngày đằng đẵng xem bằng ba jue”. câu thơ “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” là một câu thơ tuyệt bút, vừa diễn tả một nỗi nhớ thương đè nặng trong lòng, triền miên theo thời gian đêm ngày năm tháng (đằng đẵng) không bao giờ nguôi, vừa được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian (đường lên bằng trời). KHI GIảI THÍCH NGHĩA Câu Thơ Này, NGUYễN THCH Giang đã Viết: ”Lòng nhớ chồng thăm thẳm dài dằng dặc vẫn có ến ược dùc rất sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng củi ngưhờa ph. nỗi nhớ thương ấy, tiếng lòng thiết tha ấy lại ược diễn tả qua âm điệu triền miên cảu vần thơ song thất lục bát với tháp nghệ thuật liên-điệp ngữ. cả một trời thương nhớ mênh mông.nỗi buồn triền miên, dằng dặc vô tận

    sau khi hỏi “gió đông” để bày tỏ niềm thương nỗi nhớ chồng “đằng đẵng”, nàng chinh phụ lại hỏi trời để rồi tủtrá>

    “trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong. ”

    trời ở cao xa, không chỉ là cao mà là thăm thẳm, không chỉ là xa mà trở nên xa vời, nên không thấu, không hiểu sao cho “nới nhớ chờ Ƨang” cỻ. nỗi nhớ càng trở nên đau đáu trong lòng of her. Đau đáu nghĩa là áy náy, lo lắng, day dứt khôn nguôi. Có thể nói qua cặp từ lay: ”ằng ẵng” và . tâm trạng ấy được miêu tả trong qua trình phát triển mang tính bi kịch đáng thương.

    Ở hai câu cuối, nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh;nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cực kì điêu luyện. tính hình tượng kết hợp với tính truyền cảm tạo nên sắc điệu trữ tình sâu lắng thiết tha:

    “cảnh buồn người thiết tha lòng,cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”

    nỗi thương nhớ, lúc thì “đằng đãng”, lúc thì “đau đáu”, triền miên suốt ngày đêm. Đêm nối đêm như dài thêm. càng cô đơn thì càng thao thức. nhìn cành cây ướt dẫm sương đêm mà thâm lạnh lẽo. nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm lạnh lẽo. nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng “mưa phùn” mà thâm buồn nhớ. Âm Thanh ấy, cảnh sắc ấy vừa lạnh lẽo vừa buồn, càng khơi gợi trong lòng người vợ trẻ, côt biết bao thương ᧓ n, Lo Bup Lòng đau ớn như She bịt cắt xt xt xt xt x có thể nói hai câu thơ”chinh phụ ngâm khúc” này rất gần gũi với hai câu “kiều” nổi tiếng:

    “cảnh nào cảnh chằng đeo sầu,người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…”.

    có người nói: “hạnh phúc hay bất cứ thứ gì, thường chỉ đến lúc mất đi người ta mới biết nó từng tồn tại”. Với chinh phụ ngâm của ặng trần côn, chung ta ược ưa vào một không gian nhỏ hẹp -một không gian đong ầy nhi nhớ và sự khắc khoải, sự bấnh và bữhệh ự cuh -cuh -cuh -cuhh -cuhc m ựha ựh -cuh -cuh -cuhh -ca ựh -cuh -cuh -cuhc m ựha ựh -cuh -cuh -cuhc m ựha ca ựh -cuh -cuh -cuhc m ốc m ựha ca ựh-cui c. và bất công của chế độ phong kiến ​​​​- nơi mà những ‘dân đen thấp cổ bé họng’ không có quyền, mà chỉ có nghĩa vụ. NHữNG NGườI NHư VậY, Họ đã Không ượC Hưởng Hạnh Phúc Một Giây Phút Nào – Mà Họa Có đi Chăng nữa – ấy cũng chỉ Là phúnt giây ngắn ngủi tựa như như như khả khả khả khả khả khả khả khả chúng ta bị ặt vào vị thế của những người như thế, và xúc ộng trước khát vọng tột c cùng của họ – ược sống bình ẳng.

    qua thể thơ song thất lục bát, cach dung từ, hình ảnh ước lệ, tac giả đã thể hi hi hi một cach tinh tế các cung bậc sắc this tình cảm khác nhau của cô ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ khh khh khh khh khh khhh khh kha na ô na ​​na ô na ​​na ô ô ôhh khh khh kha nk na na na na na ụ ôôn khh kha na na na na na na n. khát được sống trong tình yêu và hạnh phục lứa đôi. Đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thong sâu sắc của tác giả với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh. cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phong kiến ​​​​phi nghĩa.

    7. phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu

    chinh phụ ngâm là một Trong những tac pHẩm văc trung ại xuất sắc nhất trong lịch sử văc việc việt nam mà ở đó, lồng nh -thm ỗm nh ỗm nh ỗ nh ụ nh ụ nh ụ nh ụ ỗ nh ỗ nh ỗmn n. thời kỳ lúc bấy giờ, đồng thời gián tiếp miêu tả chân thực bức tranh hiện thực xã hội cay đắng, bất công.

    “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

    ngay từ những vần thơ ầu đã gieo vào lòng người ọc những cảm nhận u buồn, kết hợp với các ộng từnhư như như nh ặg nh ầng ầng ầng ầng nh ầng ầng nh ầng nh ầng ầng nh th ầng ầng nh th ầng ầng nh TH ầNG ầNG NH TH ầNG NH TH ầ NH ầ NH ầNG NH TH ặNG NH TH ầNG NH TH ầNG NH TH ầ NH ầ NH ầNG NH TH ° Tâm TRạNG Bâng Khuâng, LO mái hiên nghèo, những ngày ộng cứ lặp lại vô nghĩa, càng thể hiện sự sự hog vàríng. và rồi dường như, nhân vật đang phân tâm để đối thoại độc thoại với chính mình, mà lậi vừa có cảm giác nhưchờt lp:

    “ngoài rèm thước chẳng mách tin,trong rèm dường đã có đèn biết chăng.Đèn có biết dường bằng chẳng biết,lòng thiếp riêng bi thithôt mà.”

    bắt ầu từ đy, người chinh phụ bộc lộ nỗi lòng cô ơn và sự nhớ mong, nhớ thương khôn xiết ến người chinh phụ ếtr nơin. she nàng không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà còn mang trong lòng sự khắc khoải khôn nguôi, trằn trọc khi she không nhận được tin tức vềph. hình ảnh chim thước – loài vật báo tin tốt lành xuất hiện chính là sự minh họa rõ nhất cho nỗi lòng ấy. nghệ thuật ối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” ể cho thấy nỗi cô ơn ấy bao trùm mọi không gian, thậm chí lan thấm vào nhuốm vào màu không mộc gian. càng nhớ, càng mong mỏi được giãi bày, và ngọn đèn trở thành người tri kỉ trong vò võ cô đơn để người chinh phụ tâm sự. ca dao xưa đã từng cói ca dao khĂn thương nhớ ai, cũng miêu tả hoàn cảnh của người pHụ nữ trong vò vò võ đêm trường, một mình bầu bạn với ngọn đèn khuya, chính ng they tình cảnh trơ trọi lẻ loi của người chinh phụ:

    “buồn rầu nói chẳng nên lời,hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

    người chinh phụ tự thương cho thân phận mình, bỗng nhận thấy trong bóng đèn dầu kia phản chiếu lên bức tường với số phận, thân phận mình như nhập hòa làm một, nỗi buồn mượn ngọn đèn để san sẻ nhưng cũng chẳng thể thỏa nỗi nhớ mong, niềm khát khao đồng điệu.

    “gà eo óc gáy sương năm trống,hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.khắc giờ đằng đẵng như niên,mối sầu dằng dặc tựn tựa mi”.

    không gian khi càng về sáng, càng yên tĩnh, đó cũng là không gian mà tâm trạng những người cô đơn càng thêm đơn độc, lẻ loi biết nhƝn. cảnh vật xung quanh cũng heo hút, phất phơ, các từ eo óc, phất phơ, càng gợi cho ta cảm giác rằng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. nỗi nhớ vốn vô hình, vốn không thể cân đong đo ếm, nay ược ịnh lượng hóa bằng sự ằng ằng của tháng năm, bằng sủ cự rtt. Và giờ đy, nỗi nhớ đã trở thành mối sầu tựa miền ải xa, nghĩa là nó không chỉ thuộc về cảm xúc, mà còn đang mang những âu lo, khắc khuải, rợn ngợp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp v vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp về

    những phím đàn gảy lên càng gợi cảm giác về sự ơn ộc, về sự hoang hoải trống vắng trong tm hồn, và tràn ngập những nỗi sợ hãi vénnnns lai, về cach l.

    BằNG BUTI PHAPP Tả CảNH NGụ TìnH, Tac Giả đã Lột Tảt Một Cách Sống ộng chân Thực Cảm xúc cô ơn và nỗi nhớ thương khắc khoải ến quặn thắt của người ng của chế độ chiến tranh phi nghĩa năm xưa, khiến gia đình phải tan tác, đau thương.

    mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục văn học – tài liệu của hoatieu.vn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *