các ề vă về bài thơ ông ồ của vũ đình liên do ọc tài liệu sưu tầm và tổng hợp bao gồm những câu hỏi ọc hiểu và các ạng ềng ềng ềNg Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thang Thad, Bai Thi. các em hãy tham khảo ể củng cố thêm kiến thức của mình ồng thời biết thêm nhiều dạng ề nhằm chuẩn bị tht tốt cho việa tìhiọh Én vé!
cùng xem các câu hỏi thường ra trong đề thi trắc nhiệm liên quan tới bài thơ này nhé:
1. bài thơ Ông đồ được sáng tác năm nào?
trả lời: năm 1936
2. bài Ông đồ thuộc thể thơ gì?
trả lời: thơ ngũ ngôn
Đặc điểm: một câu có 5 tiếng, 4 câu một khổ, bài thơ gồm nhiều khổ. vần gieo vần chân, vần liền hoăc vần cách.
tác dụng: khả năng biểu hiên phong phú, giàu tính trữ tình
3. hoàn cảnh sáng tác bài thơ Ông đồ?
trảii: từ ầu thế kỉ xx, nền văn học và chữ nho ngày càng suy vi trong ời sống văn Hóa việt nam, khi mà tây học du nhập vào việt nam, cr lẽ vì đ đồ đã bị xã hội bỏ quên và dần vắng bong. vũ Đình liên đã viết bài thơ Ông đồ thể hiện niềm ngậm ngùi, day dứt về cảnh cũ, người xưa.
4. Ý nghĩa văn bản Ông đồ?
trả lời: văn bản Ông đồ thể hiện sâu sắc tình cảnh đáng thương của ông đồ và niềm cảm thương, nuối tiếc của tác giả đối với một lớp người, một nét sinh hoạt văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc
5. Ý nghĩa nhan đề Ông đồ?
trả lời: ông ồ là người theo học chữ nho nhưng không ỗ ạt, sống bằng nghề dạy học chữ nho, ngày tết thường viếthu viết chết ch. <.
các đề văn về bài thơ Ông đồ của vũ Đình liên có đáp án
example 1:
em hãy trình bày những hiểu biết của mình về “ông đồ” và việc “thuê viết” chữ thời xưa.
hướng dẫn làm bài
ểểmm nhận ược bài thơ ông ồ của vũ đình liên, các em cần pHải có một số hiểu biết nhất ịnh về “ông ô” và nghệ thuật thư phap tháp thời xưa. trả lời đúng câu hỏi này là đã có được cơ sở cần thiết để hiểu bài thơ.
Ông đồ là người dạy chữ nho ngày xưa. khi nền hán học còn thịnh thì ông đồ dù không đỗ đạt, không làm quan, chỉ sống bằng nghề dạy học, ông vẫn luôn đượg xp.
chữ nho là thứ chữ tượng hình, viết bằng bút lông mềm mại, có một vẻ đẹp riêng. cá tính và nhân cách của người viết nhiều khi thể hiện ngay trên net chữ. viết chữ đẹp từ xưa đã trở thành một môn nghệ thuật.
dán chữ, treo câu đối chữ nho – nhất là trong những ngày tết – là một net sinh hoạt văn hoá của người việt nam từ xưa. tết đến, người ta thường mua chữ hoặc xin chữ. người bán chữ hoặc cho chữ thường viết lên tờ giấy, mảnh lụa hay phiến gỗ,… để chủ nhân mang về làm vật trang trí trong nhà. chữ viết phải đẹp và ý nghĩa của chữ phải sâu sắc, hợp tình, hợp cảnh. cách viết chữ nho đẹp trở thành một bộ môn nghệ thuật gọi là thư pháp. và người có tài viết chữ đẹp rất được kính trọng. cao bá quát (thế kỉ xix) là một trong những người nổi tiếng về nghệ thuật thư pháp
Đề 2
theo em, hai khổ thơ đầu và ba khổ thơ sau của bài thơ Ông đồ có những điểm gì giống và khác nhau ? hãy làm rõ ý kiến của mình qua việc phân tích các khổ thơ.
hướng dẫn làm bài
giữa hai khổ đầu và ba khổ sau của bài thơ có những điểm giống và khác nhau :
tất cả đều tập trung miêu tả ông đồ ngồi bán chữ trong ngày giáp tết. nhưng hai khổ thơ đầu và ba khổ thơ cuối thể hiện những nội dung cảm xúc khác nhau, bởi miêu tả ông đồ ở hai giai đáukh nhau
hai khổ đầu miêu tả hình ảnh ông đồ khi hán học đang thịnh vượng, ông được xã hội trọng vọng. mỗi khi tết đến, ông trở thành nhân vật quan trọng của chốn phố phường. cái “cửa hàng văn hoá lưu động” (theo cách nói của vũ quần phương) mới đông vui làm sao ! Ông đồ xuất hiện trong những màu sắc rực rỡ của hoa đào, của giấy đỏ ; trong âm thanh tươi vui và trong không khí nhộn nhịp của phố phường. chữ ông viết ra rất đẹp nên những người thuê viết cứ “tấm tắc ngợi khen tài”. Ở hai khổ thơ đầu, những câu thơ có nhịp điệu nhanh, liền mạch, âm hưởng vui tươi.
ba khổ cuối miêu tả ông đồ khi hán học đã suy tàn, ông bị gạt ra ngoài lề xã hội. người ta bỏ chữ nho để học chữ pháp, chữ quốc ngữ. trong bối cảnh ấy, tình cảnh ông đồ trở nên đáng buồn. người thuê viết giảm đi theo thời gian, “mỗi năm mỗi vắng”. người buồn, nên những vật dụng đã từng gắn bó thân thiết với cuộc đời ông đồ cũng sầu thảm theo : giấy đỏ chẳng thắm tươi như ngày xưa, mực đọng trong nghiên cũng sầu não theo (giây đỏ buồn không thắm – mực đọng trong nghiên sầu). thế là, cho dù vẫn hiện diện, “vẫn ngồi đấy”, nhưng ông đồ chẳng còn được ai để ý; ông đã bị người đời lãng quên rồi. Ông chỉ còn là “cái di tích tiều tuỵ đáng thương của một thời tàn” (lời tác giả).
rồi tết lại đến, hoa đào lại nở, nhưng không ai còn thấy “ông đồ xưa”. vậy là ông đã đi hẳn vào qua khứ, vĩnh viễn vắng bóng trong cuộc sống náo nhiệt đương thời. hai câu cuối bài thơ là một câu hỏi day dứt, ngậm ngùi : “những người muôn năm cũ – hồn ở đâu bây giờ ?”. câu hỏi không lời đáp ấy cứ vương vấn không dứt trong lòng người đọc khi đọc xong bài thơ.
>> tham khảo tuyển tập những bài phân tích bài thơ Ông đồ của vũ Đình liên hay nhất để có thêm gợi ý làm bài
Đề 3
theo em, bài thơ Ông đồ có những đặc sắc nghệ thuật gì ?
hướng dẫn làm bài
Ông đồ là một bài thơ hay. lời thơ trong sáng, giản dị, nhưng rất hàm súc, “ý tại ngôn ngoại”. hình ảnh thơ bình dị nhưng đầy gợi cảm, có sức khái quát cao, ví dụ như câu : “lá vàng rơi trên giấy – ngoài giời mưa bụi bay”. Bài Thơ Có kết cấu chặt chẽ theo lối ầu cuối tương ứng (mở ầu là “mỗi năm hoa đào nỏ – lại thấy ông ồ già” và kết thú là “nĂm nay đào lại nỏ làm nổi bật chủ đề mang tinh thần hoài cổ cảnh đó người đâu. thể thơ ngũ ngôn đã được sử dụng, khai thác có hiệu quả nghệ thuật cao để diễn tả những tâm tình sâu lắng.
Đề 4
chứng minh rằng: với bài thơ ông đồ vũ Đình liên đã chạm được vào những rung cảm tâm linh của giống nòi nên nó còn tha m thiiết>
hướng dẫn làm bài
trước kia, vào những ngày tết, trên bàn thờ tổ tiên, bên cạnh cặp bánh chưng, mâm ngũ quả là đôi câu đối tết. bởi chính vậy, những ông đồ già trên vỉa hè, phố xá rất đông khách thuê viết. hình ảnh ông đồ đội khăn xếp, mặc áo the viết câu đối đã khắc ghi vào sâu trong tâm trí nhà thơ vũ Đình liên. với bài thơ “ông ồ”, vũ đình liên đã chạm ược vào những dung cảm tâm linh của giống nòi nó nó còn tha thiết mãi ến những thỿ sau hệ.
.
nhà thơ viết lên bài với một tấm lòng yêu thương, trân trọng, ngợi ca những tài nĂng, sự đegon gél của những lớp người đi trước vớn văn văn văn văn văn văn văn văn văn văn văn vă nhà thơ đã làm như vậy khi viết bốn câu thơ đầu:
“mỗi năm hoa đào nở
lại thấy ông đồ già
bay mực tàu giấy đỏ
bên phố đông người qua”.
“một thời vang bóng” của lớp người đã được xã hội trọng vọng, lúc mà nền tảng hán học đang có một địa vị vữc ng. gắn liền với sự hưng thịnh đó là hình ảnh những ông đồ giữa phố phường đông vui đầy sắc màu. màu thắm của hoa đào, màu đỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tầu và mái tóc hoa râm của ông đồ. tất cả đã hài hoà, quyện với nhau thành một tác phẩm tranh lộng lẫy, ngoạn mục giữa phố xá tấp nập. một vẻ đẹp sao vui tươi quá vậy!
Đây mới là những hình ảnh thoáng qua như gió xuân hây hẩy nhưng cũng đã đủ để gợi lên cài gì đó thật quen trong lòng người.
Ở khổ tiếp theo, hình ảnh ông đồ vẫn không phai nhạt:
“bao nhiêu người thuê viết
tấm tắc ngợi khen tài
hoa tay thảo những net
như phượng múa rồng bay.”
quả thực, đến lúc này, tài năng của ông đồ đã được phô bầy trong không khí phố phường, lúc này mọi người chú ý và trân. cái tài năng “phượng mua rồng bay” của ông ồ ướ dưới một bàn tay ầy khéo léo nawlet lo de lo hojalina lo de lo hige ầ ầ ôt. tặng cho mọi người về làm quà đón xuân, trang trí ngôi nhà ấm cúng, tình cảm gia đình thật ấm áp hơn.
thật đáng buồn biết bao, một truyền thống ẹp của dân tộc đã bị mai một đi, một hình ảnh ầy sắc màu mùa xuân đã dần mất đi khi n n n người ta quên lãng đi câu đối tết và thay vào đó những bức tranh màu sấc rất sặc sỡ.
“nhưng mỗi năm mỗi vắng
người thuê viết nay đâu?
giấy đỏ buồn không thắm
mực đọng trong nghiên sầu.”
Độc giả đã hụt hẫng, cảm xúc tươi vui đã bị mất đi khi đọc khổ thơ này.
Trước sự tàn tạ, ra đi của ông ồ và lớp người xưa cũ, lòng thương người của nhà thơ vũ đình liên ược biểu hiện ở sự cảm thông, nỗi xó xa và và y ềc nu. Ở 2 cau thơ:
nhưng mỗi năm mỗi vắng
người thuê viết nay đâu?
ta như thấy nhà thơ bâng khuâng đi tìm lại bong dáng của lớp người xưa cũ. giọng thơ xót xa khi những with người tài hoa đã bị đẩy ra ngoài lề đường. trong bối cảnh ấy, tình cảnh ông đồ dần trở nên buồn chán. người thuê viết giảm đi theo thời gian và nĂm that “mỗi năm mỗi vắng. khi ông đồ và lớp người xưa cũ dần mất đi:
“giấy đỏ buồn không thắm
mực đọng trong nghiên sầu.”
người buồn, nên những vật dụng từng gắn bó thân thiết với ông cũng sầu đạm theo: giấy không đỏ nhưo xưa, mực tronghi the cŧu. có lẽ, giấy, nghiên mực không có tâm trạng, nhưng cái bi kịch tâm trạng của giấy, mực mà nhà thơ vũ đình li -nhìnn thy chynh là nhữg x nỗón. nỗi buồn ấy không chỉ thấm vào phương tiện mưu sinh mà còn thấm ẫm vào cảnh vật thiên nhiên, cảnh vật đã làm cho không gian thêm hiu vắ quắ. <
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
qua đường không ai hay
lá vàng rơi trên giấy
ngoài trời mưa bụi bay.”
cho dù, ông ồ vẫn ngồi ấy nhưng đã bị mọi người quên lãng, ông chỉ còn là một di tích tiều Tuỵ đáng của “một thời tàn ‘. nào đó, khi hoa đào lại nở, người ời đã thảt nhận ra sự vắng bóng của ông ồng c. len:
“năm nay đào lại nở
không thấy ông đồ xưa
những người muôn năm cũ
hồn ở đâu bây giờ?”
ở hai khổ thơ ầu gợi lên cho ộc giả niềm phấn chấn, tươi vui thì ba khổ thơ sau là một hình ảnh buồn bã, xót thương, sau phat àc m. giờ đây, ông đồ và lớp người xưa cũ đã trở nên vô nghĩa giữa cuộc đời. bài thơ khép lại bằng những hình ảnh, câu thơ mang nặng nỗi buồn tha thiết của tác giả vũ Đình liên.
ọC Bài Thơ “ông ồ” Xong, ta thấy vũ đình liên đã diễn tả ược tình yêu thương with người sâu sắc trước sốc số pHận hẩm hyu của ông ồ, nhưnn ẹ Bài thơ còn thể hiện một tâm hồn cao cả và nhân hậu, một with người rất giàu tình yêu thương sâu ậm, ngợi ca những tài nĂng củangười xưa và khuyên rhunr rhunng hoá hoá củ nền văn hoá đó xứng với một tầm cao mới.
>> xem thêm: soạn bài Ông đồ
Đề 5
vũ quán phương đã nhận xét: văn tả tht Ít lời mà cảnh hiện ra như vẽ, không chỉ bóng dáng ông ồ mà cả cái tii điều của xã h ột. phân tích bài thơ Ông Đồ để chứng minh ý kiến trên
hướng dẫn làm bài
trong phong trào thơ mới 1932 – 1945, bên cạnh những vần thơ tình say mê rạo rực, bên cạnh những cai mới, cai “tân thời” …. vẫn cònn những nỗi or ài GặP những tứ thơ như thế trong bài thơ “ông ồ” cả cái tieu đi đi của ô.
“Ông đồ” là những ai? họ vốn là những thầy giáo mẫu mực, uyên thâm của chế độ cũ. thuở đắc thế, họ được người đời trọng vọng, tôn kính. ngày lễ tết hằng năm, người ời ến với họ không chỉ ể bày tỏm tấm lòng thành mà còn ể cung kíh xin lấy những nét chữ “tâm”, “ức ‘,“ thọ ” , đầy đặn: cái chữ vừa thể hiện cái tài, vừa thể hiện cái tâm của người cầm bút.
nhưng thời thế thay ổi, khi nền văn hóa phương tây tràn vào nước ta rồi dần chiếm lĩnh vị trí ộc tôn trong sự học thì những vững vữn. cái tài, cái tâm của họ chỉ còn được thể hiện qua with chữ được bày bán bên đường. cảm với nỗi xót xa, bẽ bàng của “một lớp người tàn” ấy, vũ Đình liên viết nên một “Ông đồ” làm rung động lòng i.
bài thơ là một thành công lớn của vũ Đình liên nói riêng và đối với thơ mới nói chung. Bài Thơ ượC Viết Theo Thể NĂm chữ, vẻn vẹn năm khổ hai mươi câu nhưng đã làm sống lại hình ảnh ông ô những nĂm ầu thế kỉ hai mươi và cả cai thời thời ại ại ại ại ại Bởi vậy, vũ quần pHương hẳn rất thấm thìa bài thơ khi nhận xét rằng: “văn tảt thật ít lời mà cảnh hi hi ện ra như vẽ, không chỉ bongog dáng ông ồng ồng ồNg ồ
trong hai khổ thơ đầu, hình ảnh ông đồ hiện lên cùng những hình ảnh tươi tắn, nhộn nhịp:
“mỗi năm hoa dào nở
lại thấy ông đồ già
bay mực tàu giấy đỏ
bên phố đông người qua.”
“mỗi năm… lại thấy”, hai cụm từ này cho thấy hình ảnh ông đồ đã trở nên qua quen thuộc. cùng với màu thắm của hoa đào, màu ỏ của giấy, màu đen nhánh của mực tàu và sự đông vui tấp nập của pHố pHường, hình ảnh ông ồ đ đ đ
Ở khổ thơ tiếp theo, hình ảnh ông đồ đã trở thành trung tâm để mọi người chiêm ngưỡng và ngợi ca:
“bao nhiêu người thuê viết
tấm tắc ngợi khen tài
hoa tay thảo những net
như phượng múa rồng bay.”
từ “bao nhiêu” cho biết ông đồ đang được người đời trọng vọng, cần nhờ vả đến. với tài năng của ông họ “tấm tắc ngợi khen tài”, ba phụ âm “t” c cùng xuất hiện trong một câu thơ như tràng pháo tay giòn giã ể ngợi kàhen s. cái tài năng “phượng múa rồng bay” của ông đồ dưới một bàn tay đầy khéo léo nghệ thuật đã làm rạng danh cho nền hán học. cái tài ấy của ông đã được tặng cho mọi người về làm quà đón xuân, trang trí ngôi nhà ấm cúng tình cảm gia đình thật ấn
ơm
nhưng dẫn sao, trong tiếng cười vui vẫn không sao giấu được nỗi ngậm ngùi. chữ nho vốn được coi là chữ “thánh hiền”, chữ nho ông đồ viết là sự tụ hội của cái tài và cả cái tâm người cầm bút. nhưng giờ đây, những giá trị thiêng liêng ấy đã bị xô dạt đến bên đường phố để làm thứ cho “thuê”. chỉ một chữ ấy thôi mà đã thấy băn khoăn, thoảng buồn biết mấy.
thật đáng buồn biết bao, một truyền thống ẹp của dân tộc đã bị mai một đi, một hình ảnh ầy sắc màu mùa xuân đã dần mất đi khi n n n rồi đã đến lúc người ta quên lãng đi câu đối tết để ngày tết thưa thớt, thiếu vắng đi những bóng hình quen thuộc:
“nhưng mỗi năm mỗi vắng
người thuê viết nay đâu?
giấy đỏ buồn không thắm
mực đọng trong nghiên sầu. “
cũng là “mỗi năm” nhưng lại thêm từ “mỗi” và lại đứng sau chữ “nhưng” – with chữ thường làm đảo lộn mọi ọquet th. vũ Đình liên đã phác họa một cảnh tượng đầy xót xa. vẫn trên nền hoa đào, ông đồ ngồi ủ rũ, thấp thoáng những bóng người xa dần. giá như có một sự ột biến nào đó khiến người ta không thích chữ ông nữa thì là một lẽ, ằng này những ngườn với ời dồi ồ c. họa chăng có ai còn nghĩ đến ông cũng chỉ bởi lòng thương hại đó thôi. các thủ pháp nhân hoá được sử dụng liên tiếp “giấy đỏ buồn”, “mực đọng”, “nghiên sầu” chỉ tô đậm thêm nỗi thấng ct vô. người buồn, nên những vật dụng từng gắn bó thân thiết với ông cũng sầu đạm theo: giấy không đỏ như xưa, mực trong nghên cấn. có lẽ, giấy, nghiên mực không có tâm trạng, nhưng cái bi kịch tâm trạng của giấy, mực cũng chính nhà thơ vũ Đình liên cũng không thể nhìn thấy nỗi xót xa, bẽ bàng của ông đồ nói riêng và lớp người xưa cũ noi chung. nỗi buồn ấy không chỉ thấm vào phương tiện mưu sinh mà còn thấm ẫm vào cảnh vật thiên nhiên, cảnh vật đã làm cho không gian thêm hiu vắ quắ. <
“Ông đồ vẫn ngồi đấy
qua đường không ai hay
lá vàng rơi trên giấy
ngoài trời mưa bụi bay.”
cho dù, ông đồ vẫn ngồi đấy nhưng đã bị mọi người quên lãng. Ông chỉ còn là một di tích tiều tuỵ đáng thương của “một thời tàn”. và có lẽ từ đó, ông vĩnh viễn vắng bong. có lẽ lúc bấy giờ trên thế gian này chỉ còn lại mỗi nhà thơ là có thể cảm thông được với nỗi buồn của ông đồ. chỉ cảm thông thôi chứ nỗi buồn ấy lớn quá làm sao chia xẻ nổi. sự cách biệt của tuổi tác, và nhất là của hai nền văn hóa khác nhau khiến cho nhà thơ chỉ biết đứng xa xa nhìn ông đồ mà cếm. và kì lạ thay là một chiếc lá vàng:
lá vàng rơi trên giấy
ngoài trời mưa bụi bay
mưa bụi thì rõ, vì đang là tiết xuân. nhưng sao lại có một chiếc lá vàng đơn độc? Đy chắc không pHải là dấu vết của mùa đông mà chỉ có cr thể lý giải như thế này: nước ta thuộc miền nhiệt ới, bốn mùa cây cối xanh tươi, vàng c àt. nếu đang vui, có lẽ không ai để ý đến chiếc lá vàng lặng lẽ rời cành khi đã hoàn thành sứ mệnh của nó. những lúc buồn tâm hồn ta rất nhạy cảm, và lại càng nhạy cảm với nỗi buồn. thì ra đã suốt một đời nuôi cây, khi rụng xuống chiếc lá vàng vẫn còn kịp gửi đến người đời một bức thông điệp. không phải là thông điệp về mùa thu mà là thông điệp về nỗi buồn của ông đồ, của một nền nghệ thuật đang dần vàn qu. Chiếc la Lẻ loi không chọn chỗ nào mà ậu mà lại ậu ngay trên trag giấy giờ đã trở nên vô tích sự, bằng chứng hiển nhii nhi cho nỗi buồn sâu nặng của ông ông ông ô. bây giờ thì có muốn đem lại những niềm vui dẫu thật nhỏ bé cho cuộc đời thì cũng không ai cần đến nữa.
bức tranh thứ năm tương phản rõ rệt với bức tranh thứ nhất:
năm nay đào lại nở
không thấy ông đồ xưa…
thông điệp mùa xuân đã gửi đến rồi. nhà thơ theo thói quen lại ra phố ngắm cảnh cũ người xưa. lẽ ra chẳng phải ngạc nhiên. với tính cảnh như năm ngoái thì ông đồ không thể xuất hiện một lần nữa, không thể nuôi mãi hy vọng về một thời đã qua. vậy mà trong tâm thức nhà thơ, hình ảnh ông đồ không thể thiếu trong bức tranh xuân của mình. cho nên he mới phải hẫng hụt. Ấn tượng sâu nặng qua khiến nhà thơ tưởng như ông đồ đã ra đi từ lâu lắm. Ông đã thành “ông đồ xưa”, thành người “muôn năm cũ” khiến nhà thơ bật lên tiếng gọi:
những người muôn năm cũ
hồn ở đâu bây giờ?
bài thơ tuy ngắn ngủi nhưng hàm súc, cô đọng và chứa đựng bao niềm đồng cảm, xót thương đối với những kiếp người. bài thơ quả đã dựng lên “bong dáng ông đồ” và “cả cái tiêu điều của xã hội qua mắt ông đồ”.
vũ Đình liên đã dành cho số phận các ông đồ những tình cảm sâu sắc, xuất phát từ sự cảm thông rất đỗi chân. Đó Không chỉ là sự cảm thông ối với một thế hệ bị lãng quên mà còn là nỗi xót xa trước một vẻ ẹp, một ngành nghệ thuật xưa cũ đt đt đi không trở.
Đề 7 nhà thơ xuân diệu cho rằng: thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài.
em hiểu ý kiến trên như thế nào? qua bài thơ “Ông đồ” của nhà thơ vũ Đình liên, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
hướng dẫn làm bài
a. mở bai
– giới thiệu tác giả vũ Đình liên, bài thơ “Ông đồ”
– trích dẫn nhận định
b. thanks bai
b.1. giải thích nhận định:
– “thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài”
+ hồn tức là nội dung, ý nghĩa của bài thơ.
+ xác tức là nói ến hình thức nghệ thuật của bài thơ thể hiện ở thể loại, việc tổ chức ngôn từ, hình ảnh, nhệu đi …
– như vậy, Theo Xuân diệu thơ there are là có sự sáng tạo ộc đao vềi nội dung cũng như hình thức nGhệ thuật, khơi gợi tình cảm cao ẹp và tạo ược ấ chỉ khi đó thơ mới đạt đến vẻ đẹp hoàn mĩ của một chỉnh thể nghệ thuật.
– Ý kiến của xuân diệu hoàn toàn xác đáng bởi nó xuất phát từ đặc thù sáng tạo của văn chương nghệ thuật. cái hay của một tác phẩm văn học được tạo nên từ sự kết hợp hài hòa giữa nội dung và hình thức. MộT NộI DUNG MớI Mẻ COR ý NGHĩA SâU SắC PHảI ượC TRUYềN TảI BằNG MộT HìNH THứC PHù HợP THì NGườI ọC MớI DễM NHậN, TAC PHẩM MớI CC SứC
b2. “Ông đồ” của vũ Đình liên là bài thơ hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài
* về nội dung: bài thơ “ông ồ” thể hiện niềm cảm thương sâu sắc ối với một lớp người đang trở nên lạc liqut và bềịị gời cu; là niềm hoài cổ của tác giả với một net đẹp truyền thống của dân tộc (thú chơi câu đối ngày tết) bị tàn phai.
– ở hai khổ thơ ầu, qua hình ảnh ông ồ xưa trong thời kì huy hoàng, tác giả gửi gắm niềm kính trọng, ngưỡng mộ, niu ni ért ẹp vă hóh.
+ Ông đồ xuất hiện bên phố phường đông đúc vào mỗi dịp tết đến xuân về. Không Khí Mùa Xuân, Hình ảnh “Hoa đào nở” đã tươi thắm nay lại thêm “mực tàu giấy ỏ” làm mọi nét vẽ trong bức tranh tả cảnh ông vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui vui. từ “lại” diễn tả sự xuất hiện đều đặn của ông đồ với mùa xuân cùng với công việc viết chữ nho.
+ dòng người đông đúc đều quan tâm và ngưỡng mộ, khâm phục tài viết chữ của ông đồ. (bao nhiêu người thuê viết/tấm tắc ngợi khen tài). nghệ thuật so sánh và thành ngữ “như phượng múa rồng bay” làm toát lên vẻ đẹp của net chữ phóng khoáng, bay bổng,…
-> Ông đồ trở thành tâm điểm chú ý của mọi người, là đối tượng của sự ngưỡng mộ. Đó là thời chữ nho được mến mộ, nhà nho được trọng dụng.
– hai khổ thơ tiếp theo tác giả vẽ lên bức tranh ông đồ thời nay, một kẻ sĩ lạc lõng, lẻ loi giữa giữa dòng đời xuôi ng.
+ mùa xuân vẫn tuần hoàn theo thời gian, phố vẫn đông người qua nhưng ông ồ bị lãng quên, nho học bị thất sủng, người ta khi >
+ câu hỏi tu từ và biện pháp nghệ thuật nhân hóa (giấy đỏ buồn không thắm/mực đọng trong nghiên sầu) -> nỗi buồn như lan tỏa, thấm cả vào những vật vô tri vô giác, tất cả như đồng cảm với nỗi niềm của ông đồ trườthc with . nghệ thuật tả cảnh ngụ tình (lá vàng rơi trên giấy/ ngoài giời mưa bụi bay) gợi không gian buồn thảm, vắng lặng nhấn mạnhẽ sự l
-> một net đẹp văn hóa dân tộc bị mai một, chữ nho đã trở nên lỗi thời, những người như ông đồ bị rơi vào quên. Ông đồ trở thành “di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn”
– khổ thơ cuối tác giả dùng ể bày tỏ nỗi lòng, khơi gợi ở người ọc niềm thương xót ối với ông ồ ồ cũng nhƃớ vĺn vét
+ tết đến, xuân về, hoa đào vẫn nở nhưng không còn thấy ông đồ xưa -> sau mỗi năm ông đồ đã già và giờ đây đã trở thành người thiên cổ.
+ câu hỏi tos từ thển niềm cảm thương của tac giả cho những nhà nho danh giá một thời, nay bị lãng quên vĂ lại.
* về hình thức:
– nhan đề bài thơ ngắn gọn nhưng gợi nhiều liên tưởng, chứa đựng chiều sâu chủ đề tư tưởng mà tác giả muốn gp qua.</
– mạch cảm xúc, mạch ý tạo thành tứ thơ tự nhiên theo dòng thời gian. kết cấu bài thơ giống như một câu chuyện kể về cuộc đời của ông đồ: mở đầu câu chuyện ông đồ là tâm điểm mọi sự chú ý của công chúng, cùng thời gian ông dần bị quên lãng, đến cuối bài thơ ông đồ đã chìm vào qua khứ, từ đó nhà thơ bộc lộ tự nhiên niềm thương người và tình hoài cổ trước cảnh cũ người đâu.
– thể thơ ngũ ngôn gieo vần chân, lời thơ bình dị nhưng sâu lắng, cô đọng, kết cấu đầu cuối tương ứng chặt chẽ. hình ảnh thơ giản dị, ngôn ngữ thơ hàm súc, gợi hình, gợi cảm. kết cấu ầu cuối tương ứng, sử dụng câu hỏi tu từ, nhân hóa, but phÁp tả cảnh ngụ tình,… gieo vào lòng người ọc niềm tiếc th day.
– giọng điệu trầm lắng, xót xa thể hiện đúng tình cảnh của nhân vật trữ tình và hồn thơ của tác giả.
b.3. Đánh giá, nâng cao
– sức hấp dẫn từ nội dung và nGhệ thuật của bài thơ ông ồ đã tac ộng sâu sắc ến người ọc bao thế hệ, khơi gợi niềm cảm thương chân thà thà thà thà thà thà quên vì thế thời thay đổi, thương tiếc giá trị văn hóa tốt đẹp bị lụi tàn.
– Bài Học Cho Người NGHệ Sĩ: Bằng tài nĂng và tâm huyết của mình, nhà thơ hãy sáng tạo nên những thi phẩm there are và giàu sức hấp dẫn từi nội dung ến Điều đó vừa là thiên chức vừa là trách nhiệm của nhà thơ, là yêu cầu thiết yếu, sống còn của sáng tạo nghệ thuật.
– sự tiếp nhận ở người đọc thơ: cần thấy thơ hay là hay cả hồn lẫn xác. từ đó có sự tri âm, sự đồng cảm với tác phẩm, với nhà thơ để có thể sẻ chia những tình cảm đồng điệu. khi ấy, thơ sẽ có sức sống lâu bền trong lòng người đọc nhiều thế hệ.
c. kết bai
– khẳng định lại vấn đề
– lien hệ…
-/-
trên đy là các ề vă về bài thơ ông ồ của vũ đình liên theo hướng mới 2019 hay nhất mà các em có tham khảo ểc vôviệ tửhọ,. chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!