Giáo dục

Thành ngữ và tục ngữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương

chính cái chất nôm na trong thơ của bà đã tạo nên một chất men xúc tác mãnh liệt trong lòng người đọc. người ta ngây ngất, hỉ hả, khoái trá với cái thứ ngôn ngữ “nhà quê, mách qué” như: đỏ lòm lom, già tom, mân mó, tấp tênh, lún chún, mõmđi honẻ cánhẻ cán toàn xa lạ với sự trau chuốt, gọt giũa, khuôn sáo mà người ta thường bắt gặp trong ngôn ngữ thơ. ngoài những đặc trưng ấy, người ta còn bắt gặp ở xuân hương một biệt tài nữa trong việc vận dụng tiếng nói dân gian trong thơ. Đó là việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào trong thơ, làm cho câu thơ trở nên giàu tính hình tượng, dễ nhớ, và độc đáo hơn. caa sự khảo sát trong số 39 bài thơ trong tập thơ hồ xuân hương do tác giả nguyễn lộc tuyn chọn v. tố của thành ngữ, tục ngữ trong những câu thơ. Đây quả là một with số không nhỏ, nó cho thấy thành ngữ, tục ngữ trong thơ nôm hồ xuân hương croc vị trí và va va trò ặc biệt quan ntrọng ọth quả là hiếm có một của ngôn ngữ dân gian như hồ xuân hương.

việc đưa thành ngữ, tục ngữ vào tác phẩm đã được nhà thơ xử lí rất tinh tế, tài tình và nhuần nhuyễn. có những tác phẩm tuy rất ngắn nhưng chúng ta đã không khỏi ngạc nhiên khi thấy tác giả đã hai lần sử dụng đến yếu ữt ngthà, ữt ngthà chẳng hạn như bài mời trầu có hai câu thành ngữ xanh như lá và bạc như vôi được áp dụng trong câu thơ “Đừng xanh như lá, bạ vôi như”. Bài Khóc Tổng Coc lại Có Hi Câu Thành Ngữ Khac Làng nọc ứt đuôi Và Gọt Gáy Bôi Vôi ượC áC Áp Dụng Trong Hi Câu Thơ “NNG NọC ứT đUôi từ đ đ HOặC NHư ở Bài quan thị thì hai câu thơ “ố ai biết đó vông there are trốc/ còn kẻ nào there lá vông, chổng mông lá trốc [/i]và đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên.

thậm chí cor bài như bài làm lẽ, chỉi với tám câu thơ ngắn nhưng lại có tới ba câu thành ngữ đã gip pHần vào trong ấy, đó là “nĂm thì mười họa chá ng” ng ” cố ấm ăn xôi, xôi lại hẩm “lấy từ ý của câu thành ngữ” cố ấm Ăn xôi “; và câu” cầm bằng làm mướn, mướn không công “lấy từ ý ý n. ược vận dụng từ ý của thành ngữ, tục ngữ như: “tài tử vă nhân ai đó tá?” (tự tình i) lấy ý ý ý ngữ “tá?” lấy ý thành ngữ “thăm ván bán thuyền “.” bảy nổi ba chìm với nước non “(bánh trôi nước) ý của thành ngữ” ba chìm non “ba chìm);” mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo “(đèo ba dội) ý của thành ngữ” ; lợi mua danh” (mua danh bán lợi); và “Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi” (with ốc nhồi) từ ý của thành ngữ “lăn lóc như cóc bôi vôi”. &spacelt;?xml: ” ns=”urn:schemas-microsoft-com:office:office ” ? ?>

qua một số dẫn chứng trên, chúng ta có thấy rằng hồ xuân hương khi ưa thành ngữ, tục ngữ vào thơng chủ yếu thông quaiii -ng thứch pín>

phương thức thứ nhất là vận dụng trực tiếp thành ngữ, tục ngữ vào thơ, tức là lấy nguyên văn, nguyên dạng những câu thành ngữ, tục ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT ợT lá, bạc như vôi (Đừng xanh như lá, bạc như vôi – mời trầu); nòng nọc đứt đuôi (nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé – khóc tổng cóc); năm thì mười hoạ, (năm thì mười hoạ chăng hay chớ – làm lẽ); cố đấm ăn xôi (cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm – làm lẽ); bảy nổi ba chìm (bảy nổi ba chìm với nước non – bánh trôi nước); mỏi gối chồn chân (mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo – Đèo ba dội); bán lợi mua danh (bán lợi mua danh nào những kẻ – chơi chợ chùa thầy). cach xử Lí Này phải nói là tương ối khó bởi vìos đòi hỏi tac giả pHải có một khả năm cảm nhận hết sức tinh tế về nghĩa của những câu thành ngữ, tục ng ý thơ mà mình định trình bày ở trong câu và trong bài hay không. Ồng Thời, tac giả cũng pHải là người hết sức giỏi về khả nĂng xử lý ngôn từ ể ể có thể “ghep” những câu thành ngữ, tục ngữ, vốn là một “khh ố ố ố ố

những khó khăn nói trên đã được hồ xuân hương xử lý thành công một cách tuyệt vời. chúng ta thử lấy một ví dụ nhỏ trong số các ví dụ trên thì sẽ thấy rõ hơn biệt tài của bà trong vấn đề này. Ví dụ Trong Bài Làm Lẽ, ể Miêu tả thân pHận hẩm hi, thua thiệt của người vợ lẽ trong cuộc sống vợ chồng, tonc giả đ đ sử dụng hai câu thành ng ng ữ “Thì mườ ấ ấ ấ ữ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ “” câu thành ngữ này vốn rất quen thuộc vì nó thường được sử dụng để nói tới sự trái khoáy, trớ trêu của một điều gì đó. vì vậy trong trường hợp này phải nói rằng xuân hương đã sử dụng nó rất hợp cảnh hợp tình.

phương thức thứ hai là chỉ lấy ý của thành ngữ, tục ngữ để chuyển vào trong thơ chứ không áp dụng hoàn toàn ứh th cán ch. chẳng hạn như: thăm ván bán thuyền (ấy ai thăm ván cam lòng vậy – tự tình iii); gọt gáy bôi vôi (nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi – khóc tổng cóc); làm mướn không công (cầm bằng làm mướn, mướn không công – làm lẽ); ngồi lá vông, chổng mông lá trốc (Đố ai biết đó vông hay trốc – quan thị); đầu trỏ xuống, cuống trỏ lên (còn kẻ nào hay cuống với đầu – quan thị); lăn lóc như cóc bôi vôi (Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi – with ốc nhồi). cach xử lý này thường tạo nên tính ẩn ý kín đáo châ câu thơ và đôi lúc khiến ch cho câu thơ như có hơi hướng của những câu ố ố, vume there are như “còn kẻ nào there những câu thơ được sáng tác theo kiểu này thường tạo cho người đọc có những sự liên tưởng rộng hơn, thích thú hơn và đầy ấn tượng hơn bởi vì dấu ấn thành ngữ, tục ngữ thường chỉ tồn tại phảng phất trong câu thơ chứ không hiện hữu rõ ràng như ở cách thứ nhất. do đó, muốn phat hiện ra trong câu thơ ấy tac giả có sửng các môtip của thành ngữ, tục ngữ ể ển ạt nội dung không thì người ọi một v ốt ng ụt ụt ụt chiếu so sánh thì mới nhận ra được.

qua một số ví dụ trên, chung ta thấy rằng ngôn ngữ dân gian nói chung và thành ngữ, tục ngữ nói riêng có một vai trò, giá trịt lớn không chỉ trong ời sống ngôn ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ trong ngôn ngữ viết, đặc biệt là thơ. những câu thành ngữ, tục ngữ khi đi qua ngòi bút tài hoa của hồ xuân hương dường như trở thành một thứ công cụ hết sức đắc dụng trong việc tạo hình, tạo nghĩa cho thơ mà không cần phải nhờ tới những thứ mỹ từ khác . như chúng ta đã biết, thành ngữ, tục ngữ vốn là những đơn vị ngôn ngữ hết sức đặc biệt. Nó là một loại tổ hợp từ cố ịnh quen dùng nên rất dễ nhớ dễ thuộc, và ặc biệt hơn là nghĩa của chung thường có tính văn hoá, giáo dục cộng ồng, cũng. cho nên, khi xuất hiện trong thơ chúng thường đem lại tính gần gũi, bình dị và mộc mạc cho câu thơ. Đồng thời, cũng tạo nên những chiều sâu về nghĩa thông qua sự liên tưởng, suy luận của người đọc.

nói như vậy không co nghĩa là chung ta pHủ nhận giá trị của nền ngôn ngữ văn chương, there are ngôn ngữ pHổ thông mà hiện nay chung ta đang học, phải tiếp xúc xúc xú Điều quan trọng hơn là qua đó giúp cho chúng ta thấy được những vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ dân gian. và đặc biệt là thấy được cái biệt tài của bà chúa thơ nôm trong việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ giỏi như thế nào. nói tÓm lại, bất kể là ngôn ngữ dân gian hay ngôn ngữ văn chương cũng ều cần phải ược tiếp thu có chọn lọc và phát huy đúng sở thì mán lở. Điều đó có nghĩa là mọi cái chỉ tạo nên được giá trị thực sự khi và chỉ khi nó được đặt vào đúng vị trí củtha nóp.

nguồn: vietnamnet.vn

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button