Văn mẫu lớp 9: Phân tích nhân vật ông Hai trong truyện ngắn &quotLàng&quot của Kim Lân Dàn ý & 22 bài văn mẫu lớp 9 hay nhất

Duới đây là các thông tin và kiến thức về Phân tích nhân vật ông hai trong truyện ngắn làng hay nhất được tổng hợp bởi chúng tôi

top 22 bài phân tích nhân vật ông hai trong truyện ngắn “làng” của kim lân giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn vềng hai – một ngườ dhá c, dh n yêu làng, yêu nước tha thiết.

Chính sự hài hòa giữa tình yêu làng với tình yêu nước, tình yêu cach mạng mà Truyện ngắn làng đã ể Lại nhiều ấn tượng sâu ậm Trong Lòng ộc ộc giả. vậy mời các em cùng theo dõi bài viết, để có thêm nhiều kiến ​​​​thức bổ trợ môn ngữ văn 9, ôn thi vào lớp 10 hiệu quả.

dàn ý chi tiết phân tích nhân vật ông hai

a. mở bai

  • kim lân thuộc lớp các nhà văn đã thành từ trước cách mạng tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về ẹ ẹp x văn hokiná. Ông gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện tinh thần kháng chiến của người nông dân
  • truyện ngắn làng được viết và en năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí văn nghệ ở chiến khu việt bắc. truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể, người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống pháp.
  • b. thanks bai

    1. truyện ngắn làng biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước. với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nướn thần chi. tình cảm đó vừa có tính truyền thống vừa có chuyển biến mới.

    2. thành công của kim lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động và độc đáo ở một with ngườ vảnông, nhânông. Ở ông hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng, in rõ cá tính chỉ riêng ông mới có.

    a. tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông hai.

    • Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.
    • cái làng đó với người nông dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần.
    • b. sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.

      • Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, vê việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. phải xa làng, ông nhớ quá cái không khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầt, bíưchm ong?”
      • Tâm Lí Ham Thích Theo Dõi tin tức khang chiến, Thích bình luận, nao nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi “cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả sung cũ dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng tây không bước sớm.”
      • c. tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc.

        – khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. nhưng khi người ta kể rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi.

        – về ến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. ông giận nhữngngngng ở lại lng, nhưm ngừng ừngểngểngểngểngểng nng nng nng nng nng nng nng nng nng nng nng. họ “đổ đốn” ra thế. nhưng cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.

        – ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. cái tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. không khí nặng nề bao trùm cả nhà.

        – tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hi sâu sắc Trong cuộc xung ột nội tâm gay gắt: đãc lúc ông muốn quay về làng vì ở đ đy tai ủ bị ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ ồ không đâu chứa chấp người làng chợ dầu. nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “làng thì yêu thật nhưng làng theo tây thì phải thù”. nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như cắt.

        – tình cảm ối với kháng chiến, ối với cụ hồ ược bộc lộ một cách cảm ộng nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sớiự vᩱ with. thực chất đó là lời thanh minh với cụ hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:

        • Đứa with ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ hồ chí minh muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.
        • Ông mong “anh em đồng chí biết cho bố with ông. cụ hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố with ông.”
        • – qua đó, ta thấy rõ:

        • tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là cụ hồ được biểu lạh rất mấn, mấ. tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng : có bao giờ dám đơn sai. chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.
        • d. khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ.

          • Cái cach ông đi khoe việc tây ốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “thà hi sin without tất cả chứng chịu mất nước” của ng ng ng
          • việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng cli>a chi.
          • 3. nhân vật ông hai ể lại một dấu ấn không mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tynh cách và ngôn nhân vật của người nông dân dưòi cới.

            • tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng.
            • miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.
            • ngôn ngữ của Ông hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.
            • c. kết bai:

              • qua nhân vật ông hai, người ọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vông sâu nặng, cao quý trong những paƻng.
              • Sự MởNG và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu ất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm củn chúsg cach mạng mà vó văc thời khá nghá ng. truyện ngắn làng của kim lân là một trong những thành công đáng quý.
              • phân tích nhân vật ông hai ngắn gọn

                nhà văn kim lân là một người rất am hiểu về cuộc sống của người nông dân ở miền bắc việt nam. truyện ngắn “làng” của ông được sáng tác vào thời kì đầu cuộc kháng chiến chống pháp, nhân vật chính là ông hai người làng d chợ . tác giả đã miêu tả rất thành công diễn biến tâm trạng của ông khi nghe tin ồn làng ông theo giặc qua đó đó đc ngợi tinh thần yeêu nướa nói nó.

                ông hai là một người rất tự hào về ngôi làng chợu dầu của mình, khi phải đi tản cư ông luôn nhắc đi nhắc lại với mọi ng ười về khôn ca tóc bạc pH Ông cứ nói cho sướng miệng và vơi đi nỗi nhớ làng chứ he cũng không quan tâm tới người ta cónghe hay không. vì qua yêu và tự hào về làng nne ông đã “nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “chết lặng đi tưởng như không thở ược” khi mnghe tinảc.

                lúc ầu ông còn không thể tin, hỏi đi hỏi lại, cho tới khi có người khẳng ịnh và chắc như đinh đón cột rằng có người ìthi nó ở. Ông lẳng lặng đi mà bên tai cứ văng vẳng câu nói của người đàn bà: “cha mẹ tiên sư chúng nó! Đói khổ ăn cắp, ăn trộm người ta còn thương. còn giống việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!”. những lời nói ấy như dao cứa vào tim ông, khi ấy trong ông đang giằng xé, nửa tin nửa ngờ. rồi đêm đó ông không ngủ được, bao nhiêu là ý nghĩ đen tối, ghê rợn nối tiếp nhau hiện ra trong đầu ông, ông định quay về làng nhưng vừa chớm nghĩ ông đã lập tức phản đối mình “về làm gì cái làng ấy nữa. chúng nó theo tây cả rồi, về làng tức từ bỏ kháng chiến”. rồi ông cứ nghĩ mà nước mắt dàn dụa, nhớ về những thuở xưa khi mà cuộc đời đen tối, lầm than, … làm cho ông “rợngƒn cả

                chỉng những chi tiết ấy nhưng tac giả đã chười ọc thấy ược tình cảm và lòng trung thành của ông hai ối với cach mạng và ất nước nếu không vì lòng yêu nước, tin tưởng vào cách mạng thì làm sao ông lại uất nghẹn và đau khổ đến mức ấy. chính những niềm tin của ông đã khiến cho ông có thể được vui mừng khi biết đích xác những lời kai chỉ là đồn đại. rồi ông đi gặp bác thứ để thanh minh cho làng của mình, ông cứ lặp đi lặp lại câu nói “láo! lao hat! toàn là sai sự mục đích cả”, ông còn múa tay lên mà khoe tin ấy với mọi người.

                có thể nói truyện ngắn “làng” là một tác phẩm khá hay, với thành công lớn nhất là khả năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vậl nân. thông qua nhân vật này, tác giả đã ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước và sự giác ngộ cách mạng của những người nông dân hi. chynh tình yêu ấy cùng với ý thức giác ngộ cách mạng mà họ đã ứng lên giành quyền sống, giữ vững ược nền ộc lập tủâ cự t.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 1

                nhà văn nguyễn minh châu từng quan niệm: “văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là with người”. văn chương lấy with người làm đối tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. nhà văn chân chính, dù viết về điều gì và thể hiện như thế nào trong tác phẩm thì điểm xuất phát và đích ến cuối cùn pret. thực và giản dị về with người” (chữ dùng của hemingway). với mỗi một tác phẩm, người đọc lại có dịp chiêm nghiệm về những with người khác nhau. trong tác phẩm “làng”, nhà văn kim lân đã tạc nên những trang viết neo ậu mãi trong tâm hồn chúng ta về nhân vật ông hai – một trái tim yêu làng tha ỿt, mỿt. >

                kim lân là một trong số những cây Bút Truyện ngắn dù ể lại một số lượng tac pHẩm không nhiều nhưng sáng tac nào của ông cũng vững vàng vàng nơi lòng ng nguyên hồng từng nhận xét: kim lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thuỷ n thuỷ n cu”. bằng giọng văn chân thực, giản dị, từng trang viết của kim lân đong đầy bóng dáng làng quê và with người việt nam. Truyện “Làng” ượC Sáng tág trong những năm ầu của khang chiến chống phap, lần ầu ra mắt bạn ọc trên “tạp chí văn nghệ” năm 1948. Lấy bối cả những chuyển biến trong tâm trạng của nhân vật ông hai. Ông không thuộc hạng cùng đình nghèo khổ như anh pha, chị dậu, cũng chẳng thuộc hàng vai vế có “miếng” có “tiếng” trong làng. Ông chỉ là một người nông dân nồng hậu, chất phác, hay làm và chịu khó. từ with người của làng quê, ông trở thành with người của kháng chiến, của sự nghiệp chung.

                Ấn tượng đầu tiên mà ông hai để lại cho người đọc chính là cái tính khoe làng của ông. dường như hình ảnh ngôi làng luôn thường trực trong tâm trí của lão nông ấy ể ể khi nói vềi nuôi dưỡng mình, chốn qu. Đặc biệt, ông hai khoe làng một cách nhiệt thành. Ông không cần người khác phải chú ý lắng nghe, cũng không quan tâm họ có nghe hay không, ông chỉ nói ể thỏa niềm tự hào, nỗi nhớt c. rồi qua từng thời kì khác nhau, lời kể, lời khoe của ông cũng thay đổi. duy chỉ có tình yêu làng của ông vẫn thế, cứ mãi vẹn nguyên, vẹn toàn, không hề đổi thay và cũng chẳng hề lay chuyển.

                xa rời quê hương, sống nhờ nơi ất khách quê người, lòng ông đau đáu nhớ quê, nhớ làng.ông hoài ni ềm vềng năm thang ược c c c c ông ông ông ông ông ông ông ông ông ông ông ông ông. hai cảm thấy lúc ấy mình trẻ trung hẳn ra, “cũng hát hỏng, bông phèng”. Càng nGhĩ tưởng, nỗi nhớ cứ như những ợt song lòng dồn dập, vỗ nhẹ vào trai tim ông phat ra những thanh âm chan chứa bao nỗi triền miiê về những ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng nhớ cái làng qua!”. Đằng sau nỗi nhớ ấy là khao khát được trở về, là tình yêu xóm làng chân thành, bất diệt. tình cảm ấy bao giờ cũng thiêng liêng, cũng dạt dào và tha thiết. vì nhớ, vì yêu nên ông hai vẫn thường xuyên vào phòng thông tin nghe tình hình, tin tức kháng chiến. dọc ường đi, Gặp ai quen ông lão cũng níu lại, cười cười, ông vui cả với nắng chang chang bởi tây nó ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù.ông phấ lão như múa cả lên vì nghe được bao nhiêu tin hay, đáng mừng và đáng khâm phục về những chiến công của làng. quả đúng như raxun gamzatov từng nói: “người ta chỉ có thể tách with người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hương ra khỏi coni ngưp.”

                trong lúc tâm trạng đang phấn khởi vì những tin tức kháng chiến vừa nghe ược, ông hai gặp gỡ những người xuôi lên và nghe ượ chỺ cái thg. “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi ,tưởng như đến không thở được”. dưới ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ, thế giới nội tâm của nhân vật được miêu tả đầy chân thực qua nét cቻch vật. Ông lão bàng hoàng và sững sờ vô cùng, dường như có một bàn tay vô hình đang bóp nghẹt trái tim ông. lúc ầu ông không thể tiếp nhận ược, ông cứ hỏi đi, hỏi lại như thể ông đang hi vọng cái tin dữ kia chỉ là do miệng ờng đàm tiẍ. there is là chỉ lại…”. Đối diện với những lời nói chắc như đinh đóng cột rằng làng ông “việt gian từ thằng chủ tịch mà đi”, bao nhiêu niềm tin, bao nhiêu niềm tự hào về ngôi làng mà ông luôn khoe khoang với mọi người bỗng chốc sụp đổ . là người làng chợ dầu, ông đâu còn can đảm để ở lại mà nghe những lời bàn tán bủa vây mình. Ông vội vàng ra về c cuart câu nói tưởng chừng như chỉ bâng quơ thốt lên nhưng nó lại chính là cai cớ ông bám lấy ể ể rời khỏi đy: ” thực tại tàn nhẫn, không muốn ai phát hiện ện ƣng là nh. nếu trên đường đi tới phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì giờ ông lại “cúi gằm mặt mà đi”. bởi cõi lòng ông hai giờ đây tựa như vỡ tan thành từng mảnh, trái tim ông rỉ máu, đâu đây như thể một nỗi chua xót, ô nhthục.

                mang Trong Mình cả một khoảng trời giông bão, cả một mối tơ lòng hỗn ộn, ông hai lê từng bước về nhà rồi lại “nằm vật ra giường” chẳng còn tểc sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức sức s nhìn lũ trẻ mà cảm xúc dâng trào “nước mắt ông lão giàn ra”. Biết bao câu hỏi cứ đua nhau xô ẩy, giằng xé trong ầu ông: “chung nó cũng là trẻ with làng việt gian ấy ư? của chính mình và đác trẻ non nớt mới mấy Tuổi ầu. bởi gia đình ông là người làng chợ dầu nên đè nặng trên những đôi vai hao gầy và yếu ớt là là bản mang tê Vào mồm mà đi làm cai giống việt gian bán nước ể nhục nhã thế này. họ ều là những người Sung sức, tràn ầy tinh thần yêu nước nồng nàn. giờ phút ấy, ông hai vẫn cố bám víu chút giọt nắng “niềm tin” giữa cơn ạI người làng không sai rồi. không có lửa làm sao Có khói? ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì? ”. ngọn lửa niềm ti no. Ông hai bất lực chấp nhận cái tin dữ ấy, nỗi đau xâm chiếm linh hồn, một nỗi đau không lời nào tả xiết. “bye oi! cực nhục chưa, cả làng việt gian”. Đó là tiếng nói thốt lên từ một trái tim bị tổn thương, từ một cõi lòng suy sụp tột cùng, từ niềm tự hào bịvùt tdi. ÔNG đU CHỉ đAU CHO MìNH, đAU CHO Làng Mà ông Còn đau Cho NHữNG NGườI ồNG HươNG C CùNG CảNH NGộ: “LạI Còn Bao NHIU NGườI Làng, so. Gắt Gỏng Khi Nói Chuyện Với Bà Hải. , là tiếng thở dài bất lực làm sao. nỗi lo ấy hành hạ tả tinh thần lẫn thấ xác khi “ch cho chhn thhn thhn thhn thng natn tay. lên ược” there are “trống ngực ông lão ập thình thịch.” bắc, từ miền ngược đến miền xuôi đều ghét cay ghét đắng, ghê tởm và thù hằn bọn việt gian bán nước nên ông càng lo sợ mụ chủ nhà đuổi gia đình ông đi, dồn gia đình ông vào thế cùng cực, tuyệt đường đất

                từ khi nghe tin làng theo giặc, ông hai như người mất hồn. Ông ăn không ngon, ngủ không yên. Ông cảm thấy như mình cũng là kẻ có tội, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ trong nỗi ám ảnh, tủi nhục ê chề. Ông tuyệt giao với tất cả mọi người, “không bước chân ra đến ngoài”. Ông rất sợ ai đó nhắc ến những tiếng tây, việt gian, cam-nhông … ông né tránh tất cả những gì liên quan ến cai dữi kia và gọi chuy phản bện tệi ện ện đn đn đ bởi chínhông chẳng dám và cũng chẳng đủ sức để nhìn thẳng vào thực tế đầy phũ phàng và đau đớn. ngẫm kĩ, ối với một lão nông dân chất phác, chân lắm tay bùn luôn tự hào và yêu làng tha thiết thì cái làng theo giặc quả là một cú trời ứ m. với ông hai, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn mà còn là một thứ gì đó lớn lao hơn, là lòng tự tôn, là danh dự. Ông và cái làng ấy đã trở thành máu thịt, ông và làng là một, danh dự của làng cũng là danh dự của ông.

                từ lúc mụ chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi, ông hai thực sự rơi vào bế tắc. chính trong lúc đau đớn tuyệt vọng ấy đã đẩy ông vào tình thế là phải lựa chọn: làng chợ dầu hay tổ quốc? Ông đã thoáng nghĩ đến việc “hay là quay về làng?” để gia đìnhông có chỗ dung thân. thuở trước, làng chợ dầu của ông đáng yêu, đáng tự hào lắm. nhưng giờ đây chỉ nghĩ đến nó là lòng ông đắng ngắt, đau nhói từng hồi. mới hôm nào về làng là khao khát, là mong ước cháy bỏng của ông thế mà bây giờ ông thấy rợn cả người và phải dập tắt ngay tĻĻđi ý ý. bởi làng giờ đã nối gót theo tây, “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ hồ”, là cam chịu trở vềi kiếp sống lầm than, kiếp sữn cốn. dòng máu việt nam anh hùng vẫn đang không ngừng luân chuyển, đi qua mọi ngõ ngách trong trái tim ông. tận sâu nơi cõi lòng người nông dân ấy, ngọn lửa của tình yêu nước cao cả vẫn đang rạo rực, vẫn hướng về cuộc kháng chiến nên ông đã quyết định một cách đau đớn nhưng dứt khoát: “làng thì yêu thật, nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù”. Đứng trước sự lựa chọn khó khăn, quyết định của ông hai đã khẳng định tình cảm rạch ròi của người nông dân, tình yêu nước rộng lớn, mạnh mẽ và thiêng liêng bao trùm lên tình cảm lang what.

                trong tâm trạng tồi tệ bị dồn nén lâu ngày, ông hai chỉ còn biết thả trôi nỗi lòng của mình vào những lời thủ thự t, tâm vt. chỉ khi tâm sự cùng con ông mới dám giãi bày hết thảy những gợn sóng rầu rầu đang âm ỉ trong lòng. Ông hỏi with về làng, để thỏa nỗi nhớ làng, để khắc sâu tình cảm cội nguồn nơi with. Ông muốn with ghi nhớ “nhà ta ở làng chợ dầu” cũng như muốn chính mình không được quên chợ dầu là quê hương, là gốc gác. phải chăng chính ông vẫn còn yêu làng tha thiết, tình cảm ấy vẫn mãi ngự trị trong trái tim ông. Ông hỏi con về cụ hồ – biểu tượng của cách mạng để chứng minh cho tấm lòng yêu nước, tấm lòng thủy chung với kháng chiến đã mết vám. Ồng thời, ông cũng muốn trynền cho con, cho thế hệ sau tình cảm cao ẹp, thiêng liêng, nhân bản nhất của con nhyhi chahynhy ệ ệ ộc ốc ốc ố. nước. Ông nói với con, nhưng thực chất là lời từ vấn để vơi bớt nỗi lòng, để minh oan cho tấm lòng trong sạch của mình, between “anh em ch cho bong. cụ hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. ta chợt nhớ đến câu thơ của trần Đăng khoa trong trường ca “khúc hát người anh hùng”:

                “người ta trong lúc hiểm nghèo hoặc vằng vặc sáng hoặc heo hút tàn.”

                Ông hai đã ngời sáng với những net đẹp trong tâm hồn người nông dân, net đẹp chung hòa giữa tình yêu làng và lòng yêu nước.

                bước qua biết bao ngưỡng cửa cảm xúc buồn vui lẫn lộn, từ hi vọng ến tuyệt vọng, từ hãnh diện tự hào ến khổ đau tủi nhục, đêm đen đ cái tin làng cải chính đã đến với ông hai. Ông như ược hồi Sinh một lần nữa, rủ sạch ược hết thảy sự dằn vặt, nhục nhã, đau khổ bấy lâu, “Cái Mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡn lên lance. Ông trở lại với “Thói quen” em việt gian ấy mà. ra láo! láo hết, chẳng có gì sất. toàn là sai sự mục đích cả.” Sách “Bình Giảng văcc 9” Có: “Khoe Cái sự” Tây nó ốt nhà tôi rồi. , là biết bao that ngày cày cuốc mà nên, là nơi chan chứa bao hồi buức vui. vậy vì cớ gì mà ông hai lại lấy làm vui mừng trước sực sự mất mát của ngôi nhà? Không Hề Theo Giặc Mà vẫn Một Lòng Yêu nước nồng nàn, ủng Hộ KHáng Chiến, ủng Hụ Cộ. Sự Khoe Khoang đáng yêu của mình. sướng tưởng như vỡ òa, như nhữngoh âm vag vọng cả pHần kết truyện. Không khó ể nhận ra với những người nông dân thật thà, chất phác, ểng ể ể à và tô tô củ v ấ à à à à good.

                với thứ Hương thơm tỏa ra từ đoá hoa mang tên “nghệ thuật” của thiên Truyện, với ang chiếu của ngòi bút đa tài, kim lân đã khiến người ọc pHồgu xây dựng tình huống truyện độc đáo là một trong những yếu tố góp phần đem lại sự thành công cho tác phẩm “làng”, giúp nhà văn khắc họa rõ nét phẩm chất, tính cách, khả năng ứng xử của nhân vật đồng thời bộc lộ sâu sắc khuynh hướng tư tưởng của mình. bên cạnh đó, việc miêu tả chân thực, cụ thể net mặt, giọng nói, cử chỉ, hành động cũng gop phần xây dựng thành công ᭺n vôn dung. Kim lân đã thật tài tình khi sử Dụng hàng loại câu cảm, câu hỏi nối tiếp nhau trong nghệ thuật ộc thoại nội tâm như xé đi lòng ng ng ườ ặ ặ ặ ặ như xé đi lòng ng ng ườ ặ ặc t thoại tâm như xé đi lòng ng ng ườ ặ ặc t thoại tâm như xé đi lòng ng ng ườ ặ ặc t thoại như nm nm n to n. nỗi đau xót, xấu hổ, nhục nhã. ngôn ngữ trong truyện mang tính khẩu ngữ, là những lời ăn tiếng nói hằng ngày, giản dị, chân chất của người nông dân bắc bộ. tóm lại, thi pháp truyện ngắn bao gồm các yếu tố như nhân vật, ngôn ngữ, tình huống truyện… và “làng” thành công trên mọi ọi phƇyơn. kim lân không nói nhiều, tả nhiều nhưng cũng đủ cho ta thấy những bước ngoặc trong diễn biến tâm lí của ông hai.

                nhà văn nguyễn khải từng khẳng định: “[…] thanh nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung”. Linh hồn ta phiêu lưu nơi gánh Sách của kim lân, cõi lòng ta Say ắm trong hơi thở bất diệt của thiên truyện “làng”, nhịp ập của người thưởng văn hòng nh ” “Lòng yêu quê hương và tình yêu tổcc”. “Nét thần” của tac pHẩm là mạch tình cảm ho. Co ngọn lửa tàn ác nàoc có cr thể thiêu rụi. nguồn “thần hứng” của biết bao thi phẩm.ví như “sao chiến thắng” của chế lan viên:

                “Ôi tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt, như mẹ cha ta, như vợ như chồngÔi tổ quốc, nếu cần, ta chếtcho mỗi ngôi nhà…” ngô

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 2

                kim lân là nhà văn có sở trường viết truyện ngắn. hầu hết các tác phẩm của ông chỉ viết về sinh hoạt của nông dân và cảnh ngộ của người nông dân. truyện làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí văn nghệ xuất bản năm 1948. truyện tập trung nói về lòng yêu nước của ông hai, lòng yêu nước này xuất phát từ tình yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình và nó đã hoà nhập giữa làng và nước.

                qua hình tượng ông hai, người đọc sẽ hiểu rõ hơn lòng yêu nước của nhân dân ta lúc bấy giờ.

                làng chợ dầu có chiến sự, ông hai phải tản cưđến làng thắng, vùng tự do theo chính sách của cụ hồ: “tản cư là yêu nước”. nhưng không phải ra khỏi làng chợ dầu là ông hai bỏ lại sau lưng tất cả mà ngược lại, lúc nào ông cũng trông ngónng tin tức và thõi những biến chuyển ởn ởn ở Đó là nơi tổ tiên ông sinh cơ lập nghiệp, nơi ông sinh ra và lớn lên. biết bao tình cảm đã gắn bó với cảnh vật, với dân làng nơi mảnh đất quê hương ấy. bởi lẽ đó mà mỗi khi nói ến làng chợ dầu, ông nói với giọng “say mê và náo nức lạ thường”, ông hai đã yêu làng chợ dầu bằng một yth t. Ông yêu tất cả những gì ở làng ông: những nhà ngói san sát, đường lát toàn đá xanh, cái sinh phần của viên quan tổng đốc…

                từ sau cách mạng tháng tám, lòng yêu làng quê của ông hai có những chuyển biến rõ rệt. trước kia ông hãnh diện vì làng ông giàu có, to đẹp. Giờ đây ông lại tự hào về những cai khác: pHong trào cach mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự, những buổi ắp ụ, hố, giao thông hào … luôn cả cai phòng thông thông tin tin tin phat .. trong with mắt ông hai, cái gì của làng chợ dầu cũng đều đáng tự hào hết. vì vậy từ lúc phải đi tản cư, ông khổ tâm day dứt không nguôi. quả thật cuộc ời và số phận của ông thật sự gắn bó với nơi chôn nhau cắt rốn của mình đã trrở thành Truyền thống, là tâm lí lí chung của mọi người dân dân lúc lúc bấy

                chính cach mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở những người nông dân tình cảm yêu nước hoà nhập thống nhất với tình cảm làng quê thành một thứt ảnh t. Ến đây, tac giả đã ặt nhân vật vào một tình huống gay gắt ế bộc lộ sâu sắc lòng yêu làng, yêu nước hai của ông ông tình huống ấy là cai tin làng làng chợu tây”. nghe tin đột ngột, ông hai sững sờ “cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, ông lão lặng đi tưởng như ᑻ khngthn Ông cảm thấy đau ớn và nhục nhã vì cái làng chợ dầu yêu quýcủa mình đã thoo giặc bao nhiêu điều tự hào trước kia giờ đy sụp ổvà nó nó trở thàu n. từ lúc ấy ông hai không dám đi đu, lúc nào cũng nơm nớp lo sợng như người ta đang bàn tán ến chuyện ấy … và từii am ảnh nđng nđ ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề ề đau xót, tủi hổ trong long. làng và nước trở thành đôi địch. hai tình cảm này đã dẫn đến một cuộc xung đột nội tầm ở ông hai. vì thếcó lúc ông nghĩ “làng thì yêu thật, nhưng làng theo tây thì phải thù”. rõ ràng tình yêu nước rộng lớn hơn nên bao trùm lên tình yêu làng quê. mặc dù đã xác định như vậy nhưng ông vẫn không dứt bỏ tình cảm với làng chợ dầu được, nên nỗi ray rứt vmĪy. phải thật sự am hiểu sâu sắc về with người, nhất là tâm líc của người nông dân nên nhà văn kim lân mới diễn tả rất đúg tâm trạng nhân vật ông hai như ậy.

                từ đó, ông hai chỉ còn biết trút nỗi khổ tâm vào đứa with nhỏ ngây thơ: “nhà ta ở làng chợ dầu”, “ủng hộ cụ hồ with nhỉ!” những lời tâm sự ấy thực chất là tự nhủ với chynh mình nhằm khẳng ịnh lòng thuỷ chung với cách mạng, với kháng chiến tà biồ c. lòng yêu nước của ông hai còn được biểu hiện rõ net hơn khi nghe tin đính chính: làng bị giặc tàn phá, không theo tây. những nỗi lo âu, xấu hổtan biến đi thay vào đó là niềm vui mừng khôn xiết nên ông nói bô bô “tây nó đốt nhà tôi rồi ông chúạ. Đốt nhẵn!”. Đây quả là một niềm vui kì lạ. niềm vui mừng thể hiện một cách đau xót và đầy cảm động về tình yêu nước và cách mạng của ông hai. Đy là tình cảm ặc biệt của ông hai cũng là tình cảm chung của những nông dân there are đúng hơn là của nhân dân ta lúc bấy giờ, thời khánng chống phống pHốNg phống pHốNg pHống pHống pHống phap. Đối với họ trong lúc này, trước hết và trên hết là tổquốc. vì tổ quốc họ sẵn sàng hi sinh tất cả dù đó là tính mạng hay tài sản. tình yêu nước của nhân dân ta là như thế.

                thành công của kim lân là xây dựng theo cốt truyện tâm lí, tạo tình huống có tính căng thẳng thử thám nhân vật ểtừ đ đ đc lỡng, t trẙ. Đặt tác phẩm vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống pháp ta mới thấy hết giá trị thành công của nó. bởi lẽ thông qua nhân vật ông hai với những ngôn ngữ, cử chỉ, tâm trạng … tiêu biểu là một người nông dân có tính riêng: vui tính, thích tròng chuy. Đó là net tâm lí chung của quần chúng. cách trần thuật tự nhiên, linh hoạt khiến cho truyện sinh động, hấp dẫn hơn.

                tÓm lại, làng của kim lân là một truyện ngắn ặc sắc, khai thác một tình cảm bao trùm và phổn trong with người thời kháng ếnh. Đây là một tình cảm mang tính cộng đồng. NHưNG thành công của kim lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí lí chung ấytrong sự thể hiện cụ th e th, Sinh ộng ở một with người, trở Thành một ném tâm lí sâc ở nht. vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang màu sắc riêng, tô đậm rõ cá tính của nhân vật. tình yêu làng quê, yêu đất nước, yêu kháng chiến của nhân vật ông hai trong truyện là tình cảm thực sự của nhân dân ta trong thanán. truyện giús ta hiểu, yêu mến và khâm phục biết bao những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước tha thiết và cao cảẺ.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 3

                truyện ngắn làng của kim lân đã ểể lại trong lòng người ọc những ấn tượng khó quên về nhân vật ông hai, một nông dân gến yêu mẛ. p>

                Ông hai có một tình yêu làng quê thật mãnh liệt. mỗi khi nói đến cái làng chợ dầu quê ông nổi tiếng khắp vùng kinh bắc, ông đều kể bằng giọng say mê náo nức lạ thường. nào là làng mình nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh; Nào là ường làng toàn whit . theo ông thì cái gì của làng chợ dầu quê ông cũng hơn hẳn thiên hạ.

                kháng chiến chống pháp bùng nổ, cuộc sống của gia đình ông hai có nhiều thay đổi, duy niềm tự hào về làng chợ dầu dườ yng nhn. Ở nơi tản cư, ông there are kể cho mọi người nghe về làng mình với nhng hố, những ụ chống càn, những giao thông hào chằng chịt như mạng nhện, nhng cụ lando, nhất vùng, có nhà thông tin rộng rãi sáng sủa nhất vùng… ông hai rất kiêu hãnh về phong trào kháng chiến sôi nổa cợa l. Ông đã tích cực cùng mọi người đào đường đắp luỹ, rào làng kháng chiến, gop phần vào những thành tích đáng tự hào của quê>

                tình yêu làng của ông hai được thể hiện một cách cảm động trong những ngày buộc phải tản cư. mọi niềm vui, nỗi khổ của ông gắn liền với vận mệnh của làng chợ dầu kháng chiến. nghe tin ồn dân làng chợ dầu làm việt gian theo tây, ông hai vô cùng đau khổ: cổ ông nghn ắng hẳn lại, da mặt têng.

                Ông cảm thấy đau đớn vì làng chợ dầu yêu quý của ông đã rời bỏ cách mạng. không chịu nổi sự nhục nhã, ông vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi cúi gằm mặt xuống mà đi. về đến nhà, ông nằm vật ra giường, nước mắt cứ dàn ra. Đau đớn, xấu hổ, ông hai lúc nào cũng nơm nớp lo sợ người ta để ý, bàn tán về dân làng chợ dầu theo giặc. Cóc uất qua, ông nắm chặt tay, nghiến răng nguyền rủa: chung bay Ăn miếng cơm there are miếng gì vào mồm mà đi làm cai giống việt gian bán nước ể nhục nhã thế nà! có lẽ đây là lần đầu tiên ông hai oán giận làng mình. không thể san sẻ với người ngoài, ông chỉ còn biết tâm sự với những đứa with cho vơi nỗi đau.

                nhưng rồi nỗi đau khổ, nhục nhã đã được thay thế bằng niềm vui sướng, hân hoan. Ông hai báo với mọi người cái tin làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đốt: tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn… cái tin làng chợ dầu chúng em việt gian ấy mà. ra lao! láo hết, chẳng có gì sất. toàn là sai sự mục đích cả! Ông hai mừng rỡ vì dân làng chợ dầu vẫn trung thành với kháng chiến. làng chợ dầu vẫn xứng đáng với niềm tự hào của ông hai. không nén nổi cảm xúc, ông hai múa tay lên mà khoe. mọi nỗi khổ, niềm vui của ông không bó hẹp trong sự bình yên của bản thân và gia đình mà tất cả đều vì làng chợ dầngu quê hô.

                mỗi người việt nam đều yêu thương, gắn bó với quê hương mình. Đó là nơi tổ tiên ông cha sinh cơ lập nghiệp đã bao đời. Đó là nơi chôn rau cắt rốn, nơi có những người thân yêu đang cần cù làm lụng một nắng hai sương. vì vậy, lòng yêu mến làng quê đã trở thành tình cảm truyền thống của dân tộc việt nam, đặc biệt là người nông dân việt nam. yêu làng cũng là yêu nước. Ông hai đã buồn vui, sướng khổ, đã kiêu hãnh, tự hào vì làng chợ dầu quê hương ông. Đó chính là vẻ đẹp mới trong tâm hồn người nông dân thời kháng chiến chống pháp đã được nhà văn kim lân khám phá và thể hiện.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 4

                nếu như trước cach mạng thatg tám, ngôt tố mang tới một chịu dậu với sức sống ménh liệt của người nông dân, nam cao mang tới một lão hạc ầy lòng tựng tựng và t thì sau cách mạng tháng tám, kim lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông hai trong truyện ngắn “làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.

                Sinh ra và lớn lên nơi làng quê việt nam, giữa những người nông dân chất pHác, nhà văn kim lân đã sớm gắn bó và am hi hi hi hi sâu sắc vềc cuộc sống ởngng thôm, tát tát. No. trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống pháp, khi người dân miền bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những with người chân lấm tay bùn ấy. tac pHẩm ược đĂng lần ầu tiên trên tạp chí văn nGhệ năm 1948, đánh dấu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức ủa họt ật.

                net tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. làng chinh là quê hương, là cuộc đời họ. Ông hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động”. tình yêu làng đã biến ông hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông.

                kim lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông hai không thực sự cần bác thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần ược ở lại làng, cùng chiến ấu với anh em thì như có một louồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm ến bao bao nhiêu ông ông hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và ầy tự hào ến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nhớ khôn Vông Thiêng liêng và ẹp ẽ. ông hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hâo chân chính.

                tình yêu làng của ông hai được thể hiện nổi bật và đậm net nhất khi ông nghe tin làng ông theo tây. như sét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như he không thở được. một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ of him.” nếu như tin dữ ấy là cái làng ẹp ẽ của ông bị ốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông mựỺng không kh. tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ dàn ra”. giá ông không qua yêu làng, không qua tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. mấy chữ “cả làng chúng nó việt gian theo tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành.

                Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. lúc ầu là nghi ngại (“nhưng sao lại nảy raco tin như vậy ược?”), nhưng sau đó là đau ớn khi ược biết những bằng rõng rõng rõng thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy “chao ôi! cực nhục chưa, cả làng việt gian!” Có lẽ Trong ời Mình, ông hai chưa từng chịu ựng there are thậm chí tưởng tượng ược một nỗi đau, nỗi nhục như thế. khiến người ọc cũng nhưm nhận ược nỗi xó x -xa, t. tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?” Có thể những with người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục qua lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạ mẽ nnh ìnhứng. Câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật ộc thoại nội tâm ể lột tả sự đu khổ, xót xa, uất ức m. lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau là long tự trọng, là danh dự.

                không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. cái tin đồn quai ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. cứ thoáng nghe những tiếng tây, việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít.

                thôi lại chuyện ấy rồi!” lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ qua nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng cóm tưởng những người khácƒ cũvng. thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy! lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào! kim lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tấng tảng tản. Ông hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn ng thưô. dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tỡ>

                bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sat tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá!” nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ ​​rệt. dù bị tin đồn làng mình theo tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “về làm gì cái làng ấy nữa. về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ hồ.” nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông hai có nhân thức cách mạng rõ ràng : “làng thì yêu thật nhưng làng theo tây mất ᬻthi thù thù.” nhận thức rất mới này là một net đặc biệt trong tính cách của ông hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau m cá ch tá

                Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. tuy nói chuyện với đứa with, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà she không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ hồ with nhỉ.” Ông hai nói với ứa with như thể nói với anh em ồng chí, ể minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, ể nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi Ƨi . lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quai ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. từ đây, ông hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.

                Đến khi tin làng chợ dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông hai như sống lại. “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông hai lại là ông hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn!” niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. nhưng với ông hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng chợ dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy : làng chợ khn chi dán. tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông hai. quả đúng như nhà văn i-li-a Ê-ren-bua đã từng nói: “lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” nếu so với lão hạc của nam cao there are chịu dậa ngô tất tốcc cach mạngong tám – những người nông dân cả cảc ời ầu tắt mặt tối Trong Ruộng vườn thì nhân vật ôn về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân việt nam thời điểm đó. họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ Không Hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữii ấy ở trong tim, biến thành ộng lực chiến ấu ể ể giải phonng ất nước, giải phonng quê hương.

                truyện ngắn “làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông hai, đặc biệt qua tình huống làng chợ dầu bị đồn là theo tây. nguyễn minh châu từng nói: “tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng l. tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc net, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.” kim lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông hai, những net tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm ông, và hơt là tình and là nt. nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử hành ộng, khi thì ộc thoại tâ ân ảt. ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũn. với nhân vật ông hai, kim lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

                nguyễn Đình thi từng viết rằng: “tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” truyện ngắn “làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống pháp, cũng như những chuyển biến Trong nhận thức và tình cảm của họ .. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống Truyện và miêu tả tâm li, ngôn ngữn vật, kim lân đã mang ến cho b nước sâu đậm, thiết tha.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 5

                trong những ngày ầu cuộc kháng chiến chống pháp của nhân dân ta, nhiều thành phố, làng mạc gần thủ đôc các ịa phương trọi cáng yếcán t. giữa bối cảnh ấy, truyện ngắn “làng” của kim lân ra đời và được xem như một truyện ngắn hay. nhân vật chính trong truyện, ông hai là người yêu mến, gắn bó với làng quê mình. theo dõi từ đầu đến cuối truyện ngắn, nhân vật ông hai để lại trong lòng người đọc một cảm tình sâu đậm, khó qu>

                khép sách lại rồi, ấn tượng rõ nhất về ông hai là một người yêu mến làng quê bằng tình yêu say đắm. tình yêu ấy ở ông như một ngọn lửa hừng hực không nguôi.

                Đối với ông, cái gì ở làng ông cũng đáng tự hào. trong câu chuyện phiếm với bạn bè, bao giờ cũng vậy, cuối cùng, khi câu chuyện tin tức hàng ngày đã nhạt rồi, ông xoay đến chuyện cáng cô. Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường – “hai with mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động”. khoe làng ông có một cái phòng thông tin sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh.

                ườNG Trong Làng toàn whit chính đáng vì nó xuất phát từ tình yêu mãnh liệt của ông đối với quê hương.

                nhưng cũng có lúc tình yêu ấy khiến ông mù quáng đến nỗi ông tự hào cả những chuyện rất khôi hài. Đó là chuyện ông hãnh diện cho làng có được cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. mỗi lần khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh nam lên chơi, thế nào cũng dắt ra xem làng cho kì được. Ông thấy làng ấy một phần như có ông. mãi đến sau cách mạng tháng tám, ông mới nhận ra chỗ sai lầm của mình, vì chính cái đinh cơ ấy đã gây ra bao đau khổ cho dân làng. có người ốm, có người chết, có người làm mấy tháng trời không được một đồng công nào. phần ông, ông bị một chồng gạch đổ vào làm bại một bên hông. cái chân ấy bấy giờ vẫn còn đi khập khiễng cũng vì cái làng ấy.

                khi cuộc kháng chiến bùng nổ, ông hai cùng vợ with phải tản cư đến một làng khác. biết bao buồn bực trong lòng ông. vốn là người hay làm, ở quê ông làm suốt ngày. từ ngày tản cư lên đây, suốt ngày nhong nhong ngồi ăn, tối đến lại ngồi nghe vợ with tính toán tiền nong, ruột gan ông lại nóng Ƒn. Ông phải đi chơi cho khuây khỏa. ngày ngày, ông sang nhà bác thứ một phần để biết tin tức, nhưng chủ yếu là được nói chuyện về làng ông.

                ôNG KHOE NHữNG NGày KHởI NGHĩA RộN RậP ở Làng, NHữNG BUổI TậP quân sự, Có đào Hố, ắP ụ, đào Giao Thông Hào Chiến , không cần bác thứ có quan tâm đến không – “thực ra, ông chỉ nói cho sướng miệng và đỡ nhớ cái làng của ông thôi”. Đó chính là tấm lòng chân thật gắn bó của ông với làng, cũng là niềm tự hào chân chính của ông về làng.

                những ngày đầu kháng chiến, ông tự hào về làng dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn vì làng đã tham gia vào cuộc chiến đấu chung dâcta của. Ở nơi tản cư, chính những tin tức về kháng chiến đã làm cho ông khuây khỏa nỗi nhớ làng. nghe anh dân tộc đọc báo trong phòng thông tin, ông lấy làm khâm phục những con người anh hùng trong kháng chiến: một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong dũng cảm cắm quốc kì lên tháp rùa, một anh trung đội trưởng khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng. Ông tấm tắc: “khiếp thật, tính những người tài giỏi cả”. Ông hả hê trước thất bại của ịch: chỗ này giết ược năm phap với hai việt gian, chỗ kia pha t xe xe tăng và một xe đip, .. “Ruột gann ông lão cứ múa cả lên, vui quá. tấm lòng ông đối với quê hương đơn giản như thế đó!

                nhưng đau khổ thay cho ông hai khi nghe những người mới tản cư lên sau cho biết làng dầu của ông theo việt gian. “cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. bao nhiêu điều tự hào bấy lâu nay bỗng sụp đổ tan tành, Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên tên goc the vi. “Ông cúi gằm mặt xuống mà đi”. về đến nhà, ông hai nằm vật ra giường, không buồn ăn uống, làm việc gì cả.

                nhìn lũ con, nghĩ đến sự rẻ rúng, hắt hủi con người ta đối với dân làng việt gian, nước mắt ông cứ tràn ra. rồi ông lo cho mụ chủ nhà biết được không cho gia đình ông ở nhờ. có đến ba bốn hôm liền, “ông hai không bước chân ra ngoài, cả đến lên bác thứ ông cũng không dám sang”. lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang bàn đến “cái chuyện ấy”. chỉ những người yêu mến gắn bó tha thiết với làng quê mới có nỗi khổ nhục ray rứt như thế.

                hơn lúc nào hết, trong lòng ông canh cánh băn khoăn: trở về làng ở lại tản cư? Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. nhưng “vừa chớm nghĩ vậy, he lập tức lão phản đối ngay”… “về làng tức là bỏ kháng chiến. bỏ cụ hồ “. thật là cảm động khi ta bắt gặp suy nghĩ của ông: “làng thì yêu thật, nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù”. Lắng nghe tâm sự giữa ông và thằng with Út, chung ta cảm thấy xót lòng khi “nước mắt ông chảy ra, chảy ròng ròng trên hai má” vì câu nói của thằng bé: “ủng hộ sự việc đó cũng đồng nghĩa với tình yêu đất nước mà ông hằng ấp ủ trong lòng dù làng dầu có theo giặc.

                nhưng rồi cũng có ngày sự thật sẽ phơi bày. cái điều ông hai mong mỏi cũng đã đến: làng dầu không bao giờ là làng việt gian. chỉ mới nghe người làng đến chơi thì thầm to nhỏ, ông hai đã đóng khăn gói chỉnh tề tất cả đi theo hắn. “Ông vội vã đến quên cả dặn trẻ coi nhà”. Ến xẩm tối ông trở về, mặt mày rạng rỡ hẳn lên, vừa ến ầu ngõ, ông lão đã lên tiếng gọi with trẻ ông chia quà, rồi “ông lật ật đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt dầu là làng việt gian. niềm vui sướng trong lòng ông tràn trề cả ra bên ngoài.

                Ông chia quà cho lũ with như chia sẻ những niềm vui cho chúng. báo tin nhà mình bị tây đốt một cách vui mừng như một bằng chứng hùng hồn rằng ông không phải là việt gian. Ông lật đật đi hết nơi này đến nơi khác, “cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”. niềm vui sướng trong lòng thật là vô bờ bến, thốt thành lời: “Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính…”. tối hôm ấy, ông hai sang bên nhà bác thứ, lại ngồi chiếc chõng tre mà nói chuyện về cái làng của ông đến tận khuya.

                dõi theo câu chuyện, chúng ta hiểu ông hai từ một người âu yếm làng quê mình một cách quá đáng, ông đã gắn liền tình cảm đó với tìớnh y teu. chính vì vậy mà làng dầu của ông có như thế nào đi nữa, ông vẫn một lòng, một dạ ủng hộ cách mạng, ủng hộ cụ hồ. hành động đó là biểu hiện cụ thể của lòng yêu nước chân thành của người nông dân. Đó chính là thước đo của tấm lòng con người đối với quê hương đất nước mình. tình cảm đó rất cao đẹp và rất đáng được trân trọng hơn tất cả các phẩm chất của with người.

                mỗi người đều có quê hương của mình và mỗi người đều có một tình yêu quê hương tha thiết. Ông hai trong truyện ngắn “làng” của kim lân cũng yêu quê hương đến cháy dạ, cháy lòng. Đọc qua tác phẩm này, lòng em bỗng xôn xao một niềm vui vì câu truyện đã khơi dậy trong em tình yêu quê hương đất nước. từ đấy em càng yêu làng xóm, quê hương của mình hơn. những hình ảnh đói nghèo của bà con trong xóm, cũng như trước khó khăn chung của nhân dân, em thấy mình cần phải cố gắng học tập thật nhiều hơn nữa để góp phần xây dựng quê hương đất nước mình thêm đẹp, thêm giàu.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 6

                kim lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác đăng báo trước cách mạng tháng 8/1945. vốn gắn bó và am hiểu sâu sắc cuộc sống ở nông thôn, kim lân hầu như chỉt vềt về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của ngườô Truyện ngắn “làng” ược viết viết Trong throng Thời kì ầ Ông hai, nhân vật chính của truyện rất yêu mến và gắn bó với làng quê của mình. Đặc điểm trên đã thể hiện rõ qua các trạng thái tình cảm khác nhau của ông với làng.

                Ông hai, thật vậy, đã yêu cái làng chợ dầu của mình bằng một tình yêu đặc biệt. Đấy là nơi tổ tiên, cha mẹ ông đã từng sinh trưởng và cũng là nơi chôn rau cắt rốn của ông. do vậy, ông yêu làng này bằng một tình yêu vốn có từ lâu, sâu sắc và bền vững như tình yêu của một nông dân gắn bó với quê hương, nói cụ thể quê hương ấy. bởi thế, mỗi lần nói đến làng chợ dầu ấy, ông đều nói với giọng say mê, náo nức lạ thường. “hai with mắt sáng hẳn lên. cai mặt biến chuyển hoạt ộng ”… ông yêu tất cả những cảnh vật ở làng ông, nên mạnh dạn tự Hào:” thượng hạng”.

                mãi đến sau cách mạng tháng tám, ông mới nhận ra chính cái dinh cơ của quan tổng đốc ấy đã đem lại bao nỗi khổ ải chong dân. có người bệnh, có người chết, bao nhiêu người làm việc không công. riêng phần ông đã bị một đống gạch đổ vào bại một bên hông. cả cái chân ông sau này khập khiễng, đi đứng không ngay ngắn được cũng là do cái lăng tai ác ấy. dưới mắt ông, cái gì của làng chợ dầu cũng lớn, cũng đẹp hơn hẳn những thứ của thiên hạ. từ cái phòng thông tin triển lãm “sáng sủa và rộng rãi nhất vùng”, ến cái chòi phát thanh trong làng, cả ến cây lúa ngoài ồng … cái gì c᧧a làng cŻngô ng ông. p>

                lúc cuộc kháng chiến của cả dân tộc bùng lên, lòng yêu mến làng quê của ông hai đã có những chuyển biến rõ rệt. nếu trước kia, ông hãnh diện vì làng chợ dầu giàu có, tươi ẹp, cái sinh phần của cụ thượng tốt tươi, mới lạ, thì sau cách mạng táng tám, nhờ gic ng ng ng ựhnhnt, tềhthththtg tthtg tthtg tthtg tthtg tthttg tthtg tthtg tthtg tthtg tthtg tttg tttgt mạng sôi nổi ở làng ông. từ những buổi tập quân sự, những hố, những ụ, những giao thông Hào chiến ấu, ông đã bộc lộ niềm Sung sướng của mình trước những sự thay ổi đi đ sự xuất hiện của những phòng thông tin, chòi phát thanh, đúng là cuộc đời, số phận ông thực sự gắn liền với những thăng trầm của làng dầu yêu dấu của ông.Đối với ông hai khi ấy, tình yêu làng mạc và tình yêu đất nước đã chan hòa làm một trong tình cảm và nhận thức của ông.

                những ngày đầu kháng chiến, ông luôn luôn tự hào về việc làng dầu của mình đã tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc. NGAY BảN THâN ôNG CũNG đã nhiệt tình cùng với mọi người đi đào ường, ắp ụ ể ể cản giặc và ông tha thiết muốn ở lại làng ể Trực tiếc tiếc nhưng sau đó ông hai phải theo vợ with tản cư đến một làng khác. nỗi nhớ làng không nguôi, ở nơi tản cư, ông đã tin tức về kháng chiến. không đọc được báo, ông đã tìm hỏi tin cho bằng được. trước tin một em béở ban tuyên truyền xung phong dũng cảm cắm cờ lên tháp rùa; một anh trung đội trưởng giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng, ông hai cứ tấm tắc khen! tinh là những người giỏi cả”. ngoài việc khâm pHục những người anh hùng trong kHáng chiến, ông hai còn hả h ê trước thất bại của ịch: chỗ này giết ược tên phap với hai têt gian, gian, gian, gian lão cứ >

                nhưng không có gì đau ớn, tủi nhục cho ông hai bằng khi nghe một người đàn bà tản cư từ dưới xuôi lên nói: NGHẹN LạI, DA MặT Tê rân rân. ” ớn và nhục nhã ến thế. ông vờ ứng lảng ra chỗ khac rồi đi thẳng, “cúi gằm mặt xuống mà đi”. về ến nhà, “ông nằm vật ra giường”, nước , chưa bao giờ ông đau đớn đến thế, nghĩ rằng: “chúng nó là trẻ with làng việt gian đấy ư?”

                Ông hai căm ghét bọn phản bội làng, phản bội tổ quốc. nỗi đau ớn và nhục nhã và lo sợ của ông lên tới cao ộ khi nghe tin nhân dân ịa pHươNg with người làng dầu tản cư ến là họy chay dân ân ông ông, “” “” vợ chồng, with cai ông ra khỏi nhà. Trước tình cảnh ấy, ông hai bếc tắc nhưng nhất ịnh không chịu trở về làng: “về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ hồ hồ hồ người ta cũng đuổi người làng chợ dầu của ông.

                từ đau đớn nhục nhã như thế, ông hai lại biết bao vui sướng khi nhận được tin làng ông bị giặc phá, nhà ông bị giặc đ. nghĩa là làng dầu của ông không hề theo giặc. “tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ, đốt nhẵn rồi”. Ông hai cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy cho mọi người. “vui mừng vì nhà mình bị đốt!” một niềm vui thể hiện một cách đau xót và ầy xúc ộng thể hiện tinh thần yêu nước, yêu cách mạng của người nông dân việt nam trong chángângo chiếcáng kháng. nỗi vui mừng của ông hai ở đây thật vô bờ bến. Ông hào phóng mua quà cho các con, ông muốn san sẻ niềm vui sướng ấy cho mọi người trong đó có cả mụ chủ nhà từng gieo cho ông nhiều nỗi bọọc.

                từ một người yêu mến ắm say làng mạc của mình, ông hai đã gắn tình yêu ấy với tình yêu ất nước, chính vì vế màng dầu ôtng, ôtng, ôtng, ôtng, ôtng, ôtng, ôtng, ôtng, n. ủng hộ kháng chiến, ủng hộ cụ hồ.

                thật đúng như nhà văn i-li-a Ê-ran-bua nói: “lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu đồng quê trở nên lòng yêu tổ quốc”. quả thật, ông hai là hình ảnh ẹp của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân phapc trước đc đc đc đc đc đc đ nhà văn kim lân đã có những thành công trong việc xây dựng hình tượng người nông dân trong cuộc kháng chiến chống pháp với những tình cảm chân v.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 7

                khắc họa hình ảnh những người nông dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân pháp, nhà văn kim lân đm thẩn thôt riqu. truyện ngắn ể lại ấn tượng sâu sắc cho người ọc về một nông dân chất phát, yêu mến và gắn bó với quê hương bằng tìnhêt yột.

                tác phẩm ra đời từ năm 1948, bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến chống thực dân pháp. Ông hai trong tác phẩm là một người nông dân người làng chợ dầu, cùng gia đình đi tản cư để phục vụ kháng chiến như thế. mặc dù he phải rời xa quê hương nhưng ông luôn trăn trở, nhớ nhung về cái làng của mình với bao sự lưu luyến

                tình yêu của ông đối với cái làng chợ dầu được thể hiện bằng việc ông hay say mê kể về cái làng của mình. trước cuộc kháng chiến ông khoe về cái dinh phần của viên quản đốc làng ông: “chết! chết!, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ của cụ thượng làng tôi”. mặc dù, ông chẳng có họ hàng thân thích gì với nhà viên quản đốc nhưng ông vẫn gọi là “cụ” một cách rất hả hê. nhưng khi kháng chiến chống pháp bùng nổ, làng ông được giải phóng, người ta không thấy ông nhắc tới cái lăng đó nữa.

                bởi trong ông đã sự thay ổi về nhận thức, ông nhận thức ược “cai lăng” đó làm cho cả làng ông khổ, chẳng thế mà “xy cai lă and cla. nó mà chân ông bị tật. từ niềm tự hào, niềm hãnh diện, bây giờ ông thù nó, bởi nó là kẻ thùa cảa làng, nó làm choc biết bao người phải mạng …… bây giờ, ông khoe làng ôc, ôc ôc ôc ôc ôc ôc ôc ôc ôc ôc ôc ôc ôc ôc vào kháng chiến “từ thời còn trong bóng tối”, những nhà ngói san sát, đường lát toàn đá xanh………..

                Ở nơi tản cư, điều khiến ông sung sướng nhất là được khoe về cái làng của mình, dường như đối với ông trong cuộc sống chẳng còn điều gì thú vị nữa, ông chằng bận tâm tới bất kỳ điều gì khác ngoài những tin tức về cái làng của mình “ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày ược làm việc c cùng với anh em thui vẙ mà . Ông thấy mình như trẻ ra..”. trong lòng ông lão lại náo nức cả lên. lúc này, niềm vui nhất của ông là được nghe những tin tức về cái làng của mình. hình ảnh ông hai hiện lên thật đáng yêu, ông ghét những người biết chữ, ra vẻ ta đây, ọc báo mà chỉ ọc có một mình, không cỺ mọc to l.

                tác giả tạo ra tình huống tản cư, hình ảnh ông hai hiện lên mang ầy ủ ủi những phẩm chất quý báu của những người nông dân viànện viàn. Ối với ông, đi tản cư âu cũng là khang chiến, ở nơi tản cư ông làm tất cả mọi việc, từc cuộc ất trồng rau, chăm rau.ọn… hình ảnh ông vừa là hình ả là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sỹ”. nỗi nhớ về quê hương của ông cứ chống chất, ông nhớ, ông đem làng ra kể cho cái nhớ ấy vơi bớt

                Ông hai đau đớn nghe tin làng mình theo giặc. cái tin “làng chợ dầu theo giặc” mà ông nghe được của một người đàn bà tản cư làm ông lão cảm thấy choáng vàng, như tiếng sét giời quang tr. “cổ ông lão nghẹn đắng lại, giọng ông lạc hẳn đi, da mặt tê rân rân. một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ…”. Ông cúi gằm mặt xuống mà đi, Ông nghĩ đến sự khinh ghét của bà chủ nhà, của bà with lối xóm “rồi đây ai người ta chứán, aiƺng”. tâm trạng ông lão như vừa mất đi thứ gì thiêng liêng lắm.

                Ông luôn tự hào về quê hương mình, luôn khoe làng mình như một ví dụ điển hình cho đấu tranh giải phóng, chống giặc. vậy mà giờ đây, ông lại phải nghe tin làng mình theo giặc, không giấu nổi sự nhục nhã ông vờ đứng rồi lảng ra chỗ mđi khác. về tới nhà, ông nằm vật ra giường, đường sự bao niềm tin, bao tự hào của ông đều sụp đổ, nước mắt ông giàn ra. nhà văn kim lân diễn tả tâm trạng của ông hai thật xúc động. “nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. chúng nó cũng là trẻ with làng việt gian đấy ư? chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu?. …”. Đau ớn, tủi hổ, nếu như ông không yêu làng ến thế, không tự hào như thế, thì giờ đy khi nghe tin dữ ông đã không cảm thẻy êhẰ ch. khổ thân ông lão vốn xởi lởi, vui tính, ban ầu ông nghi ngng, ông tựi lòng mình, trong ầu ông điểm lại những nhân vật trong làng “mà th th đng đn đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng.

                dường như, ông không thể chấp nhận nổi cái tin đó, ông ấu tranh nội tâm một cách giữ dội nhưng rồi cuối c cuar. sự đau đớn đến tột cùng, có lẽ nếu như he phải nghe tin làng bị cháy rụi hay bị giặc đốt phá có lẽ ông lão không cấy gi xƝ th . có lẽ, đối với ông đây là điều tủi hổ nhất “chao ôi! cực nhục chưa, cả làng việt gian”. những lời đó như ược xuất phát từ trái tim ông, cả ời ông có lẽ chưa bao giời chịu cảnh tủi nhục như thế, nó ượn tàn c. Ông không những chỉ đau cho mình, cho gia đình mình, mà còn đau cho tất cả những người cùng quê hương cũng đang lưu lạc trên khắp mọi miền đất nước “lại còn biết bao người làng, đang tan tác mỗi người một phương nữa , không biết họ đã biết cái cơ sự ngày chưa…’.

                ến khi, Cái tin làng chợu dầu Theo giặc ược cải chính, tất cả những nỗi đau, tủi nhục ược thay thế bằng niềm Sung sướng, hân hoan sai sự mục đích cả”. Ông hai bao cai tin làng bị giặc pHá với niềm Sung sướng tột ộ, mặc dù nhà ông bị giặc ốt nhưng dường nhưng chẳng cócc cort đau buồn nào “t tt nhà nhà nhà nhà ôt. , của quê hương ông cũng chính là minh chứng rõ ràng nhất cho lòng trung thành dành cho cách mạng

                nhà văn kim lân đã khắc họa thật riqu net nhân vật ông hai, hình ảnh ông cũng là ại diện cho tầng lớp nhân dân việt nam trong cuong cuong khángến cho gn.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 8

                kim lân là nhà văn rất am hiểu cuộc sống của người nông dân ở nông thôn miền bắc. tất cả các truyện của ông đều xoay quanh cảnh ngộ và sinh hoạt của người nông dân. Truyện “Làng” ượC Kim Lân Sáng tac trong Thời Kì ầu của CUộC KHANG CHIếN CHốNG PHAPP Và đĂNG TRên TạP CHÍ VăN NGHệ NăM 1948. NHâN VậT CHINH Là ô tác giả đã miêu tả khá thành công diễn biến tâm trạng của ông khi nghe tin đồn làng ông theo giặc. qua đó, tác giả muốn ca ngợi tinh thần yêu nước của ông nói riêng và của người dân việt nam nói chung.

                Ông hai là người rất tự hào về cái làng chợ dầu của mình. khi phải di tản cư ông cứ nhắc đi nhắc lại với những người chung quanh cai không khí cach mạng của làng ông: “giới phụ lão crụ râu tóc bp phơc phơ come quần lên tận bẹn mài liên miên về cai làng của ông. , ông lại nGhĩ về làng. ông cứ muốn về làng, muốn ược “cùng mọi người đào ường, ắp ụ, xẻ hào, khuân đá …”. NGHẹN ắNG HẳN LạI, DA MặT Tê rân rân “,” CHếT LặNG đI TưởNG NHư KHôNG THở ượC “KHI NGHE TIN Cả Làng Mình Theo Việt Gian! Lúc hẳn”: “liệu có thật không hở bác. khi có người quảt vì ra ở ướ ướ ướ ướ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ. “việt gian từ thằng chủ tịch mà đi” …, thì ông hai không thể nghe thêm ược nữa. ông đánh trống lảng rồi đi thẳng. chung no! Đói khổ ăn cắp, ăn trộm bắt được người ta còn thương. còn giống việt gian bán nước thì cứ cho mỗi ứa một nhát! “. NướC ể NHụC NHã Thế Này! “… không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả. trongông đang diễn ra sự giằng xé. nửa tin, nửa ngờ.

                Đêm đó, ông hai không sao ngủ được, “ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài.” khi mụ chủ nhà nói xa nói gần không chứa chấp người làng làm việt gian, ông lão ngồi lặng đi. bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn nối tiếp bời bời trong đầu ông, ông định quay về làng. vừa chớm nghĩ như vậy, he lập tức ống phản đối ngay: “về làm gì cái làng ấy nữa. chúng nó theo tây cá rồi, về làng tỺkhán.” nghĩ vậy nước mắt ông giàn dụa. nhớ lại thuở xưa – thuở cuộc đời đen tối, lầm than, ông “rợn cả người”… chỉ chừng ấy chi tiết. kim lân đã cho người đọc hiểu tình cảm của ông hai đối với cách mạng, đối với đất nước như thế nào. nếu không yêu nước, không tin tưởng vào cách mạng làm sao ông uất nghẹn, đau khổ đến như thế. và cũng chính điều đó mà ông đã mừng rơn lên khi biết đích xác những lời kia chỉ là sự đồn đại láo toét. Ông đi tìm bác thứ ể thanh minh: “chynh cái tin làng chợ dầu chúng tôi đi việt gian ấy mà. láo! láo hết! toàn là sai sự mục đích cả” ông lặp lái lá. Sai sự mục đích cả “, ông hai còn múa tay lên mà khoe tin ấy với mọi người … và tối hôm ấy, ông lại sang bên nhà bác thư, lại ngồi trên chi ếng tre, see chuyện vền về … kim lân đã chọn ược một tình huống khá ộc đáo. Cách thể hiện lòng yêu nước của nhà văn cũng Co nét riêng không giống với bất cứ nhà vĂn nào cùng thời.

                có thể nói “làng” là một truyện ngắn khá hay. thành công lớn nhất về mặt nghệ thuật là khả năng miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Đoạn ông hai nghe tin đồn làng ông làm việt gian đã thể hiện tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của kim lân. thông qua nhân vật ông hai, tác giả muốn ca ngợi tình yêu quê hương, tình yêu ất nước, sự giác ngộ cách mạng của những người nền hiền dânề. chynh tình yêu quê hương ất nước, ý thức giác ngộ cách mạng ấy mà họ một lòng theo ảng, theo cách mạng, ứng lên giành quyền sốngền, ền.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 9

                kim lân là một nhà văn có sở trường về mảng đề tài cuộc sống của with người ở nông thôn thôn việt nam. theo nguyên hồng thì she đó là một nhà văn “1 lòng đi về với ất, với người, với thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sốn thên qu, with ngốn qu. nhà văn kim lân đã viết thành công tác phẩm làng ở giai đoạn sau cách mạng tháng tám. tác phẩm đã gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc về những chuyển biến mới trong tình cảm của người dân việt nam trong thời kì ng. Đặt biệt là nhân vật ông hai với tình yêu làng và tình yêu nước sâu sắc.

                làng là một tác phẩm ra đời vào đầu những năm kháng chiến chống pháp. chuyện có kết thúc đơn giản, xoay quanh nhân vật ông hai với những tình cảm của ông về làng chợ dầu của mình. Ông hai đã trở thành một hình tượng tiêu biểu cho người nông dân việt nam trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân pháp.

                trước cách mạng tháng tám, mỗi khi về làng của ông, ông chỉ khoe và tự hào về cái sinh phần ở cuối làng của vivilng đc làng mình cho dùh cho dù cáy sin. nhưng sau khi cách mạng tháng tám thành công, ông lại có suy nghĩ và nhận thức khác về làng mình. ÔNG KHông Còn Khoe Cái SINH PHầN ấY NữA Mà ông lại đi khoe rằng làng mình là một làng kháng chiến, từ cụ già ến trẻ with ều là những người có tinh thầ

                Ông hai rất yêu làng mình nhưng theo lệnh của cụ hồ, ông phải xa làng đi tản cư ở một nơi khác. Ông buồn lắm và ông đã tự an ủi mình rằng “đi tản cư cũng là đi kháng chiến”. nhưng ông lòng ông luôn day dứt vì nhớ làng và các anh em ở lại làng. những lúc nhớ làng, “ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” hằng ngày, ông thường đến phòng thông tin để nghe tin tức kháng chiến. ruột gan ông “cứ múa cả lên” vì phấn khởi khi nghe được tin: “một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ hoàn kiếm cắrùa pìc qu”. và tin: “một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng”. chắc hẳn chính tình yêu nước đã làm ông cảm thấy vui khi nghe mấy tin ấy.

                ông buồn khổ, tủi nhục và bàng hoàng khi nghe tin làng chợu dầu của ông theo giặc: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tên rân rân. “Ông hai nằm vật ra giường”; “nước mắt ông lão cứ dàn ra”; “tâm trạng ông ầy giằng xé”; “bao nhiêu ý nghĩ đen tối ghê rợn nối tiếp, bời bời bời bời bời bời bờ Biết đem nhau đi đâu bây giờ? “. tây thì pHải thù.

                Ông càng buồn khổ bao nhiêu, ông càng sung sướng bấy nhiêu khi nghe tin làng ông được cải chính. Ông chạy khắp xóm, gặp ai là khoe rằng giặc tây đốt nhà của ông. Đó là một minh chứng xác thực cho làng chợ dầu của ông không theo giặc: “bác thứ đu rồi? bác thứ làm gì ấy?”. nói xong ông lại đi nơi khác để báo cho nhiều người biết về cái tin ấy. mọi niềm vui, niềm tin của ông hai không chỉ bó hẹp trong sự bình yên của bản thn và gia đình mà tảt cả mọi người ều cảm thục Ƒy Ƒ.

                nhân vật ông hai là một người nông dân với tất cả sự chân chất, mộc mạc đã bước vào trang Sách của kim lân, ể lại nhiều tình cảm ẹM cảm phục. qua đó, ta thấy được những biểu hiện cụ thể về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong các cuộc kháng chiến chống giặc xâmại

                qua tac phẩm làng, nhà văn kim lân đã thành công trong việc ổi mới trong nhận thức và tình cảm của người nông dân việt ệt ệt nam trong giai ng một ngườt người cả chứ nhất định không chịu khuất than với giặc. Đó chính là vẻ đẹp của tình yêu nước sâu thẳm của nhân vật ông hai. Đáng cho chúng ta trân trọng.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 10

                kim lân, ông đã để lại cho nền văn học việt nam những tác phẩm từ trước và cách mạng tháng tám 1945 kiệt xuất. Ông đã xây dựng nên những người nông dân yêu nước chân thật và giản dị. trong đó có ông hai jue. Ông đã khắc họa thành công nhân vật ông hai ể rồi nói lên niềm tâm sự của mình theo tac pHẩm “làng” về cảnh người dân tản bỏ nơi chôn rau cắt rốn của mình. từ đó ông đã hóa thân thành ông hai một cách thực sự.

                khi nhắc tới người nông dân việt nam thì ai cũng có thể liên tưởng ến sực cực khổ tận cùng dưới ác bó lột của thực dân, song với với đó làng yêu sắc, thc, thc. thật vậy, ông hai là một người rất yêu nước, đặc biệt là yêu cái làng. Ông luôn nhớ về cái làng như “with nít nhớ cà rem”, “cây kem nhớ tủ lạnh”. he nhớ về những lúc cùng thanh niên làm việc “cùng hát hỏng, cùng đào, cùng cuốc, mê man suốt ngày”. Ông tự nghĩ một mình rồi tự vui một mình, tự “thấy mình trẻ ra”, “thấy náo nức hẳn lên”.

                tuy đã ược tản cư vào khu yên ổn, không bom, không mìn, nhưng ông vẫn canh cánh trong lòng, lo lắng, “không biết cái cát. còn khướt lắm”. Ông buồn, buồn hẳn đi, có lẽ ông tự trách mình không trẻ được để ở lại chống giặc như các anh các chị thanh niên. da diết “chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá”. Ông lão nhớ cái làng như ứa trẻ thèm khát sữa mẹ, luồng sữa ấm nồng ược nuôi dưỡng từ tình yêu thương và dinh dưỡng mủa ng. còn ông, cái làng là nơi “chôn rau cắt rốn”, là nơi ông sống từ lâu ời bấy lâu nay, là nơi tổ tiên ông ịnh canh ịnh bấy bấy bnhi -cũng. /p>

                niềm tự hào đó không dừng lại trước cái đình to lớn mà đi đâu ông cũng khoe mà cả con người ỡ đó, rồi cái sinh phần của ông tổng đốc làng ông với những tảng đá của ông hoàng thạch công đánh rơi giày tượng đá bằng sứ của “bát tiên quái hải”. mỗi bận nói đến cái làng chợ dầu của ông thì “hai with mắt sáng ra hẳn lên. cái mặt biến chuyển hoạt động.” giống, có lẽ giống với bản chất người nông dân thời bấy giờ, tình yêu làng chuyển sang và hình thành tình yêu nước mãnh liệt. kim lân cũng để nhân vật của mình tiến triển như vậy. Ông hai háo hức hẳn lên khi nghe tin thắng trận về từ người khác.

                hôm đó, khi nghe anh quân nhân đọc báo về chiến công của cách mạng thì “ruột gan ông cứ nhảy múa lên, vui qua!”. tỉ lệ thuận với tình yêu nước là sự căm thù giặc đến tận xương tủy đến. Và ngược lại nếu như người ta ặt qua nhiều niềm tin vào một thứ gì đó thì khi sụp ổ họ sẽ mất cân bằng, mất niềm tin và đau ớn sẽ tràn ngập. khi ông càng yêu cái làng, tôn thờ, tự hào, hãnh diện bao nhiêu thì nó lại càng tủi nhục, đau ớn, xé lòng bấy nhii khi I am against. ” “ông như không muốn tin điều đó là sự thật. có lẽ ông đã không tin nên cất tiếng hỏi gặng lại “liệu ​​có thật không, hở bác? có lẽ ông đã tự phân minh, biện bạch cho bản thân mình.

                Ông đã tự tìm ngọn đuốc lẻ loi trong niềm tin của mình khi đã tan vỡ. nhưng ngọn đuốc duy nhất và nhỏ bé ấy lại bị chynh miệng người đàn bà đó dập tắt khi bà khẳng ịnh chắc nịch rằng “thì chung tôi vừa ở dởi chủ tịch mà đi cơ ông ạ. tây vào làng, chúng nó bảo nhau vác thần ra hô. thằng chánh bệu thì khuân củ, chè, vón, vón, vón. NHông, ưa vợ with lên vị trí với giặc ngoài tỉnh mà lại “. ​​tai hi vọng vụt mất ngay, nó biến mất nhanh qua.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 11

                “làng” của nhà văn kim lân là một Truyện ngắn ặc sắc về chủ ề ề tình yêu quê hương ất nước của người nông dân việt nam trong kháng chiến chống dichth. nhân vật chynh của tác phẩm – ông hai – chẳng những là một người nông dân chất phác, hồn hậu như bao người nông dân khác mà còn làng mờ.<p chính tại nơi đây ông luôn trăn trở về cái làng thân yêu của mình với bao tình cảm, suy nghĩ vô cùng cảm động…

                trước hết, ông là một người nông dân chất phác, nồng hậu, chân chất… như bao người nông dân khác. Ến nơi tản cư mới, ông thường ến nhà hàng xÓm ể cởi mở giãi bày những suy nghĩ tình cảm của mình về cái làng chợ dẻ cẻu cẻu, vủu cẻu. “Chỉ ọC thầm không ọc to lên cho người kHác còn biết. “…. xấu đi trong mắt người đọc mà chỉ càng khiến ông đáng yêu, đáng mến hơn.

                không chỉ vậy, điều đáng quý nhất ở ông hai chính là tấm lòng yêu làng tha thiết. và biểu hiện của tấm lòng ấy cũng thật đặc biệt.

                cái làng đối với người nông dân quan trọng lắm. nó là ngôi nhà chung cho cộng đồng, họ mạc. Đời này qua đời.khác, người nông dân gắn bó với cái làng như máu thịt, ruột rà. nó là nhà cửa, đất đai, là tổ tiên, là hiện thân cho đất nước đối với họ. TRướC CACH MạNG THÁNG TAMM, ôNG HAI Thuộc loại “khố Rách ôm”, từng bị “bọn hương lí trong làng truất ngôi trừ ngoại xiêu dạt đi, Lang than hết nơi này , chợ lớn kiếm ìn. ba chìm bảy nổi mười mấy nĂm trời mới lại ược trở về quê hương bản quán. nên ông thấm thía lắm cai củnh tha hương cầu tực. thơ. cứ xem cái cách ông hai náo nức, say mê khoe về làng mình thì sẽ thấy. làng ông: “chết! chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi.”.

                và mặc dù chẳng họ hàng gì nhưng ông cứ gọi viên tổng đốc là “cụ tôi” một cách rất hả hê! sau cách mạng, “người ta không còn thấy ông ả ộng gì ến cái lăng ấy nữa”, vì ông nhặn thức ược nó làm khổ mình, làm khổ mọi ng ng ng. phục dịch, cả làng gánh gạch, ập đá, làm phu hồ cho nó. […] cái chân ông đi tập tễnh cũng vì cái lăng ấy “bây giờ ông khoe làng ông ônghĩ ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ô ông khig từ hồi kì còn trong bóng tối “, rồi những buổi tập quân sự khoe những hố, những ụ, những giao thông hào cếa làng ông, … cũng vì yêu làng tản cư. Ến khi buộc phải cùng gia đình đi tản cư ông buồn khổ lắm, without ra there are bực bội, “ít nói, ít cười, cai mặt lúc nào cũng lầm lầm. Ông thấy mình như trẻ ra.[…] trong lòng ông lão lại thấy náo nức hẳn lên.”. lúc này, niềm vui của ông chỉ là hàng ngày đi nghe tin tức thời sự kháng chiến và khoe về cái làng chợ dầu của ông đánh tây.

                Ông lão đang náo nức, “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui qua!” vì những tin kháng chiến thì biến cố bất ngờ xảy ra. một người đàn bà tản cư vừa cho with bú vừa ngấm nguýt khi nhắc đến làng dầu. cô ta cho biết làng dầu đã theo giặc chẳng “tinh thần” gì đâu. Ông hai nhận cái tin ấy như bị sét đánh ngang tai. càng yêu làng, hãnh diện tự hào về làng bao nhiêu thì bây giờ ông hai lại càng thấy đau đớn, tủi hổ bấy nhiêu. nhà văn kim lân đã chứng tỏ bút lực dồi dào, khả năng phân tích sắc sảo, tái hiện sinh động trạng thái tình cảm, hành động của con người khi miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật ông hai trong biến cố này.

                cai tin làng chợ dầu theo giặc đã làm ông điếng người: “cổng lão nghn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. “ông hai cúi gằm mặt xuống mà đi” và nghĩ đến sự dè bỉu của bà n hà chỻ. Ông lão như vừa bị mất một cái gì quý giá, thiêng liêng lắm. những câu văn diễn tả tâm trạng thật xúc ộng: “nhìn lũ with, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. chún cũng là trẻ with làng việt gian ấy? bằng ấy tuổi đầu…”. nỗi nhục nhã, mặc cảm phản bội hành hạ ông lão đến khổ sở: ”chao ôi! cực nhục chưa, cả làng việt gian! rồi đây biết làm ăn buôn bán ra sao? ai người ta chứa. ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cai nước việt nam này người ta ghê tởm, người ta thùn cai giống việt gian bán nước … “. vàng nhờ nhờ ở ngọn đèn dầu lạc vờn trên net mặt lo âu của bà lão.

                tiếng thở của ba ứa trẻ chụm ầu vào nhau ngủ nhẹ nhàng nổi lên, nghe như tiếng thở của gian nhà. ê chề. thậm chí ông không dám nhắc tới, phải gọi tên cái chuyện phản bội là “chuyện ấy”. ông tuyệt giao vợt cải mọi người “không dám b ước ch. chồng ông lo nhất cũng đã ế căng thẳng Ông hai phải đối mặt với tình cảnh khó khăn nhất : “thật là tuyệt đường sinh sống! [..] đâu đâu có người chợ dầu người ta cũng đuổi như đuổi hủi. mà cho dẫu vì chính sách của cụ hồ người ta chẳng đuổi đi nữa, thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu.”.

                từ chỗ yêu tha thiết cái làng của mình, ông hai đâm ra thù làng: “về làm gì cái làng ấy nữa. chúng nó tteo ​​tây cả rồi. ông giàn ra”. ông lại nghĩ ến cảnh sống nô lệ tăm tối, lầm than trước kia. bao nỗi niềm của ông không biết giãi bày cùng ai đành

                – hức kia! thầy hỏi with nhé, with là with của ai?

                – là with thầy mấy lị with u.

                – thế nhà with ở đâu?

                – nhà ta ở làng chợ dầu.

                – thế with có thích về làng chợ dầu không?

                thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:

                – co.

                Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu lại hỏi:

                – À, thầy hỏi with nhé. thế with ủng hộ ai?

                thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:

                – Ủng hộ cụ hồ chí minh muôn năm!

                nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:

                – Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ hồ with nhỉ.

                những lời đáp của with Trẻng là tâm huyết, gan ruột của ông hai, một người lấy danh d dự của làng quê làm danh dự của chính mình, một người son sắt một l. những lời thốt ra từ miệng with trẻ như minh oan cho ông, chân thành và thiêng liêng như lời thề đinh ninh vang lên từ đáy lòng ông:

                “anh em đồng chí biết cho bố with ông

                cụ hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông.

                cái lòng bố with ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”

                nhà văn đã nhìn thấy những net đáng trân trọng bên trong người nông dân chân lấm tay bùn. nhân vật ông hai hiện ra chân thực từ cái tính hay khoe làng, thích nói về làng bất kể người nghe có thích hay không; chân thực ở đặc điểm tâm lí vì cộng đồng, vui cái vui của làng, buồn cái buồn của làng và chân thực ở những diễn biến của trạng thái tâm lí hết sức đặc trưng của một người nông dân tủi nhục, đau đớn vì cái tin làng minh phản bội. nếu như trong biến cố ấy tâm trạng của ông hai đau ớn, tủi cực bao nhiêu thì khi vỡ lẽ ra rằng đó chỉ là tin ồn không đúng, làng chợu dầu hê bấy nhiêu. Ỏng hai như người vừa được hồi sinh.

                một lần nữa, những thay ổi của trạng thati tâm lại ược khắc họa sinh ộng, tài tình: “cai mặt buồn thiu mồi ngày bỗng tươi vui, r. Ông khoe khắp nơi: “tây nó ốt nhà tôi rồi bác ạ ốt nhẵn! […] láo! láo hết! toàn là s sa mục đích cả.” tây nó ốt nhà tôi rồi ông chủ ậ ậ. Đốt nhẵn.[… ] ra láo! láo hết, chẳng có gì sất. toàn là sai sự mục đích cả! “. quyết ứng về pHía kHáng chiến. Cái tin ấy khiến ông lại ược sống như một người yêu nước, lạico ti ếc sự khoe khoan sực sảc sảo, ộc đa của của của

                người đọc sẽ không thể quên được một ông hai qua yêu cái làng của mình như thế. lúc ông nói thành lời there are khi ông nghĩ, người ọc vẫn nhận thấy rất rõ ặc điểm ngôn ngữ của vùng quê bắc bộc, của một làng bắc bộc bộc: “n. bao giờ dám ơn sai”, … ặc biệt là nhà văn cố ý thể hig những từ ngữ dùng sai trong lúnc quá hưng phấn của ông hai. những từ ngữ “sai sự mục đích cả” là dấu ấn ngôn ngữ của người nông dân ở thời điểm nhận thức đang chuyển biến, muốn nopi cai mới nhưng từ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ ngữ sự sinh động, chân thực, thú vị của câu chuyện phẩn nào cũng nhờ vào đặc điểm ngôn ngữ này. trong tác phẩm, nhà văn cũng thể hiện rõ sự thông hiểu về lề thói, phong tục của làng quê. kim lân đã vận dụng những hiểu biết đó hết sức khéo léo vào việc xây dựng tâm lí, hành động, ngôn ngữ nhân vật. Cốt Truyện ơn Giản, sức nặng lại dồn cả vào mạch diễn biến tâm trạng, vào lời thoại của nhân vật nên câu chuyện có sức hấp dẫn riêng, ấn tượng ri.

                tình yêu làng của ông hai không đơn giản, hẹp hòi là tình yêu chỉ riêng đối với nơi ông sinh ra và lớn lên. Ê-ren-bua từng tâm đắc: “tình yêu làng xóm trở nên tình yêu quê hương đất nước”. và bởi thế, tình yêu làng của ông hai gắn bó chặt chẽ với tình yêu nước với tinh thần kháng chiến đang lên cao của cả dân t. Đó cũng chính là biểu hiện chung của tình yêu đất nước của người nông dân việt nam trong kháng chiến chống pháp.

                trong số rất nhiều những nhân vật nông dân khác, người ọc khó có thể burn một ông hai yêu làng quêu ất nước, thuỷ chung với khán. một ông hai thích khoe làng, một ông hai sốt sắng nghe tin tức chynh trị, một ông hai tủi nhục, đau ớn khi nghe tin làng mình theo giặc, một ubly, … , nghe ông nói chuyện còn thú vị hơn nữa: hình như ta gặp ông đâu đó trong làng rᬻ phi > th

                ông hai là một nhân vật ộc đao mang nhiều ặc điểm chung tiêu biểu cho người nông dân việt nam trong kHáng chiến chống phap nhưng ồng thời cũng mang ng ng ng ng ng ấ Ông đã trở thành linh hồn của làng và thể hiện trọn vẹn tư tưởng của nhà văn và tác phẩm.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 12

                kim lân nhà văn có tác phẩm đăng báo từ trước cách mạng tháng tám. Ông sinh ra và lớn lên ở một vùng quê có truyền thống văn hóa lâu ời nên él am hiểu rất nhiều về nông thôn việt nam và cảnh ngộ cờgủa ngưn. vì thế, khi viết về đề tài này, kim lân thành công hơn cả. Đặc biệt ở truyện ngắn “làng”, tác giả đã xây dựng được hình tượng ông hai, một người nông dân cần cù chất phác, giàu tình yêu đối với quê hương đất nước, gắn bó bền chặt với cuộc kháng chiến trường kỳ của give tộc.

                Ở phần đầu câu chuyện, ta thấy ông hai rất yêu làng. tình yêu thiết tha và nồng thắm của ông thể hiện qua niềm tự hào hãnh diện và cái tính khoe làng cố hữu.

                cuộc kháng chiến chống pháp nổ ra. cũng như bao nhiêu người nông dân khác, ông hai luôn tin tưởng vào kháng chiến, vào sự lãnh đạo của hồ chủ tịch. vợ with đi tản cư, nhưng ông hai vẫn muốn ở lại cùng với đội du kích đào đường đắp ụ để bảo vệ cái làng dầêu thân. Đến khi hoàn cảnh gia đình neo bấn, vợ with thúc bách qua, cực chẳng đã ông mới rời làng đi tản cư. ra đi mà ông hai cứ an ủi mình “tản cư âu cũng là kháng chiến”.

                xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông hai có phần thay đổi. Ông ít nói ít cười, đôi khi cáu gắt. nỗi nhớ làng cứ da diết trong lòng của ông khiến cho ông cảm thấy buồn bực không yên. Ông nhớ từ con đường làng đến mái ngói, nhớ phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng đến cái chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, nhớ những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng cho đến những lúc cùng anh em đào hào đắp ụ chiến đấu… Ông hai cảm thấy lúc ấy mình trẻ trung vô cùng, “cũng hát hỏng, bông phèng”. cùng với anh em. càng nghĩ tưởng, nỗi nhớ càng dâng trào da diết trong lòng ông hai như những đợt sóng lòng dồn dập. “bye ôi, ông lão nhớ làng. nhớ cái làng qua!”.

                niềm khuây khỏa lớn nhất của ông hai là sag bên gian nhà bác thứ ể ể nói chuyện và ược ra chợ, ến cai phòng thông tuyên truyền ể nghe tức vềc vềc vềng ching thông thông tuyê

                và rồi một tình huống xảy ra làm cho tình yêu nỗi nhớ làng của ông hai bị thử thách. từ đó, người ọc phát hiện ra ngoài tình cảm Thiêng liêng mà ông hai dành choc ca Cái làng chợ dầu của mình còn có một tình cảm khccthng liêng l Vĩ ạ ạ ạ ĩ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ Đó là tình yêu đất nước thể hiện qua tình cảm đối với kháng chiến, với cụ hồ…

                Ở phòng thông tin tuyên truyền, ông hai lắng nghe và cảm thấy trân trọng, tự hào trước những tấm gương anh hùng trong cuộc chiến. Ông cảm thấy vui sướng đến nở từng khúc ruột trước những thắng lợi dồn dập của quân ta., “ruột gan ông lão cợ múa cn. Wow what!”.

                ngay sau đó, ông nhận ược cai tin dữ từ những người đi tản cư – cả làng dầu ều trở thành việt gian theo giặc – “việt gian từ thằng chủch tịch trởi cơ ô. Cho ông lão “cổ nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “rặn è è” “giọng lạc hẳn”. ông tủi nhục cúi gằm mặt xuống mà đi. “nằm vật ra giường” “nhìn lũ with, tủi thân, nước mắt ông lão tràn ra”.

                những ngày kế tiếp, ông hai sống trong bi kịch triền miên. Ông sợ hãi trốn tránh như một tội phạm, “một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũt d chạ. lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý bàn tán về “cái chuyện ấy”. cứ thoáng nghe những tiếng tây, việt gian, cam nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít.” d

                bi kịch dâng lên đến đỉnh cao. Ông hai bị đẩy vào trong tình cảnh bế tắc tuyệt vọng khi bà chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. “thế là tuyệt đường sinh sống!” Ông đi đâu bây giờ? Khắp nơi, “Không chỉ cai ất thắng này mà cả ở đài, nhã nam, bố hạ, cao thượng … ở đâu nghe ến người làng chợu dầu là người ta đuổi nhưuổi hủi của cái làng việt gian này nữa chứ?

                trước mắt ông hai chỉ có hai with đường. Ở lại thì không được rồi. còn về làng… vừa chớm nghĩ đến thôi, ta đã thấy ông hai gạt phắt đi ngay. “về làm gì cái làng ấy nữa. chúng nó làm việt gian theo tây cả rồi”. và ông cũng khẳng định: “về làng là phản bội kháng chiến, phản bội cụ hồ”. dù ông hai luôn ước mong được trở về làng, nhưng lúc này ông lại khẳng định: “làng thì yêu thật, nhưng làng theo tây mất thrồ>

                mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế trước mắt làm cho ông hai bế tắc. trong tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông hai chỉ còn biết trút nỗi lòng của mình vào những lời thủ thỉ tâm sự với ứa with nhứa:

                – À, thầy hỏi with nhé. thế with ủng hộ ai?

                – Ủng hộ cụ hồ chí minh muôn năm!

                lòng trung thành của cha with ông, của hàng triệu nông dân việt nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc. vẻ đẹp ấy rất đáng tự hào ca ngợi.

                Đến giây phút này, từ trong bi kịch của ông hai, ta lại thấy sáng ngời lên một tình cảm cao đẹp khác. Đó là tinh thần yêu nước, gắn bó với kháng chiến, với cụ hồ.tình cảm thiêng liêng ấy đã bao trùm lên tình cảm đối v.

                cho nên, khi nghe tin làng dầu theo tây được cải chính, ông hai là người sung sướng nhất. Ông vui tươi rạng rỡ hẳn lên, “mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ… Ông mua quà cho con, ông chạy đi “khoe” cái tin “, “nhà mtĻk ” cái tin nhà mċ, ” cái tin làng dầu không theo giặc. nỗi mất mát về nhà cửa dường như tan biến trong niềm hạnh phúc dâng trào – làng chợ dầu, ngôi làng mà ông luôn yêu mến tự hào giờgánn đy vẫ.

                có thể nói, ông hai là nhân vật điển hình cho lớp nông dân trong kháng chiến. vốn là những with người chân thực, chất phác, những ngày đầu tiếp xúc với cách mạng, họ vẫn còn bỡ ngỡ. nhưng rồi cảm giác ấy tan đi nhanh chóng, họ đón nhận cách mạng với tình cảm chân thành, với lòng hăm hở nhiệt tình. họ háo hức hòa nhịp cùng phong trào kháng chiến, học hăng hái cầm súng bảo vệ quê hương. cách mạng đã trở thành một phần trong cuộc đời của họ. lòng trung thành, tình cảm gắn bó bền chặt của người nông dân trong kháng chiến làm cho chúng ta xúc động. nhà văn kim lân đã tinh tế phát hiện những net ẹp tâm hồn của người nông dân ể từ đó khắc hoạ nên một bức chân dung gẙi vàn gŻs.

                Trong tac phẩm, nhà văn kim lân đã xây dựng những tình huống ầy kịch tinh ẩy nhân vật vào trong sự bếc ếc ến tuyệt vọng, qua đó làm nổi bật tâm what, đất nước. ngôn ngữ diễn đạt mộc mạc chân quê càng giúp người đọc hiểu và yêu mến ông hai nhiều hơn.

                tóm lại qua hình tượng nhân vật ông hai, chung ta cr tểu hơn vềc cuộc kHáng chiến trường kì của dân tộc, hiểu ược nguyên nhân vìa sao một ất nước bé nước bé n đầu sỏ như thực dân pháp. Bài học sâu sắc nhất ối với mỗi người chung ta khi ọc truyện ngắn này là tình yêu quê hương ất nước, là Lòng tự hào và biết

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 13

                hình ảnh người nông dân từ lâu đã đi vào nền văn học dân tộc, nó trở thành ề ề tài, khơi nguồn cảm hứng cho biẻờg bao nhƩn. nếu như trước cách mạng tháng tám, ta bắt gặp hình ảnh chị dậu quẩn quanh trong cái đói, cái nghèo qua truyện ngắn “tắt đa ng”; hình ảnh chí pHèo tha Hóa, biến chất từ ​​người lương thiện trở thnh thằng côn ồ, lưu manh, with quỷ dữ của làng vũ ại trim gp một hình ảnh tên: “lang” (1948). thế nhưng, kim lân không khai tác cái nghèo, cái đói, sự tha hóa về nhân tính, nhân hình của họ giống như cá nhric nước, tinh thần khángến dâng chiến. Điều đó, được kim lân thể hiện rất thành công qua hình tượng nhân vật ông hai, để rồi từ đó ông hai trở thành bức tượng đài biểu tượng cho người nông dân trong thời đại mới – thời đại cách mạng và kháng chiến.

                trước hết, ông hai hiện lên là một người nông dân yêu nước, yêu làng, luôn tự hào về quê hương, bản qu .i chôn rau cắt rốn củtìm củtìm. khoe về làng, hãnh diện về làng của ông. Đi đến đâu, ông cũng khoe với mọi người, làng ông giàu đẹp, làng ông có truyền thống cách mạng. vì thế, mỗi lần kể về làng, ông kể với một thati ộ ộ say mê, khuôn mặt biến chuyển, đôi mắt thì was hức, ông có thể nói với bất cứ ai về cai ề ề ề ề ề kể cả khi ông nói, người nghe có muốn nghe hay không, ông cũng mặc kệ, bất chấp cứ say sưa mà nói. vậy mà giờ đây, ông hai lại phải xa quê, xa làng, đưa cả gia đình đi tản cứ theo lệnh. “Ông nằm vật trên giường, bắt tay lên trán nGHĩi vẩn vơ. ANH EM TRONG LÀNG, TRONG XÓM đào Hào, ắP ụ, Công Việc Bộn Bề, MảI Mê làm, ông “Chẳng Còn Kịp NGHĩ Gì ến Vợ with nhà cửa nữa” … và ằng sau cai được sự gắn bó thiết tha cùng tình cảm yêu mến chân thành của ông hai với xóm, với làng. tình cảm ấy, thật khiến chúng ta nhớ tới câu ca dao xưa:

                anh đi anh nhớ quê nhànhớ canh rau muống nhớ cà dầm tươngnhớ ai dãi nắng dầm sươngnhớ ai tát nước bên đườ.ng hôm nao

                m

                và, ở ông hai cũng vậy, tất cả mọi thứ gắn liền với làng chợ dầu, ông ều khắc ghi, ều nhớ ở trong tận đáy lòng: “chao ôi! lại càng muốn tìm hiểu, muốn nghe ngóng về tình hình của làng. vì vậy, ngày nào cũng thế, ở nơi tản cư, cứ mỗi sáng việc làm ầu tiên là ô sẽt chút ít về, về. Cho nên khi biết ược toàn những tin tốt lành về cach mạng, “Ruột gan ông cứ múa cả lên, vui qua!” … như vậy, ến đây chung ta thấy ượ da diết, cháy bỏng của nhân vật ông hai và ông luôn dõi theo từng bước đi của cach mạng, của kháng chiến.

                nhưng có một sự kiện bất ngờ đã xảy ra với ông, từ pHòng thông tin bước ra đang rất pHấn khởi, nao nức vì những tad vui của khang chiến, gặp ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng hai quay phát lại, lắp bắp hỏi, hi vọng được nghe những tin tốt lành về làng, nào ngờ lại hay tin: cả làng chợ dầu theo giặc. trước tin dữ ấy, ông hai sững sờ chết lặng “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như he không thở được”. từ niềm vui, niềm tin hi vọng, ông hai rơi xuống vực thẳm đau buồn, xót xa, tuyệt vọng. Ông cố gắng trấn tĩnh bản thân và tìm cach lảng ra về, muốn che giấu đi tâm trạng ấy nhưng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, lắng khiến ông bán nước.”

                khi về đến nhà, ông hai nằm vật ra giường, rồi tủi thân khi nhìn đàn with nhỏ: “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. những dòng độc thoại nội tâm trong ông thể hiện nỗi day dứt, đau đớn: “chúng nó cũng là trẻ with làng việt gian đấy ư? chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?…”. Ông căm giận lũ người Theo Giặc, phản bội làng nước, ông lão nắm chặt hai tay mà ríte lên: “Chung bay Ăn miếng cơm there are miếng gì vào mồm mà đi làm cai gi giống việt việt gian gian b nhưng sau đó, ông lại cảm thấy “ngờ ngợ” như lời của mình không được đúng lắm. niềm tin và nỗi thất vọng đang giằng xé trong ông. “Ông kiểm điểm từng người Trong oc” thấy họ ều là những người có tinh thần kHáng chiến, một sống một chết với giặc, có ời nào lại can tâđy ượi nh. trong hoàn cảnh giặc giã thì tinh thần yêu nước, tinh thần kháng chiến là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao đẹp; còn phản bội là điều xấu xa ô nhục nhất. vì thế từ khi nghe tin làng mình theo giặc, nó đã trở thành nỗi ám ảnh, day dứt trong tâm trí của ông, khiến ông ba bốn hôm nay không dam bưânàn. suốt ngày he chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng binh tình. “Một đám đông Tum Lại ông Cũng ể ý, Dăm Bảy tiếng nói xa xa ông cũng chột dạ”, lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng người ta đang ể ý ý đ đ ể ể cứ thoáng nghe những tiếng tây, cam nhông , việt gian là ông lại lủi thủi ra một góc nhà nín thít… “thôi lại chuyện ấy rồi!”. Ông luôn thu mình lại, cảm thấy xấu hổ, đau xót và dường như cảm thấy chính mình cũng có tội vậy. Ông rời vào tình trạng tuyệt vọng khi mà bà chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi vì “nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những ng n. Ông hai không biết đi đu, cũng không thể quay lại trở về làng vì về Làng tức là bỏ khang chiến, bỏ cụ hồ, “về làng tức là chụy quay lại làerm nô ệ thằ the ằ”. Thì yêu thật nhưng làng theo tây mấth r. Giải tỏa như thế nào, ông hai chỉ còn biết trút lòng mình với ứa with nhỏ. Chiến của oyg hai. sắt với kháng ch iến, với cách mạng, với cụ hồ.

                có lẽ, nếu không nhận ược tin cải chính thì cả ời ông hai sẽ chết dần, chết mòn trong nỗi đau ớn, tủi hổ, bẽ mẽ bẽ bền cáng mềcán lề. những sau đó, chính quyền làng ông đã lên cải chính cái tin làng chợ dầu theo giặc. nhận ược tin, ông hai như sống lại, niềm vui tràn ngập trong ông: quần áo chỉnh tề, mặt tươi vui, rạng rỡ hẳn lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung Hy, n by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by, by. mua quà cho các with…. Đặc biệt là hành động ông chạy đi khoe với tất cả mọi người cái tin vui ấy. niềm vui sướng, hạnh phúc dâng trào khiến ông cứ múa tay lên mà khoe. và lạ thay, câu đầu tiên ông khoe không phải là việc làng ông không theo giặc mà là “tây nó đốt nhà tôi rồi… đốt nhẵn!”. với người nông dân, căn nhà là cả cơ nghiệp của họ mà cả đời họ làm lụng vất vả mới có được. nhưng ông hai không hề tiếc căn nhà của mình bởi nó là minh chứng khẳng ịnh làng ông không theo giặc và trên hết là nó như là sự “đón Điều đó, một lần nữa càng khẳng định rõ ràng hơn tình yêu làng, tình yêu nước và sự trung thành với kháng chiến ởô>

                ến đây, chung ta thấy ược sức sáng tạo ộc đao của kim lân trong nghệ thuật tạo tình huống, thực sự gay cấn, kịch tính với những thử Thách của nộ bên trong, tình cảm, tư tưởng của nhân vật. tác giả đã miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, rất cụ thể, gợi cảm qua thế giới nội tâm với các ý nghĩ, hành ving, ngô. Đặc biệt, nhà văn đã diễn tả rất đúng, rất ấn tượng về sự ám ảnh day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ kim lân am hiểu sâu sắc con người và những net tâm lí vôn cón của người nông dân việt nam sau lũy tre làng.

                quả đúng như nhà văn ra – xun gam – za – tôp đã từng nói: “người ta chỉ có thể tách with người ra khỏi quê hương, chứ không thể tách quê hƻờng ra with”; có nghĩa là with người có thể rời xa quê hương về mặt khoảng không vũ trụ, ịa lí nhưng trong sâu thẳm trái tim, tâm hồn mỗi ngưười người lun h. Điều đó thật đúng với nhân vật ông hai, một người nông dân xa làng đi tản cư nhưng luôn đau đáu một nỗi nhớ uànƛ, yÛn. qua nhân vật ông hai, người đọc thấy được tài năng khắc họa hình tượng nhân vật của nhà văn kim lân, thật độc đáo, thật sống động, mang đậm yếu tố thời đại kháng chiến cách mạng: lòng yêu làng, yêu nước, trung thành với kháng chiến, với dân tộc. Ông hai trở thành bức tượng bài bất tử, biểu tượng cho người nông dân việt nam trong cuộc trường kì của cách mạng dân tộc.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 14

                nhân vật ông hai trong truyện ngắn làng của nhà văn kim lân đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc. Đó là người nông dân có tình yêu làng và yêu nước sâu sắc, hai tình yêu này hòa quyện với nhau tạo nên dấu ấn khó phai phai n.

                tình yêu làng của ông hai được thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi, nó ngấm vào máu thịt trong ông. tình yêu ấy có thể chia làm ba chặng chính: tình yêu làng khi ông hai ở lang tản cư; tình yêu làng, yêu nước khi ông hai nghe tin làng minh theo việt gian; tình yêu làng, yêu nước khi ông nghe tin cải chính.

                trước hết, tình yêu làng của ông hai khi ở làng tản cư. Ở nơi tản cư, ông hai nhớ làng da diết, tâm trí ông luôn hướng về những ngày hoạt ộng kháng chiến, những ngày đào ụ, xẻ hào ể ể l. giữa những thay đổi của hoàn cảnh hiện tại, phải tản cư đi nơi khác, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng mỗi khi nhớ về làng quê yêu dấu lại tiếp thêm cho ông động lực, làm dịu đi trong ông những tủi cực của một kẻ tha hương. có thể thấy ở ông hai, tình yêu làng gắn bó mật thiết, bền chặt với tình cảm kháng chiến. nỗi nhớ ngập tràn và lòng khao khát, mong muốn trởi làng ể ược tham gia kháng chiến dồn nén mạnh mẽ ến mức ông bậl: ông lão nhớ làng, nhớ cai cai làng quá!. Ông hai hàng ngày ều ến pHòng thông tin, một mặt ể dõi the theo từng bước đi của cup kháng chiến, nhưng sâu xa hơn, ông ôn vì mong mong mong mong mong mong mong mon mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong mong ôn ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền ền. khi nghe những thông tin quân ta thắng lòng ông phấn chấn, hỉ hả ruột gan ông lão như múa lên. I saw what

                tình yêu làng còn được thể hiện một cách sâu sắc khi ông nghe tin làng theo tây. trong lúc ông hai đang sống trong cảm xúc vui sướng thì tim ông như vỡ vụn khi nghe tin cả làng chợ dầu việt gian theo tây. chính trong hoàn cảnh thử thách éo le này tình yêu làng mà cao hơn là tình yêu nước trong ông được bộc lộ một cách sâu sắc. Ông vô cùng bàng hoàng, bất ngờ, nỗi xúc động tột cùng dâng trào, gương mặt cố tỏ ra bình tĩnh nhưng không thể nào nén lại nỗi đau đang lan dần trên khuôn mặt ông: cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi, tưởng như không thở được…. Đó quả thực là một tin trời giáng đối với ông hai, ông không thể tin và không muốn tin đó là sự thật. nhưng lời của người đàn bà quả quyết qua, bằng cớ rõ ràng qua khiến ông đành phải tin cái sự thật khủng khiếp ấy. những lời nói của những người tản cứ như con dao cứa vào trái tim ông. Ông cúi gằm mặt mà đi, đau đớn, tủi nhục đến tốt cùng. danh dự, lòng tự trọng mà lớn hơn là điều gì đó vô cùng thiêng liêng trong lòng ông đã sụp đổ.

                về đến nhà, ông nằm vật ra đường, nhìn những đứa with ông lại càng thương chúng hơn: chúng nó cũng là trẻ with làng viẇt gian đƺ? Chung nó cũng bị người ta rẻ rung hắt hủi ấy ư, uất hận ông ríte lên trong đau ớn chung bay miếng cơm there are miếng gì vào mồm mà đi làm cai giống việt gian gian bán nước ểc ểc ô bỉ đến tột cùng. trò chuyện với vợ trong gian nhà nhỏ, thái độ của ông vừa bực bội, vừa đau đớn, đâm ra ông gắt gỏng vô cớ với vợ. những ngày này ông chỉ ở nhà, không dám đi đâu. trong hoàn cảnh đó ông và cả gia đình còn bị mụ chủ nhà khó tính đuổi khéo đi. Điều đó làm ông hai trở nên bế tắc tuyệt vọng hơn bao giờ hết. chính giây phút tuyệt vọng đấy ông đã nghĩ hay là về làng. nhưng lập tức trong ông diễn ra cuộc ấu tranh quyết liệt: về làng tức là rời bỏ kháng chiến, ầu hàng tây,… ến đy tình cảm cách mòng và l. tình yêu làng của ông giờ đây gắn liền với tình yêu nước, với kháng chiến và được thể hiện rõ nét trong cuộc đỡi v thocon lời khẳng định dứt khoát, kiên định: Ủng hộ cụ hồ chí minh muôn năm, là tiếng lòng trung thành với bác hồ, với Đảng và vớn. hơn hết, dù đau đớn nhưng ông vẫn tin rằng anh em đồng chí biết cho bố with ông, cụ hồ trên đầu, trên cổ soi xét cho bố with ông. sự trung thành của ông với lãnh tụ, với kháng chiến cũng là lòng trung thành của triệu người dân việt nam với Đảng với cách mạng.

                tình yêu làng của ông hai một lần nữa được thể hiện rõ net trong đoạn cuối tác phẩm khi ông hai nghe tin cải chính, làng chỺt dôy. mới đến ngõ, chưa vào nhà ông đã bô bô, rồi lật đật chạy sang nhà bác thứ, đi hết nơi này đến nơi khác đừa ng vđn. niềm vui ấy đến mức dù nhà mình bị đốt cháy ông cũng chẳng hề lưu tâm.

                nhân vật ông hai được khắc họa chủ yếu qua ngôn ngữ và diễn biến tâm trạng. ngôn ngữ nhân vật giản dị, chân thật, giàu cảm xúc. diễn biến tâm trạng được bộc lộ trực tiếp qua những cảm xúc, suy nghĩ và thông qua cả cử chỉ, điệu bộ, dáng vẻ. Ồng thời quá trình vận ộng tâm líc cũng hết sức hợp lí từ nhớ nhung, mong mỏi ến bất ngờ, bàng hoàng, chìm trong tủi nhục, đau khổ và cuống là ni ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ p>

                bằng lối văn chân thực, giàu cảm xúc kim lân đã thành công trong việc xây dựng nhân vật ông hai. nhân vật mang trong minh tình yêu làng, yêu nước nồng nàn, tha thiết. lòng yêu nước bao trùm và chi phối tình yêu làng – đy là bước chuyển biến mới trong tư tưởng nhận thức của những người nông mạn saung cách.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 15

                tình yêu quê hương, đất nước là một chủ đề lớn của văn học dân tộc. Ọc mỗi câu thơ, bài văn ta không khỏi bồi hồi, xúc ộng trước tình cảm mà tac giả biểu lộ với nơi mình ược sins with Thuyền rẽ song chạy ra khơi/ tôi thấy nhớy nhớy nhớ nằm trong chuỗi ề tài lớn ấy, ta không thể không nhớ ến một ông hai với lòng yêu nước nồng nàn và tình yêu làng tha thiết Trong tac pHẩm làng

                cuộc kháng chiến diễn ra ngày một ác liệt, ông hai sinh sống ở làng chợ dầu phải tản cư đi nơi khác. trong những ngày rời xa ngôi làng yêu dấu lòng ông không ngừng thổn thức nhớ về quê hương. Ông chăm chú lắng nghe từng tin về kháng chiến, về làng. và đỉnh điểm của tình yêu đó chính là khi ông nghe tin làng chợ dầu theo giặc. Ông hai bị đặt trong tình thế phải lựa chọn giữa làng và nước. cuối cùng ông hai đã chọn tình yêu nước, bởi làng đã theo giặc thì phải thù. như vậy, tiếp tục khai thác về lòng yêu nước, nhưng bằng ngòi bús tinh tế kim lân đã phát hiện ra net mới trong tình y nướa người nông.

                trong những ngày phải sinh sống ở làng tản cư, ông hai không ngừng nhớ thương về ngôi làng. làm sao không nhớ cho được nơi chôn rau cắt rốn của mình, đúng như nhà thơ Đỗ trung quân đã từng viết:

                quê hương mỗi người chỉ mộtnhư là chỉ một mẹ thôiquê hương nếu ai không nhớsẽ không lớn nổi thành người

                Ông hai cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. MặC DUE CUộC SốNG LAO ộNG VấT Vả, NHưNG TRONG NHữNG PHUT RảNH RỗI ôNG VẫN MườNG TượNG NHớ Về NHữNG CôNG VIệC MìnH đã Làm Với Các ồNg Chí, ồ làmông lại có động lực hơn, lòng yêu nước lại mạnh mẽ hơn. ngày nào ông cũng nghe ngóng tin tức, bụng ông như múa lên mỗi lần nghe được một tin thắng trận của ta. những hành ộng đôi khi có pHần trẻ with, nhưng đó chính là biểu hiện chân thực nhất của lòng yêu nước nồng nàn Trong ông và cũng như của tất

                nhưng mọi chuyện ối với ông lại không hề suôn sẻ, những ngày tháng ở làng tản cư, khi lòng nhớ làng lúc nào cũng sục sông sôi hng . cái tin đó chẳng khác gì gáo nước lạnh đổ thẳng vào lòng nhiệt thành và trái tim yêu làng cháy bỏng của ông. bàng hoàng và sững sờ, “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân”. làm sao ông có thể không bàng hoàng cho được, cái tin đó quá đỗi bất ngờ và ngoài sức tưởng tượng của ông. như để xác minh lại thông tin, ông hai còn cố gắng hỏi lại người đàn bà: “liệu ​​she có thật không hở bác”. giọng nói run run, nghẹn ứ và sau khi nghe lời xác nhận, ông lặng lẽ vươn vai, rồi hắng giọng về. câu nói đưa đẩy ấy chất chứa bao tâm tư, bao nỗi lòng trong ông. trên đường về ông chẳng dám nhìn ai, cứ thế cúi gằm mặt mà đi.

                về đến nhà, ông hai nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy cha có vẻ khác cũng vội lảng đi. như để kiểm chứng lại lần cuối, ông hai kiểm điểm trong đầu từng người trong làng, ông hoang mang lo lắng. Đây chính là biểu hiện của lòng yêu nước nồng nàn và sự trung thành với cách mạng nơi ông. không chỉ vậy, cái tin làng theo giặc cứ đeo bám, ám ảnh ông khiến ông không dám tiếp xúc với mọi người, nỗi nhục nhã, xấu trângo òngà Ông hai đã đồng nhất danh dự của làng với danh dự của chính mình, khiến cho cái tin làng theo giặc cũng như chính ông đang theo giặc. bởi vậy nỗi đau đớn, tủi hổ lại càng chồng chất lên gấp bội.

                tin làng chợ dầu theo giặc lan nhanh khắp mọi nơi, gia đình ông phải đối mặt với một nguy cơ mới chính là bị mụ chủui nhà. sự việc ấy, không chỉ ảnh hưởng ến bản then ông mà còn ảnh hưởng ến gia đình ông cũng như rất nhiều người sốàngỐng chá. Đêm đó trong ông hai đã diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm vô cùng quyết liệt, đi hay ở. Và cuối c Cúg ông quyết ịnh không về làng, bởi về làng là theo giặc, là pHản bội lại cach mạng và Bác hồ, “làng yie. người yêu nước, tình yêu nước là tình cảm bao trùm tình yêu làng.

                với ngòi Bút phân tích tâm lí vô cùng xuất sắc, cùng với đó là nghệ thuật kể chuyện tài tình, kim lân đi tục tạo ra những bước ngo là ể thấy ượ những ngày ông hai nghe tin làng chợ dầu theo giặc đớn đau, tủi nhục bao nhiêu thì ngày nghe tin cải chính lòng ông vui sướng, trẻ bhi lại. lúc bấy giờ ông hai chẳng khac gì một ứa trẻ with, ông đi khoe ở khắp nơi, làng bị tây ốt nhẵn với giọng hồi hởi, Sung sư tài sản, nhà cửa cửa ối ô chính là danh dự của ông, danh dự của làng đã được khôi. bản chất hồn nhiên, chất phác của người nông dân lúc này được thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.

                kim lân không sáng tác nhiều, nhưng chỉ với tác phẩm này cùng nhân vật ông hai đã cho thấy ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật bậc thấyc. Ông hai hiện lên là người yêu làng, yêu nước tha thiết, sâu nặng, tình yêu đó gắn liền với danh dự và mạng sống của ông. CHỉ VớI LớP ngôn từ chân thành, giản dị, nhưng cũng ủ ể ể kim lân cho người ọc thấy một vẻt ẹp rất khac của lòng yêc ở những ngường nôc ôtn.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 16

                nhà văn kim lân là người gắn liền với đời sống của người nông dân việt nam. những tác phẩm của ông đều gắn liền với những người nông dân xưa trong gian lao khó khăn.

                truyện ngắn “làng” thể hiện nỗi niềm của một người nông dân chất phác, yêu nước. Ông hai cũng như bao người nông dân xưa cũ gắn bó với làng quê, nơi chôn rau cắt rốn của mình. làng của ông hai là một làng nổi tiếng là yêu nước, giàu có trù phú.

                tình yêu làng của ông hai được bộc lộ vô cùng tha thiết, sâu sắc, khiến người đọc cảm động. tác giả kim lân đã đặt nhân vật vào tình huống vô cùng éo le, bộc lộ tình cảm sâu sắc của nhà văn với nhân vật của m. Đó là khi ông hai nghe tin làng chợ dầu theo giặc, làm tay sai cho tây.

                Ông hai là người rất yêu làng, dù phải đi tản cư, nhưng ông hai vẫn thường xuyên tìm hiểu thông tin về làng của mình. Ông thường hay khoe, làng ông có loa thông tin cao nhất vùng, trong làng lát gạch đá hoa xanh…Ông hai rất tự hào về làng của mình.

                nhưng khi nghe tin làng chợu dầu the tây cổ họng ông như nghn ứ lại, không thể nào tin ược, toàn thân bủn rủn chân tay, hai tai ù ặc, ô

                thông tin bất ngờ đó đã khiến cho ông hai vô cùng bàng hoàng đau ớn, không thở ược, mãi một lúc sau ông mới dám nuốt nướt, vớng nhgn. p>

                giọng ông lạc hẳn đi, dù chỉ là Hy vọng mong manh thôi, trước những thông tin vừa nghe cũng khiến ông ôm ấp hy vọng rằng nó chị oà, nóķo la. tản cư, khiến ông không dám tin vào tai mình nữa. Ông hai trở về nhà nằm vật lên giường như xác chết.

                ông vẫn nghe đâu đây tiếng người đàn bà chửi khiến ông vônnnngg đau ớn ”cha tiên sư nhà chung nó, đói khổ Ă cắp Ăn trột ượt ượ ượ ượ ượ ng ng ng nó, đói khổ ă cắp ăn trột ượt ượ ược ng ng ng nó đứa một nhát”.

                trong tư tưởng của ông hai trong ầu Óc ông, hình ảnh làng luôn là cái gì đó vông thiêng liêng, là nơi gắn bó với những kỷ niệm tuổ ơ ữ ữ . thể nào quên, nhưng giờ đây làng lại làm ông cảm thấy vô cùng nhục nhã, xấu hổ như thế này.

                tình hình của ông hai càng lúc càng trở nên cùng quẫn tuyệt vọng, khi mà gia đình chủ nhà nơi mà ông tản có ý ịnh đuổi ông đi, cho ông. Trong Lòng ông Hai Day Dứt Bởi Hai Luồng Suy NGHĩ, Giờ Mà Không ở đây Thì sẽ đi đâu, Về Lại Làng Thì phải Làm Việt Gian, Phải Theo Tây, Còn Nếu Không về Làng Thì BiT đ có nơi nào cho gia đình ông tá túc bây giờ.

                trong bước đường cùng ông có nghĩ tới về làng, nhưng nghĩ lại những người trong làng giờ theo tây cả rồi thì lòng ạt th quni. Ông không thể nào làm hán gian, làm tay sai cho giặc được. chính vì vậy, he không sẽ không về làng. trong bước đường cùng nhưng ông hai vẫn thể hiện tình cảm của mình dành cho cách mạng lớn hơn tình yêu quê hương, yêu làng cỬp>

                “làng thì yêu thật, nhưng làng mà theo tây thì phải thù”. Đó là những lời nói từ gan ruột của một người nông dân chất phác, thật thà ngay thẳng.

                nhưng May Thay, tin ồn về làng chợ dầu theo tây ược cải chính, khiến cho ông hai vông hạnh phúc, ông như ược hồi sinh, ượng lsẻ ông mặc mộc ông tản cư để đính chính lại bản tin làng của ông theo tây, làmian vi. Ông cao giọng, hóa ra là láo toét hết, là lừa đảo hết.

                ông hai con vui mừng khoe nhà mình ở chợ dầu giờ đã bị giặc ốt sạch sẽ, ốt cháy thành tro bụi như mình chứng việg không việg they, láng they. Ông không hề tiếc ngôi nhà sản nghiệp xây dựng bao năm, mà việc nó bị đốt cháy còn khiến ông vô cùng hạnh phúc.

                bởi ngôi nhà cháy đi nhưng tâm hồn và cuộc sống của ông sẽ được hồi sinh, thì có đáng tiếc gì đâu. Ông hai tự hào khoe về làng của mình vừa lập chiến công đánh thắng giặc, tự hào lắm chứ, làng ông là một làng anh hùng.

                trong chiến công của làng chợu dầu mang lại cho ông niềm vui vông thần kỳ, thể hiện sự tự hào của ông về làng của mình, thể hiện tình yêu nước, sự trung thà đường cách mạng của bác hồ.

                nhà văn kim lân đã viết truyện ngắn “làng” với những ngôn ngữ mộc mạc giản dị, phác họa thành công nhân vật ông hai mạt ng ng ng. vô cùng vĩ đại. trong tình cảm yêu quê hương của mình ông hai vẫn phân biệt ược việc lớn việc nhỏ, với ông cụ hồ là đi đu trọng nhất cáng mình trung th, g. tình yêu làng của ông hai vẫn đặt dưới tình yêu tổ quốc.

                thông qua nhân vật ông hai trong truyện ngắn làng của nhà văn kim lân ta thêm hiểu về ức tính chân thành, hiền hậu, yêu nước của những người >

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 17

                kim lân là một nhà văn được biết đến với sở trường về cuộc sống và con người ở các vùng quê nông thôn việt nam. “Của with người nông dân việt nam trong thời kỳng thực dân phap.

                truyện ngắn “làng” ra đời vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống quân pháp xâm lược. câu chuyện xoay quanh nhân vật ông hai và tình yêu đối với làng chợ dầu của mình. kết thúc câu chuyện ơn giản và nhân văn, ông hai trở thành một hình tượng tiêu biểu cho người ng dân việt nam trong giai đoạn ất ngế nđớc.

                tình yêu làng của ông hai đã ngấm vào máu thịt trong with người ông, chúng được thể hiện ở mọi lúc mọi nơi. tình yêu đặc biệt ấy có thể chia thành 3 giai đoạn chính: khi ở làng tản cư, khi nghe tin làng mình theo việt gian và khi nghe tin làng đã ng theo chín.</cáng chín.

                ở nơi tản cư, ông hai nhớ làng da tiết, tâm trí ông luôn hướng về những ngày hoạt ộng kháng chiến, c c c camar ồng ội, anh em đào hà ụ, x. rồi có nhiều thay đổi, ông phải tản cư đến nơi khác. mặc dù có nhiều khó khăn nhưng ông vẫn hướng về làng dầu yêu dấu của mình, đó cũng chynh là ộng lực làm dịu đi trong ông tủủ cng tủa. nỗi nhớ ấy ngập tràn, ông luôn khao khát được trở về để lại được tham gia kháng chiến. hàng ngày, ông hai vẫn đến phòng thông tin để theo dõi về cuộc kháng chiến và mong mỏi sẽ nghe được tin tức về làng chợ dầu của mình. khi nghe tin quân ta thắng lòng âm vui mừng phấn khích, c cùng với đó là niềm tin một ngày không xa cách mạng sẽ thắng lợi, ông lại ược trở là về

                trong lúc đang sống trong cảm xúc vui mừng hân hoan thì tim ông như vỡ vụn khi nghe tin cả làng chợ dầu theo việt gian. chính lúc này tình yêu làng của ông được bộc lộ một cách sâu sắc. từ bất ngờ đến bàng hoàng, niềm xúc động tột cùng dâng trào. mặc dù cố gắng tỏ ra bình tĩnh nhưng ông vẫn không thể nén ược nỗi đau đang dâng trào: “cổ ông lghẹn ắng lại, da mặt tê rđn rân, lân. tin làng dầu theo tây đối với ông là một tin trời giáng, ông không thể tin và cũng không muốn tin điều đó là thật. Ông lấy lại bình tĩnh ể hỏi lại người phụ nữ tản cư nhưng bà quyết quá khiến ông đành phải chấp nhận cái sự khậng thậk. những lời nói của người tản cư như một with dao cứa vào tim ông, ông chỉt biết cúi gằm mặt mà đi, tủi nhục và đau ỻtn cn ớn nó khiến lòng tự tựr tựr tựr tựng tựr tựr tự) /p>

                sau khi về nhà, ông nằm vật ra giường rồi nhìn những đứa with lòng ông lại càng thương chúng: “chúng nó cũng là trẻ with làng viẇt gian đƺ? Chung nó cũng bị người ta rẻ rung hắt hủi ấy ư, uất hận ông rút lên trong with đau ớn chung bay ăn miếng cơm there are miếng gì vào mồm, mà đi làm Cle giống ểng ểng ướng ướng ướ có thể thấy sự khinh bỉ, căm rét đến tột cùng của ông hai. khi nói chuyện với người vợ trong nhà, ông cũng không giấu nổi sự bực bội và đau đớn trong lòng, thành ra gắt gỏng với cả vợ. Trong Giây Phút Tuyệt Vọng ông đã Có Suy NGHĩ There are về làng, nhưng ngay lập tức một cuộc ấu tranh diễn ra, ông cho rằng về làm chính là rời bỏ kháng chiến, ầu hàng quân lúc này tình yêu nước yêu cách mạng đã hòa quyện vào trong ông, tình yêu làng và tình yêu nước đã gắn liền với nhau, nó thển riqute de trong cuong cui ố. Ông nói với đứa with như nói với chính mình: Ủng hộ cụ hồ chí minh muôn năm. một lời khẳng định rất kiên định và dứt khoát, đó là tiếng lòng trung thành với bác hồ, với Đảng và đất nước. hơn ai hết, ông vẫn tin tưởng vào cách mạng, sự trung tin thành của ông với lãnh tự, với kháng chiến là lòng thành của hàng triệu người dân viỻ.

                tình yêu làng quê, ất nước lại một lần nữa ược thể hiện rique net trong đoạn cuối của tác phẩm, khi ông hai nghe tin làng dầu chảin theh cảin. miệng ông bô bô từ đầu ngõ, chạy hết nơi này đến nơi khác để khoe, ông vui mừng khôn xiết vừa đi vừa múa hát. niềm vui to lớn tới mức nghe tin nhà mình ở quê bị đốt ông cũng chẳng màng. Đây chính là chi tiết khiến người đọc bùi ngùi, trân tròn hơn tình yêu của ông hai dành cho làng, cho cho kháng chiến và cho tổ quốc việt d nam yù>

                bằng lối văn chân thực và giàu cảm xúc, tác giả kim lân đã thành công trong việc xây dựng nhân vật ông hai. một người nông dân chất phát với tình yêu làng, yêu nước nồng nàn, luôn tin tưởng vào cách mạng vào vị lãnh tụ vĩ đẻa d i c Ông hai trở thành một tấm gương, một biểu tượng cho người nông dân việt nam trong cuộc trường khkáng chiến chống giặc ngoại xâm của ất nước việt nam.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 18

                người nông dân tự bao ời nay đã gắn bó thi tht với làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn, nơi ểể lại trong cuộc ời biết bao kmỉniẇm. làng trở thành niềm vui nỗi nhớ và biết mấy tự hào của người nông dân. nhân vật ông hai trong truyện làng của kim lân đã yêu làng như thế đó.

                ông hai yêu làng say mê ến nỗi đi ến đâu, gặp ai cũng khoe về cai làng chợ dầu của mình: nhà ngói san sat, sầm uất, ường whis phát thanh cao bằng ngọn tre… ông tự hào làng mình cái gì cũng hơn làng khác, mỗi lần có khách ến chơi ông ều bắt họ ến xem cái “sinh phần” vi cỻ.

                nhưng sau cách mạng tình yêu làng của ông hai có thay đổi. cũng cái “sinh phần” đó của “cụ tôi” nay ông lại căm thùnó vì cái lăng đó làm khổ ông và làm khổ người làng. từ này ông khoe làng theo cach khác, đó là không khí rộn rịp của những ngày khởi nghĩa, những buổi tập quân sự, những hố, những ụ, những tẩp quân sựn sựn sựn sựn sựn sựn sự

                cuộc kháng chiến bùng nổ, nhiều nông dân ở quê ông phải tản cư. vợ with ông đã đi, trong tình cảm sâu xa ông không muốn xa làng, bỏ anh em: “…ông cha cụ kỵ mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này ời bao na. he bây giờ he gặp cái lúc hữu sự như thếnày mình lại đâm đầu bỏ đi, còn ra thế nào nữa”. NHưNG rồi vì thương vợ with gieo neo, bà vợ lại khẩn khoản nhiều lần nên ông cũng đành theo vợ with tản cư, lòng vẫn an ủi: rất nhớ làng, nỗi nhớ đó cứ dày vò ông làm cho ông đâm ra buồn phiền, bực bội cáu gắt. nhiều khi nghĩ đến làng, nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em lòng ông lại náo nức muốn về làng để tham gia kháng chiến c.n c.

                rõ ràng tình yêu làng của người nông dân sau cách mạng có bước phát triển mới, yêu làng gắn liền với yêu nước, tham gia cuộc kháng chi vến. vì vậy khi nghe tin làng đã theo tây làm việt gian lòng ông rất đau xót và tủi nhục: cổ nghẹn ắng lại, da mặt t t. từ nay ông không dám bước ra khỏi nhà, không dám vào nhà ai, không dám nhìn mặt ai, có đám đông xúm lại cũng để ý, có tiếng xìt dxào. Bà chủ cũng tỏ thati ộ khinh bỉ cai làng ông, đuổigia đình ông đi cũng vì làng ông theo tây làm việt gian, và “đu đu with người chợi ầi ủi ủi ủi đi đi đi đi đi ầi ầi ầi đi đi đi đi đ đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đ Gia đình ông bế tắc, Tuyệt ường Sinh sống, Cóc ông lại MUốN TRở Về Làng nhưng ý nghĩ đó lập tức lại gạt đi: “về làm gì gì caal làng ấy KHÁng Chiến, Bỏ Cụ Hồ ”. , dứt khoát.

                có lẽ trong những ngày tủi nhục này, niềm ai ủi duy nhất ối với ông là những lúc ôm thằng cable Út vào lòng vỗ về nó, trò v. muón nám”. dù trong hoàn cảnh nào kể cả khi làng chợ dầu của ông đã theo tây, cha with ông vẫn một lòng một dạ theo kháng chiến, ủng hộ cụ hồ. tấm long thuỷ chung are sắt của người nông dân đối với cách mạng thật cảm động. “chết thì chết có bao giờ dám đơn sai” là một lời nguyền của người nông dân với cách mạng.

                nhưng nỗi niềm vui sướng hả hê đã đến với ông hai khi ông biết tin đích xác do ông chủ tịch làng cải chính cái tin làng chợ dầu theo. net mặt ông vui tươi rạng rỡ hẳn lên, mồm bôm bẻm nhai trầu, mắt hung hung đỏ hấp háy. Ông thân mật, vui vẻ cởi mở với with cái. Ông sung sướng múa tay lên mà đi khắp các nhà khoe với mọi người làng mình vẫn theo kháng chiến. mặc dù he biết tin nhà mình bị đốt, “đốt nhẵn” nhưng he vẫn không nuối tiếc gì, ông còn tỏ ra hả hê khoe với bà with: “tây nó đốtôt n. Đốt nhẵn”. cho dù nhà có bị đốt nhưng niềm vui sướng, hãnh diện nhất về cái làng chợ dầu của mình không theo tây làm việt gian, làng mìn theo vkhán

                niềm vui, nỗi buồn của người nông dân đều gắn chặt với cái làng quê thân yêu của họ. nhà văn sống gần gũi, người nông dân, thấu hiểu tâmhồn của họ nên đã diễn tả được những nỗi thầm kín sâu hxa cọ. nhân vật ông hai thật đáng yêu. và ta càng cảm phục những người nông dân thật thà, chất phác, thuỷ chung như ông hai trong hai cuộc kháng chiến vừa qua đã một lòng mạ ng hit without mạp.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 19

                kim lân quê ở bắc ninh, là cây bút chuyên viết truyện ngắn và có sáng tác từ trước cách mạng tháng tám. những cảnh ngộ của người nông dân và sinh hoạt làng quê là đề tài sáng tác chủ yếu của ông. Truyện ngắn làng ược viết năm 1948, in Tạp chí văn nghệ (số 1), là một tc pHẩm thành công của văn học việt nam thời kỳ ầu cuuộc kHáng chi ếNg phốnm pHốm pHốM x truyện đã xây dựng thành công nhân vật ông hai, một lão nông hiền lành, chất phác với tình yêu làng đặc biệt của mình.

                ông hai là người rất yêu làng của mình, thường khoe làng ể khỏa lấp nỗi nhớ về những thanag ngày hoạt ộng kháng chiến cûmồ cùng an,. Ông không chỉ là một dân làng mà còn là một phụ lão, một chiến sĩ đã từng tham gia đánh giặc giữ làng mà nay vì phải rời làng đi t. Ấy vậy mà cai tin làng chợ dầu Theo Giặc lại Truyền ến qua ột ngột trong lúc tâm trạng của ông đang pHấn chấn vì những tin tức kHáng chiến vừa nghe ược ở

                vậy nên, cái tin ấy khiến cho “cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được. một lúc lâu, ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ of him,…”. Ông già vui tính, hay chuyện, mong ngóng tin tức của làng mình mà lúc này phải “vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi cúi gằm mặt đi thẳng. Chỉ Với một vài câu văn ngắn, tac giả đã cụ thể hoá sựng sờ, ngạc nhiên ến mức hốt hoảng của ông hai khi nghe tin dữ – một cai tin ộng trời mà mà mà m. thể xảy ra như thế. những câu nói mỉa mai, căm ghét của người đàn cho with bú về làng làng theo giặc ấy!

                vừa về đến nhà, ông hai “nằm vật ra giường”; trong đau khổ, nhục nhã, ông nhìn đàn with chơi đùa thật đáng thương ở sau nhà. bất giác ông nghĩ đến sự hắt hủi của mọi người dành cho những đứa trẻ của cái làng việt gian này: ” nó cũng là trẻ ấ with làng vi? chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? ”.

                thương with, ông càng căm ghét bọn dân trong làng đã chạy hùa theo giặc, đã làm nên những chuyện đớn hèn, nhục nhã ổn ếa dan đd. Đó chính là tội phản bội, tội bán nước thật không thể dung thứ. Cócc, ông cảm thấy chuyện tày đình này thật khó tin vì he Cóc Biết bao tấm gương đã từng sống Mái với kẻ thù, liều chết ể ể Hoàn This Sứnh Chung củc củ Đã ở làng, he quyết tâm một sống một chết với giặc, “có đời nào cam tâm làm điều nhục nhã ấy!…”. làm sao họ có thể sa đọa, biến chất nhanh như thế được?!

                Ông kiểm điểm lại từng người trong óc. “không mà, họ toàn là những người có tinh thần cả mà”. nhưng rồi những chứng cứ một lần nữa tái hiện lại khiến ông phải cay đắng chấp nhận sự thật nhục nhã này. Ông hai không ngừng dày vò tâm trí: “chao ôi! cực nhục chưa, cả làng việt gian!”. Ông nghĩ tới sự xua đuổi, tẩy chay của tất cả mọi người, nghĩ ến tương lai chưa biết phải làm ă, sinh sống như n. tối đó, ông hai “vẫn trằc không sao ngủ ược”, hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài, “chân tay nhũn ra, tưởng chừng như không cất lên ược”

                ba bốn hôm sau đó, ông hai “không bước chân ra đến ngoài”, mà “chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng”, ”một đám đẩi đi, túm lẺ dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta để người ta bàn tán đến ‘‘cái chuyện ấy” rồi lủi ra một góc nhà, nín thít”.

                đó là cử chỉ của một người đang cam cố chịu ựng, trốn tránh như một tột phạm vì sợ người ta phát hiện mình là ng. Đến khi mụ chủ nhà nanh nọc, khó tính, có ý định đuổi cả nhà ông, tâm trạng ông hai càng u ám, bế tắc. những câu hỏi cứ hên tiếp cuộn trào trong tâm trí một ông già khốn khổ đáng thương: “biết đem nhau đi đâu bây giờ? biết đâu người ta chứa bố with ông mà đi bây giờ? ”. “Thật là tuyệt đường sinh sống! Trong Giây Phút Tuyệt vọng ấy, ông đã chớm nở ý ịnh quay về làng cũ: ‘‘ there is quay về làng? làng thì yêu thật, nhưng làng theo tây mất rồi thì phải thù”. “về là bỏ kháng bỏ cụ hồ về làng là chịu đầu hàng thằng tây, là lại cam chịu kiếp sống nô lệ, tôi đòi,.’..

                Đến đây, tinh yêu làng, yêu nước, ủng hộ cách mạng đã thực sự hòa quyện trong lòng ông lão nông dân tản cư. Trong đau khổ, dằn vặt, ông hai đã ưa ra quyết ịnh dứt khot: pHải thù cai làng theo giặc ấy dù trước đy cả ôi ô mâu thuẫn nội tâm đã được tháo gỡ nhưng lòng ông hai đau đớn biết bao. Ông chỉ biết san sẻ phần nào nỗi đau ấy với thằng with út thơ ngây; những giọt nước mắt của ông lại “giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má”. Ông nổi thủ thỉ: “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ hồ with nhỏ.”

                đoạn vĂn rất chân tình, cảm ộng bởi nó không chỉn diễn tả thể hiện tình cảm pHụ tử của cha with ông hai mà qa đó, bộc lộ tâm trạng buồn bhau kh ông ông ôhh thm. già với cách mạng, với cụ hồ. lời tâm sự: “anh em đồng chí biết bố with ông. cụ hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bo con ông. cái lòng bố with ông là như thế đẩy, có bao giờ dám đơn sai. chết thì chết có bao giờ dám đơn sai” là những suy nghĩ, lời lẽ chân thành rất mực, mộc mạc rất mực của ngườdi bnông.i bnông. Ồng hai một long trung thành với cách mạng; và với ông, điều này to lớn hơn tất cả. dù he yêu làng da diết nhưng ông không thể phản bội tổ quốc.

                Đến khi ông chủ tịch dưới quê lên cải chính tin đồn, ông hai như mở cờ trong bụng. thì ra cái tin làng chợ dầu theo giặc được cải chính, đó chỉ là tin đồn nhảm do địch mượn gió bẻ măng tung ra để gây hoang mang ᱱn ch. thật là làng ông đã chiến ấu rất anh dũng, ông mua quà chia cho các with: “chúng mày đu rồi, ra thầy chia quà cho nào lật ật báo tin t với mọi ngưÍời, ch. >

                sau cái ngày trọng ại ấy, ông thay ổi hoàn toàn: mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên “mồm bẻm bẻm mẻm nhai tr”. Ông hồ hởi khoe với bác thứ cái tin làng chợ dầu theo giặc là “sai sự mục đích” cả và tỏ ra rất hào hứng, hạnh phúc khi ụ mìth by n. và he còn đi khoe với mọi người nữa: lão lại lật đật bỏ đi nơi khác. he còn phải để cho người khác biết chứ. Ông lão cứ múa tay lên mà khoe tin ấy với mọi người.

                ối với ông, cai tin ấy ấy chynh là một chứng cớ hùng hồn như muốn nói với mọi người rằng làng xóm quê hương ông đã dũng cảm chiến ấu chống chống. Ông rất vui, rất tự hào khi nghe tin nhà mình bị giặc đốt: “tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn. Ông chủ tịch làng em vừa lên chỉnh… cải chính cái tin làng chợ dầu chúng em việt gian ấy mà. ra lao! lao hết, chẳng cổ gì sất! toàn là sai sự mục đích cả! một lần nữa tình yêu làng, yêu nước của ông hai được thể hiện một cách thành thực và cảm động.

                khép lại tác phẩm, ông hai trở lại là một ông già vui tính, yêu quê hương, yêu nước; hai tình cảm ấy giờ lại thống nhất trong ông. Ông hai là hình ảnh ẹp của những người nông dân bình dị nhưng giàu lòng yêu nước – một mẫu người rất đáng của dân tộc ta Trong nhữm ng ết khhhhhhhhkng. kim lân thật sự tài ba khi chỉ bằng vài tình tiết đơn giản đã giúp ta hiểu được thế nào là cuộc kháng chiến toàn dân. tac giả cũng ngầm khẳng ịnh: với những người nông dân hồn hậu, nhiệt tình, sôi nổi như ông hai thì cuộc kHáng chiến chống phap This luềuềuều. niềm vui hoàn toàn trở lại trong tâm hồn người nông dân già tản cư. và ông lại tiếp tục hãnh diện khoe làng mình là ngôi làng kháng chiến. sau đó, cứ mỗi tối, ông hai lại khoe về làng. Ông kể hôm thằng tây khủng bố làng ông, chúng nó có bao nhiêu thằng, đi những lối nào, dân quân tự vệ làng ông chiến đấu ra sao…

                với nghệ thuật xây dựng tình huống truyện ộc đáo, gay cấn, miêu tả tâm lí nhân vật ông hai rất sinh ộng và chân thực qua su suy nghứ, hànghờ. trần thuật giản dị, gần gũi; nhà văn đã ngợi ca những phẩm chất tốt ẹp của người nông dân thời kháng chiến chống pháp: chân thật, mộc mạc nhưng tìnìh ầy ầy. tình yêu làng quê tha thiết, tình yêu nước sâu sắc luôn hòa quyện, thống nhất cùng nhau và gắn với sứ mệnh giải phóng dân. những điều đó đã làm nhân vật ông hai sống mãi trong lòng người đọc nhiều thế hệ.

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 20

                cách mạng tháng tám thành công đã đem đến một “làn gió mới cho dân tộc ta, lật trang sử đất việt sang một trang mới. Đất nước đổi khác, xã hội cứ theo đà mà ngày một tiến lên, with người việt nam cũng từ đó mà thay đổi. từ những with người nông nghiệp, lam lũ vất vả, cải gắn bó nơi mảnh ruộng làng quê, sau lũy tre làng rì rào trong gió, giờ đy – khi ất nàc ổc ược ếc ếc ếc ếc ếc ếc ược ược ượ. tự do – tự chủ, lòng tự tôn dân tộc. Ở những người nông dân chân chất, mộc mạc đó xuất hiện một tình cảm mới, một thành quảt tất yếu mà cach mạng đem ến: lòng yêu nước, yêu quêng, l. Điều này – sự đổi thay đó được thể hiện rất rõ qua nhân vật ông hai trong truyện ngắn làng của kim lân. Ông đã đưa tình yêu làng lên tình yêu nước, gắn tình yêu làng với tình yêu cách mạng, nét giống đó mang vẻ đẹp tư tưởng mới ở người nông dân, đã đưa nhân vật ông hai lên vị trí một điển hình người nông dân trong buổi giao thời mớ cũ”.

                nhân vật ông hai là một điển hình của người nông dân trong buổi giao thời mới cũ, tức là trong buổi đầu của kháng chiến chố. Ông hai là một lão nông nghèo, sống trong thời kì mà đất nước ta đang còn đang tồn tại song song hai chế độ: phong kiến ​​và thực dân. là một with dân của đất việt, ông cũng như bao người dẫn thời bấy giờ, “một cổ mà phải chịu hai tròng”, sống kiếp nô l᧻m. khi ất nước ta khởi ộng phong trào chống bọn thực dân xâm lược, ông hai đã nghe theo tiếng gọi của tổc, giác ngộn lí của cách mạng, giác ngộn lí của cách mạng, giác ngộn lí của cách mạng. trong ông, tình yêu làng quê, xóm giềng luôn gắn bó chan hoà với tình yêu đất nước, một lòng một dạ trung hiếu với cách mạng, vụhi c. Đó là một vẻ ẹp tư tưởng mới mà chỉ những người nông dân trong thời kì này mới có – những with người đã ược -sáng cás >

                tình làng nghĩa xóm là một tình cảm sâu nặng thiêng liêng và là đặc trưng của mỗi người việt nam, nhất là đốối ngưng i nô; những with người mà cả cuộc đời gắn bó với làng quê, với lũy tre làng, giếng nước, gốc đa.,. cuộc sống của những with người đó là ở làng xóm, quê hương mình.

                chính là mạng sống, là những gì thân thương nhất của cuộc đời họ. Ở ông hai, tình yêu làng cũng giống như mọi người, nhưng lại rất riêng ở mức độ là một người nông dân suốt cuộc đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, từng nếp nhà thửa ruộng, từng ngọn Cỏ, Cành Cây Và Biết Bao Người Ruột Thịt, Xóm Giềng, Họ Hàng Gần XA, Vậy Mà Giờ đy vì giặc ngoại xâm, ông hai phải xa rời quilla quilla do đó, lòng ông ông luôn đ Để thoả nỗi mong nhớ ấy, ông hai suốt ngày khoe về làng mình, khoe đến mức “nghiện” được khoe làng. tối nào ông hai cũng sang nhà bác thứ – một người dân tản cư khác để khoe về làng mình, ông không ngớt lời khoe những cái đẹp, điều hay ở quê hương mình, ông khoe làng ông đẹp nhất nhì thiên hạ, đường làng phong quang, sạch sẽ, cái cổng làng rộng như cái cổng thành. nào là làng ông là làng sầm uất nhất tỉnh, nào with đường làng toàn lát đá xanh, trời mưa đi bùn không dinh gót. Ông Khoe với cai giọng “di sưa và náo nức”, cai mặt thì “biến chuyển”, “quần vén lên tận bẹn, không cần ể ý ến tái ộa người nghe, che. này cho thấy ông rất tự hào về làng xó của mình, làng chợ dầu thân yêu, tình yêu làng, của ông có thể nói là “nồng nhiệt, thiết thha” nh!

                nếu như trước cách mạng, ông hai chỉ yêu làng mình với những gì cụ thể, hiện hữu nhất, quen thuộc với đời sốm cống sinh. Ông tự hào về tất cả những gì mà làng xÓm mình có, thậm chí ông còn khoe cả cái sinh phần – cái lăng mộ – của vii -quan tổng ốc người làng, mộu mộ. thì sau cách mạng, trong kháng chiến mọi cảm xúc về làng quê của ông đều sống vội đời sống chiến đấu của làng mình, củacn. những khát khao, tự hào, sung sướng của ông đều gắn với cuộc sống kháng chiến.

                ông hai thường there are nhớ lại những ngày thing xẻ, khuân đá, ông hátng, ắp ụ, côg, côg, cũg, cũg, cũg, cũg, c. ngày như thời trai trẻ “ồ, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra”, “chao ôi! Ông lão nhớ làng, nhớ cái làng quá!”.

                ông hai còn thích nghe tin tức, thích nói chuyện chính trịng ông ghét người ọc báo bằng mắt vì khổ nỗi, ông ọc chữ khó khĂn lắm nên ông thích những người ọ Điều này, thể hiện niềm khát khao được biết, được hiểu. Ông muốn tìm hiểu những thông tin hay về kháng chiến, những thông tin cập nhật nhất về việc chiến đấu của quân dân ta. nghe tin quân ta giành ược nhiều thắng lợi mà >

                Ông khoe và tự hào về hào giao thông làng mình được phân bố rộng, chặt chẽ. người dân trong làng thì hăng hái tham gia kháng chiến, nào là đào đường, đắp ụ… công việc có ích cho cách mạng, phục vụ công cuộc chiết là! cả làng làm, người người làm từ già đến trẻ, từ lớn đến bé đều hăng say làm việc, đoàn kết, giúp đỡ nhau. Ông còn tự hào về pHòng phát Thanh tuyên Truyền vừa rộng, vừa sạch, nơi ầyc có ủ ủ loại Sách bao, cập nhật những tin tứi mới nhất về kháng chiến chiến chiến cho ngườt. cho đến khi he được giải toả nỗi đau đớn, nghi ngờ về danh dự của làng chợ dầu khi nghe tin làng quê ông phản bội. Ông đã sung sướng biết nhường nào! “cái mặt buồn thỉu mỗi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên. mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy…”. Ông tất bật đi chia quà cho with rồi lại “lật đật” đi “khoe”, “bô bô” khoe mọi người cái tin làng ông bị đốt nhẵn”, nhà ông bịt “đhẵ”. Ông đã sung sướng thông báo rằng: “tây nó đốt nhà tôi rồi”. nội dung lời “khoe” của ông croc vẻ vì không có thể vui mừng trước cảnh làng của mình, nhà của mình bị giặc tàn pHá, nhưng lâc dường như ối ôi ô minh hùng hồn nói với mọi người rằng làng quê ông đã dũng cảm chiến đấu chống quân thù, căn nhà ông bị cháy, bị thiêu huỷ, đã như một dũng sĩ anh hùng ngã xuống vì sự nghiệp chung, là một minh chứng rõ ràng nhất cho sự trong sạch của quê hương ông. hành động của ông hai nổi lên rằng: những mất mát về vặt chất ấy chẳng thấm vào đầu sò với niềm vui tinh thần mà ông được đón nhận, làng ông vẫn là làng kháng chiến, vẫn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông . ta có thể hiểu ược niềm sung sướng, tự hào của một with người đã xoá bỏt hết mọi nghi oan, ngờ vực với “nơi chôn rau cắn mt” ặc biệt khi ông hai lại có tình yêu làng sâu s nghe tin cải chính mà lòng ông như trút được gánh nặng, giải tỏa mọi nỗi lo toan, sợ hãi, thất vọng, bế tắc của ông.

                ông hai yêu làng ến vậy, ông luôn tự hào về làng mình ẹp, rộng, thoááng má, hơn nữa làng chợ dầu quê ông lại làng kháng chiến, một lòng một dạ với với với vớ của dân tộc. nhưng khi nghe làng ông đi theo tây, phản bội lại cách mạng, phản bội lại cụ hồ ông đã rất đau xót, khổ tâm.

                yêu quê hương đất nước; ông không muốn rời xa làng quê của mình đi sơ tán, ông muôn trụ bám cùng ngôi làng thân yêu. do hoàn cảnh bắt buộc phải đi nhưng ông hai có lúc cảm thấy xấu hổ, mặc cảm mình là người chạy trốn, không ở lại với làng, ở lại với anh em đồng bào để cùng chiến đấu vì thế ông thường gắt gỏng những chuyện không đâu. chỉ khi nghe cán bộ nói “đi tản cư âu cũng là kháng chiến”, đi tản cư cũng là ủng hộ cách mạng, ủng hộ cụ hồ, ông hai mới thoi lòng. Điều này cho ta thấy ước muốn trực tiếp tham gia kháng chiến đó cũng là biểu hiện cao độ của tình yêu làng.

                Đặc biệt, tình yêu quê hương đất nước càng sâu sắc hơn, khi ở nơi tản cư, ông nghe tin làng ông theo tây. mới đầu nghe những người tản cư nói giặc qua làng chợ dầu, “ông hai quay phắt lại lắp bắp hỏi” chắc hẳn trong đầu ông lão đang hi vọng làng anh hùng chợ dầu sẽ giết được nhiều giặc, lập nhiều chiến công như ông cũng vừa nghe trên bao. thế nhưng từng lời của người đàn bà “cả làng chúng nó việt gian, việt gian từ thằng chủ tịch mà đi” như lưỡi dao cắt khng tô. như không tin vào hiện thực, ông hỏi lại với chút hi vọng nhỏ nhoi “liệu ​​​​có thật không hở bác? there is là chỉ lại…”. sự thật vẫn là sự thật dù ông cố tìm cách lảng tránh, trong lòng đầy tủi hổ. Ông lão đau khổ đến mức “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”. cái nghèn nghẹn ấy phải chăng là sự uất ức, tức giận, ngạc nhiên không thể nuốt trôi? về nhà, ông nằm vật ra giường “nhìn lũ with, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. chúng nó cũng là trẻ with làng việt gian đấy ư? chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu..”. lũ with ông có tội tình gì đâu cơ chứ, chúng chỉ là những đứa trẻ ngây thơ vô tội thế mà giờ đây, những đứa trứt cógà man”. chua xót thay! Ông hai bắt đầu chửi thề, nhưng ông lão bỗng ngừng lại, ngờ ngợ như lời mình không được đúng lắm. Ông đau khổ, tủi cực, ông lo không biết rồi tương lai của mình và gia đình sẽ như thế nào vì ai người ta chứa cái giệtgian vi! suốt mấy hôm ông lão ở ru rú trong nhà, không đi đâu tới nửa bước, chỉ cần nghe người ta nói “việt gian…” là ông lại chạng, lo dạng. trong ông đang diễn ra một cuộc ấu tranh nội tâm gay gắt giữa niềm tự hào kiêu hãnh về quê hương với sự thất vọng, đau xót, tủi man vỺn hổ,. nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hoà quyện trong nhau thì lúc này, ông hai buộc phải có sự lựa chọn. Đó không phải là một điều đơn giản vì với ông, làng chợ dầu đã trở thành một phần của cuộc đời, không dễ gì dứt bỏ, còn cách mạng lại là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đời no lệ. qua những ngày ấu trap tư tưởng, đau ớn, dằn vặt, có lúc ông hai đã nGhĩ ến việc quay về làng, nhưng sau đó ông gạt ra ngay vì về làng là the theo giặc, pHả hồ, cuối cùng ông hai đã đi đến quyết định “làng thà yêu thật, nhưng làng đã theo tây mất rồi thì phải thù”. “thù” – thù làng quê của chính bản thân mình là rất khó khăn mà lại thù cái mình yêu quý nhất, xem trọng nhất thì càng khó khn. nhưng ông hai đã quyết ịnh, đó là biểu hiện vẻ ẹp Trong tâm hồn của with người việt nam, khi cần họ s àng gạt bỏ tình cảm riêng tư ể hướng tớ “ƯA tình yêu làng lên trên tình yêu nước, gắn tình yêu làng với tình yêu cach mạng, nét giống đó đã mang vẻ ẹp tưng mới ở những ng ườn nt. Thuỷ chung với khang chiến, với cụ hồ. Cuộc trò chuyện với ứa with Út đã làm ông hai vơi bớt nỗi đau ớn, dằn vặt Trong lòng và yên tâm hơn về quyết ị ”,“ Cụ hồ trên ầu trên cót soi cho bố with ông ”,“ Cái Lòng của bố with ông là như thế ấy, cor bao giđai dám. Chết thì chết có bao giờ dám ơn sai ”. sai mà ông hai đã đi ến quyết ịnh: “Làng thì yêu thật, nhưng làng đã theo tây mất rồi thì pHải thù. r.

                trong kháng chiến, những tâm trạng, những tình cảm ấy người dân việt nam nào chẳng có. NHưNG nó thường trực và trở thành sự hối thúc, bức bách, chi pHối mọi tình cảm, ời sống hàng ngày của with người ến thì chỉ có riêng ở nhân vật nôt nôt ôt ôt ôt ôt ôt ôt NHữNG nỗi đau, những niềm vui đó pHản ang chân thực, Sinh ộng sự gắn bó mau thịt của ông với làng quê, với ất nưất c, với ất nưất m ô tình yêu làng đó, thật đúng như lời nhà văn i-li-a ê-bua đã nói, “lòng nh, and ye-li-li-a-bua đã nói,” lòng nh, and and ye-li-li- bua đã nói, “lòng nh, and y ye-li-li-bua đã nói,” lòng ye, ye-li-li-a-bua đã nói, “lòng nh, ye, ye-li-li-a. quê trở nên long yêu tổ quốc”.

                chính sự hài hòa giữa tình yêu làng với tình yêu nước, tình yêu cach mạng mà nhân vật ược nâng lên một vẻ ẹp mới, vừa truyền thống, vừa ầa ầ người nông dân thời kháng chiến chống pháp. tình cảm, mối quan hệ giữa tình yêu làng, tình yêu đất nước, cách mạng là một tình cảm rất điển hình của b i ngƻy vi. chính nó cũng tạo sức sống riêng, đánh dấu mốc quan trọng trong đề tài người dân quê quen thuộc của nhà văn kim lân.

                ý thức ược trách nhiệm của bản thn trong cộng ồng, trong công cuộc chiến ấu chung của dân tộc là nét mới của người nông mátháchán việt. vẻ ẹp của ông hai làng dầu tiêu biểu cho những người nông dân việt nam, tuy trình ộộ văn hoá thấp, nhưng đã có thức gicngỿ cao, hthi thiế. với những suy nghĩ thật đúng đắn về cách mạng, ông hai xứng đáng là một điển hình người nông dân trong buổi giao thời mới – c

                phân tích nhân vật ông hai – mẫu 21

                người nông dân việt nam yêu mến, kháng chiến đặc biệt với làng xóm, quê hương của mình. Chynh Tình Yêu này là nền tảng của tình yêu ất nước, nhân dân cũng là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của nhân dân việtt ta -trong cuc cuộc khá ượng khá. tình cảm sâu đậm ấy được nhà văn kim lân khắc họa sinh động qua nhân vật ông hai trong truyện ngắn “làng” nổi tiếng của mì>

                Ông hai, thật vậy, đã yêu cái làng chợ dầu của mình bằng một tình yêu đặc biệt. Đấy là nơi tổ tiên, cha mẹ ông đã từng sinh trưởng và cũng là nơi chôn rau cắt rốn của ông. do vậy, ông yêu làng này bằng một tình yêu có từ lâu, sâu sắc và bền bỉ như tình yêu của một nông dân gắn bó với quê hơ. nói cụ thể hơn là gắn bó với cảnh vật và with người của mảnh đất quê hương ấy. bởi thế mỗi lần nói đến cái làng chợ dầu ấy, ông đều nói với giọng say mê, nao nức lạ thường. hai with mắt sáng hẳn lên. cái mặt biến chuyển hoạt động. Ông yêu tất cả cảnh vật ở làng ông, nên mạnh dạn tự hào: nhà ngói san sát sầm uất như tình, ường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa đnh kn ghhng, thhng âtng ốtnd ống ốtnd ống ốtnd ống ốtnd ống ốtngd hang. Đôi khi ông cường điệu, ông tự hào mãnh liệt đến cả cái sinh phần của cụ thượng vườn hoa cây cảnh nom như động ấy.

                mãi đến sau cách mạng tháng tám, ông mới nhận ra chính cái định cư của quan tổng đốc ấy đã đem lại bao nỗi khổn ái cho d. có người bệnh, có người chết, bao nhiêu người phải làm không công. riêng phần ông, đã bị một chồng gạch đỏ vào, bại hai bên hông. cả cái chân ông sau này khập khiễng, đi đứng không ngay ngắn bình thường được là do cái làng tai ác ấy. dưới mắt ông, cái gì của làng dầu cùng lớn, cũng đẹp hơn hẳn của người thiên hạ. từ cái phòng thông tin triển lãm sáng sửa rộng rãi nhất vùng, đến cái chòi phát thanh trong làng, cả đến cây lúa ngoài đồng. cái gì của làng ông cũng làm ông say mê, hãnh diện, tự hào.

                lúc cuộc kháng chiến của cả dân tộc bùng bên, lòng yêu làng của ông hai đã có những chuyển biến rõ rệt. nếu trước kia, ông hãnh diện vì làng dầu giàu có, tươi đẹp, cái sinh phần của cụ thượng tốt tương, mới lạ thì sai. cách mạng, nhờ giác ngộ chynh trị, ông lại tự hào về không khí cách mạng ở làng ông, từ những buổi tập quâân sự, những hố, nhữ ngá. Ông đã bộc lộ niềm sung sướng của mình trước những sự thay đổi ở đó, sự xuất hiện của phòng thông tin, chòi phát thanh. Đó là cuộc đời, số phận ông, thực sự gắn liền với những bước thăng trầm của làng chợ dầu yêu dấu của ông.

                ông.

                Đối với ông hai, khi ấy, tình yêu làng mạc và tình yêu đất nước đã chan hòa làm một trong tình cảm và nhận thứcng ôa của. những ngày đầu kháng chiến, ông luôn tự hào về việc làng dầu của mình cùng đã tham gia với cuộc chiến đấu chung của dân tộc. ngay bàn thân ông cũng đã nhiệt tình với mọi người đi đào ường, ắp ụ dê cản giặc và tha thiết muốn ở lại ể ượ ược trực tiếp chiến ấu

                nhưng sau đó, ông hai phải theo vợ with tản cư đến một làng khác. nỗi nhớ làng khôn nguôi, ở nơi tản cư, ông theo dõi tin tức về kháng chiến. không đọc được báo, ông tìm hỏi tin cho bằng được. TRướC TIN MộT EM BÉ BAN TUYêN TRUYềN XUNG PHONG DũNG CảM CờM Cờ LêN THAP RUE, MộT ANH ộI TRưởNG GIếT ượC BảY Tên GIặC tai giỏi cả. ngoài việc khâm pHục những người anh hùng trong kHáng chiến, ông hai còn hả lu trước thất bại của ịch: chỗ này gi ược tên phap với hai vi gian, chỗ kia pHá một gene ge- m ge- một ge- một ge. m. m. mat tay mat tat tato … ông lão cứ múa cả lên.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *