Văn mẫu lớp 11: Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng Giang của Huy Cận 2 Dàn ý & 16 bài văn mẫu lớp 11 hay nhất

Phân tích khổ thơ cuối bài tràng giang

Mời các bạn xem danh sách tổng hợp Phân tích khổ thơ cuối bài tràng giang hay nhất và đầy đủ nhất

pHân tích khổ cuối tràng giang của huy cận gồm dàn ý và 16 mẫu dưới đy không chỉ giúp các em học sinh lớp 11 cóo hi hiểu biết về hon . qua đó thấy được cảnh núi non hùng vĩ của sông nước và cảm nhận được cái tôi nhỏ nhoi của tác giả.

khổ cuối tràng giang là khổ thơ ặc sắc, nắm giữ hồn cốt thơ huy cận, và cho ta there are, nỗi buồn sầu ảo não trong thơ ông, luôn tha thiết, vọng ngưỡng về quê hương của mình. vậy dưới đây là 16 bài văn mẫu phân tích khổ cuối tràng giang hay nhất, mời các bạn cùng đón đọc nhé.

dàn ý phân tích khổ cuối bài tràng giang

dàn ý số 1

i. mở bài: giới thiệu khổ thơ cuối của bài thơ tràng giang

ii. thân bài: phân tích khổ thơ cuối bài tràng giang

1. hai câu đầu: màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên

  • các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơ
  • hình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vô bờ
  • hình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặng
  • hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn chỉ cái tôi nhỏ nhoi, cô đọng của tác giả
  • 2. hai câu cuối:

    • nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên
    • nỗi buồn của huy cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật
    • khát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho quê hương, đất nước
    • iii. kết bài: nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối của bài tràng giang

      video:

      khổ thơ cuối bài thơ tràng giang thể hiện cảnh núi non hùng vĩ của sông nước. bên cạnh đó còn thể hiện cái tôi nhỏ nhoi của tác giả.

      dàn ý số 2

      1. mở bài

      “tràng giang” không chỉ là một bài thơ , ththt, ththt, ththt, ththt, ththt, quht, quhtnh, quht. hiện tình yêu quê hương đất nước mà còn thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. và có lẽ khổ thơ cuối cùng khép lại thi phẩm, gieo vào lòng người đọc nhiều ấn tượng:

      “lớp lớp mây cao đùn núi bạc…không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

      2. thanks bài

      a) bức tranh thiên nhiên

      nhà thơ miêu tả một hoàng hôn Tráng lệi lớp lớp mây trắng chồng xếp lên nhau như những num bạc, canh chim nhỉ bé trao nghiêng ang ang chi ều v ướng n. /p>

      b) bức tranh tâm trạng

      hình ảnh vận động hữu hình: “chim nghiêng cánh” để diễn tả một vận động vô hình “bong chiều sa”. dường như cánh chim đang trĩu xuống dưới sức nặng của bóng chiều, hoàng hôn mặt trời như sa xuống mặt đất. nếu như trong thơ bà huyện thanh quan, lí bạch … thì cánh chim là biểu hiện báo hoàng hôn trong thơ huy cận là sự hiện diện vủa cảm giác cô õi ơnc, l. p>

      thi nhân phủ định thi liệu cổ điển để khẳng định ý tình thời đại trong hai câu kết:

      “lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

      hai câu thơ lấy ý từ hai câu thơ của thôi hiệu trong “hoàng hạc lâu”:

      “nhật mộ hương quan hà xứ thịyên ba giang thương sử nhân sầu”

      (what hương khuất bóng hoàng hôntrên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

      thôi hiệu xưa đứng trên lầu hoàng hạc nhìn khói sóng dâng lên nỗi nhớ quá khứ. miền quê ấy có thể là nơi chôn rau cắt rốn, nơi con người sinh ra lớn lên nhưng cũng có thểu là miền ất nơi con ng gắn bó vĩnh vi san sau hoàng hôn củc c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c aờc c c c c c c c c c c c c c c c c c c aờc c c aờc c c aờc c c c c c c c c a cc c a cc c to cc c c. nỗi sầu ấy mang đậm màu sắc cổ điển, gợi mở nỗi buồn về sự hư vô của kiếp người.

      còn huy cận, đứng ngay trên quê hương mình, dòng sông không có khói mà vẫn dâng lên nỗi nhớ nhà. nhà ở đy có thể hiểu rộng là nước nhà, chiếu lên hai chữ “lòng quê”, lời thơ huy cận bộc lộ kín đáo tình cảm với ới Ự qu.h Ặt Bài Thơ Trong bối cảnh xã hội bấy giờ, có thể hiểu là nỗi buồn ất nước mất chủt quyền, nỗi buồn của cảt t. lan tuâ ễ ễ ạm thn tu -vi tu -t. lan tu -vi tu -t. lan tuâ .

      từ láy “dợn dợn” đã đồng nhất nhịp điệu của sóng nước vố nhịp điệu của cảm xúc. nó vừa gợi ra cái dập dềnh của sóng nước vừa gợi cảm giác hoang lạnh trong lòng nhân vật trữ tình. từ láy “dợn dợn” còn diễn tả một cách chân thực, lãng mạn cảm giác hoang mang của cái tôi không tìm thấy điểm tựa và hưỬ ęớ cung

      bức tranh tâm trạng của chủ thể trữ tình mang màu sắc cổ điển khi nhân vật trữ tình cảm thấy cai nhỏ bé, hữu hạn của ời người với cai bao la, vôn hủn củng. Đó là nét tâm trạng mang màu sắc phương Đông, tiếp nối mạch dòng ngàn đời trong thơ ca cổ điển. tuy nhiên bài thơ vẫn mang những nét hiện ại, nhà thơ cảm thấy lạc liqu, bơ vơ, mấi liên hệi với vũ trụ, mất sự giao cảm với cutc ời, with ng ng và n n n n.tm n.tm và n n.tm và n n.tm n.tm và n n.tm n.tm c khm c.tm catm catm cô đơn. Đó cũng là tâm trạng chung của cái tôi lãng mạn trong thơ mới.

      3. kết bài

      nêu cảm nghĩ của bản thân.

      phân tích khổ cuối tràng giang

      thơ của huy cận mang nhiều nỗi buồn về cảnh vật và thế sự. nỗi buồn của with người về quê hương đất nước. bài thơ tràng giang là nơi tác giả bày tỏ nhiều tình cảm với quê hương đất nước. khổ thơ cuối trong bài đã thể hiện được nỗi sầu của thi nhân và nhân thế.

      ba khổ đầu nhà thơ đã sử dụng phép tả cảnh ngụ tình. nói về những with người thấp cổ bé họng. trong khổ cuối ông hòa vào đó sự cô đơn của bản thân và nỗi nhớ quê hương lên tầng thiên nhiên cao hơn.

      “lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.

      “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” câu thơ tưởng chừng như đơn giản nhưng lại khiến người đọc choáng ngợp. họ choáng ngợp bởi hình ảnh núi mây ở đây. “lớp lớp” là từ láy thể hiện được cảm giác mây như dày thêm, màu của núi mây có màu bạc huyền ảo. trong câu thơ này tác giả cũng lấy cảm hứng từ thơ của Đỗ phủ.

      “Đùn” và “lớp lớp” là những cụm từ khiến cho không gian trở nên rộng hơn. Điều này khiến cho nhân vật trữ tình đã cô độc nay còn nhỏ nhoi hơn trước thiên nhiên rộng lớn. hình ảnh trên con khối cho người đọc liên tưởng đến nỗi buồn trong lòng tác giả. từng chồng từng chồng xếp lên nhau.

      “lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

      giữa không gian bao la rộng lớn của thiên nhiên. hình ảnh cánh chim nhỏ bé đang đập cánh cho nghiêng hiện lên. hai câu thơ cuối nói lên được nỗi nhớ da diết của nhà thơ. “dợn dợn” là từ láy được ông sáng tạo riêng. hai thanh nặng xuất hiện như nỗi buồn của nhà thơ đang vào hố sâu tuyệt vọng. nó như cơn sóng gợn buồn trong lòng tác giả.

      câu thơ cuối trong bài tràng giang được lấy cảm hứng từ thơ của thôi hiệu. Đối với tác giả tình yêu quê hương đất nước trong ông lúc nào cũng sẵn có. không cần bất cứ một thứ xúc tác nào tác động.

      cảm nhận khổ cuối tràng giang

      nhắc đến huy cận là nhắc đến hồn thơ u sầu, trong thơ ông luôn chất chứa những nỗi niềm của một kẻ sĩu ẩth nân. MộT TRONG NHữNG Bài Thơ Tiêu Biểu Cho PHong Cách ấy Của ông Là “Tràng Giang”, Tac Phẩm ượC Viết Vào Mùa Thu NĂm 1939. Khổ Thơ Cuối Bài “Tràng Giang” Là những khổ nồt ỗt ỗ ỗ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp của thi nhân.

      lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa.lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      giữa trời đất rộng lớn, mênh mông nhưng nhà thơ huy cận lại không tìm được một tiếng nói đồng cảm, tri âm, không có một ai có thể thấu hiểu được tâm trạng và những nỗi buồn đang giăng kín trong tâm hồn nhà thơ. nỗi phiền muộn, u sầu không thể giãi bày, chỉ có thể tự mình giữ lấy nên nó càng nhức nhối, khắc khoải.

      “lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa.”

      những hình ảnh cổ điển “mây”, “cánh chim” ược tác giả sử dụng kết hợp với các ộng từ “đùn”, “nghing”, “sa” đin tá cc ượ cc ượ cc . của thiên nhiên. những tầng mây “lớp lớp” chất chồng lên nhau tạo nên những dãy núi bạc khổng lồ, lơ lửng trên nền trời xanh ng. một cảnh tượng thật hùng vĩ biết bao! thiên nhiên lúc này không còn trong trạng thái tĩnh mịch nữa mà nét động dần thay thế. mây đùn núi bạc trong ánh chiều, chim nghiêng cánh nhỏ mơ màng trong bóng hoàng hôn, tất cả tạo nên một không gian đẹp đẽ, rực rỡngà s. tuy nhiên, trong khung cảnh ấy, ta vẫn thấy nét buồn, cô đơn của tâm hồn thi nhân khi bắt gặp hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ bón sag chiều”. cánh chim nhỏ bé, mỏng manh bay giữa mây cao, núi bạc, cô đơn giữa đất trời mênh mông, hùng vĩ tựa như hình ảnh thi nhân đang bơ d ng. bởi thế mà nỗi buồn cứ thế trào dâng, miên man bất tận, thấm đượm trong cảnh, chất chứa trong tình.

      có thể nói, tình quê là một tình cảm đáng trân trọng của các thi nhân dành cho quê hương, đất nước. thôi hiệu từng nhìn khói sóng trên sông mà nhớ nhà:

      “nhật mộ hương quan hà xứ thịyên ba giang thượng sử nhân sầu.”

      there is lí bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương da diết:

      “cử đầu vọng minh nguyệtĐê đầu tư cố hương.”

      người ta xa quê thì nhớ quê, nhưng với huy cận thì khác, tác giả đang đứng trên quê hương mà lại nhớ quê hương da diết:

      “lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

      từ lay “dợn dợn” gợi tả nét chuyển ộng diễn ra lín tục trong tâm khảm nhà thơ, một nỗi nhớ luôn thường trực khôn nguôi, ầy sâu sắc và ang. DườNG NHư, KHông Giây Phút Nào Là Thi NHân Không NHớ ến quê hương, ất nước Mình, ặc Biệt Là Trong Cảnh Tổc qốc đang Bị Xâm LăNG, Giày Xéo Bởi Qun.

      có thể nói, khổ cuối bài thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp nhưng buồn sầu. Ẩn sâu trong từng con chữ là cái tôi thi sĩ cô đơn song lại chất chứa tình cảm sâu nặng, tha thiết với quê hương, đất nư>ớc

      phân tích khổ thơ cuối bài tràng giang

      trong số các nhà thơ mới trước cách mạng, huy cận là một nhà thơ có chất thơ ảo não nhất. thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “tràng giang” là một bài thơ gắn liền với tên tuổi của huy cận với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm thương nhớ ấy càng được thấy rõ trong khổ thơ cuối bài tràng giang.

      lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa.lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:

      lớp lớp mây cao đùn núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa.

      trong thơ của huy cận cũng cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói vềi bomổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không croc dụng hô ứng choc choc choc choc choc có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong Buổi Chiều Muộn, NHưNG TừNG LớP, TừNG LớP Mây Trên Cao Kia Vẫn Chất Chồng nên Nhau, Tạo Thành NHữNG No. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trôi giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của hồ chí minh. mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.

      Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:

      lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      tầm mắt trở lại trên dòng nước. từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn nhưng cũng tồn tại rất lâu, lan tỏa rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn,

      người xưa nhìn khói sóng trên dòng sông khi chiều tà mà cảm thấy nhớ nhà. còn huy cận không cần thấy khói hoàng hôn nhưng trong lòng vẫn dâng lên một nỗi nhớ quê hương da diết. Đó như một thứ tình cảm thường trực vẫn luôn chứa trong lòng người with xa quê, mà không cần một tac ộng nào từ bừng ngoài, vẫn thấy nhớ quê, thương quê.

      phân tích khổ cuối bài tràng giang càng thấy riqu hơn bức tranh quê hương ẹp ẽ, nên thơ với những hình ảnh quen thuộc của làng quêvệt nam như sông, bá, bá, bá. Đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, đã thấm vào từng con chữ. Ồng thời trong đó cũng thể hiện khát khao tìm ược sự ồng điệu trong thế giới bao la của một tâm hồn thi sĩ luôn băn khoăn mộuth.

      phân tích khổ cuối bài tràng giang ngắn gọn

      bai văn mẫu 1

      huy cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ pháp, giọng thơ ảo não. thơ huy cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng chung của cả thế hệ một dân tộc.

      bài thơ “tràng giang” ược trích từ tập “lửa thiêng” thể hiện một nỗi buồn côn ơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ kernel hương trong cảnh Howng Hôn Trước Tràng Giang.

      khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi sông tr

      “lớp lớp mây cao đùn núi bạc….không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

      đy là khổ thơ kết tinh của làng quê “dợn dợn vời con nước” của huy cận, của một tấm lòng sâu lắng thiết tha vớ ới Ự

      hai câu đầu là một bức tranh nhiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ:

      “lớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa”

      cach cảm nhận của nhà thơt sức tinh tếo nên những nét vẽ hoành tráng của thiên nhiên buổi chiều: “lớp lớp mâông xếp lên nhau thành num num. hai câu thơ của Đỗ phủ:

      “lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmmặt đất mây đùn cửa ải xa”

      một cánh chim nhỏ xuất hiện trong câu thơ gợi ấn tượng về sự cô đơn, bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp ộr cho ng .không gian cà. một cách cảm nhận vừa gần gũi, vừa tinh tế. hình ảnh bóng chiều như jue lại sa xuống từ cánh chim:

      “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

      trước không gian vô tận ấy, tâm trạng nhà thơ là nỗi nhớ nhà:

      “lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

      Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của thôi hiệu phảng phất ở đây:

      nhật mộ hương quan hà xứ thịyên ba giang thượng sử nhân sầu.

      thế nhưng thôi hiệu phải có “khói sóng” mới “buồn lòng ai”. còn nhà thơ của chúng ta “không khói hoàng hôn” mà “lòng quê” vẫn “dợn dợn vời con nước”! từ láy “dợn dợn” và từ “vời” khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng!

      chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, huy cận đã trải lòng minh trên từng trang thơ để thể hiện tình yêu quê hương , đất ntth.

      huy cận vốn là một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới. thơ ông vốn đặc biệt vì trong hồn thơ luôn ẩn chứa một nét hoài cổ buồn và sầu. Đặc biệt là bài thơ tràng giang với khổ thơ thứ tư đã cho ta thấy rõ điều đó.

      Đó là một khổ thơ rất đẹp trong bài, tuy mang một chút buồn. một vẻ đẹp của một buổi chiều trên sông nước, gợi một nỗi buồn sầu nhân thế:

      lớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa

      Đây là một bức tranh thiên nhiên tả cảnh buổi chiều, rất sinh động. Đọc câu thơ đầu, ta tự hỏi. pHải chăng đây còn là câu thơ nổi bật một nỗi sầu trong thi sĩ, nỗi sầu này đang dâng lên trùng trùng lớp lớp, như dồn nén và ứ ọng lại trong mảnh hến nh nh nh Đặc biệt trong thơ huy cận luôn ẩn chứa những hình ảnh cánh chim, một trong những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca cổ. nét cổ điển một canh chim nhỏ chấm pHá trên nền trời khi chiều bắt ầu buông, thển rõ nét sự nhỏ bé, ơn côi trong lòng thi sĩ và càng khi bài the ữ ắ ắNg.

      lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

      Đây là hai câu thơ đã diễn tả được hết nỗi nhớ quê hương và tình yêu với tổ quốc trong lòng thi sĩ. thơ huy cận mang nặng ý vị cổ điển là đây. trời rộng, sông dài, một người đứng đơn côi giữa mênh mông rộng lớn, khiến ta liên tưởng một ý thơ toát ra tỐ thƻ>

      what hương khuất bong hoàng hôntrên sông khói sóng cho buồn lòng ai

      người xưa nhìn sóng trên sông nên nỗi nhớ nhà càng thấm thía. thì huy cận không cần điều đó, cái hồn sầu trong lòng đã như ngấm vào máu, thấm vào từng tế bào của nhà thơ mất rồi. thể hiện một sự mến thương cao độ, một tấm lòng yêu nước thiết tha của huy cận, và còn thường trực hơn nhiều. và đây cũng là một nét tâm trạng của thanh niên tiểu tư sản lúc bấy giờ.

      tố hữu đã nói “sống giữa quê hương mà bơ vơ như kiếp đi đày” quảc nói rất đúng về tâm Trạng Thanh Niên Nói Chung và tâm Trạng riêng và càng cho ta hiểu nỗi buồn thấm thía của một thời đất nước ta lúc bấy giờ.

      là khổ thơ xuất sắc nhất Trong tac pHẩm, và cũng là khổ thơ thể hi rich nhất nét tâm trạng của một chàng trai trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ. thế mới hiểu vì sao người ta nói huy cận là cái mảnh hồn thiêng sông núi, và là nỗi sầu của nhân thế. nhờ kết hợp những biện pháp nghệ thuật tài hoa đã làm nổi bật giá trị nội dung, tư tưởng của một phong cách thơ mớni. và huy cận mãi về sau khi nhắc đến vẫn sẽ luôn là một mảnh hồn không thể tách rời với văn học việt nam.

      bai văn mẫu 2

      trong bài thơ tràng giang của nhà thơ huy cận, khổ thơ cuối là một trong những khổ thơ cô ọng, giàu hình tượng và ưệ thuỡ à. qua khổ thơ, người ọc có thể thấy ược những nét hi ại pha lẫn với yếu tố cổ điển đã làm nổi bật nêi nhớ nhà và tâm trạng lo lắng trước thờc thưới c. >

      thiên nhiên trong đoạn thơ này có sự vận ộng dữ dội, những đám mây trắng từ đu đùn về tạo thành những ận bÚi tr. “LớP lớp mây cao đùn no bạc” câu thơ cũng gợi lên vẻ ẹp hùng vĩ tráng lệ của non sông mà qua đó ta cảm nhận ược tình cảm của thi âi ối với qung ước.

      câu thơ thứ 2 là hình ảnh của một Cánh chim chiều nhưng ược miêu tả rất ặc biệt, bong chiều nhưc cả hình khối và sức nặng đang èè lên canh chei. with chim thì như đang vội vã chạy trốn bong chiều đang sa xuống. hình ảnh thơ như nói hộ nỗi bơ vơ, sực loài của chynh nhà thơ bởi giờ đy ông cảm thấy mình cũng như canh chim nhỏ Nhoi kia, muốn chạy trốc đ đ đ đ

      câu thơ thứ 3 “lòng quê dợn dợn vời con nước” sử dụng cách nói kiệm lời. lòng quê tức là nỗi lòng cứ từng ợt, từng ợt trào dâng (dợn dợn), nó cũng giống như những con sóng bên sông cứ tiếân v.

      nỗi buồn nhớ quê như mênh mang vô tận bao trùm cả không gian. theo huy cận thì thời kì này ông đang sống ở xa quê hương mà như không có quê hương. trước sông nước he mênh mông càng thấy trống vắng lạc loài, càng khao khát sự đoàn tụ, sum vầy.

      câu thơ kết “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ câu thơ của thôi hiệu cancion ý thơ lại có những nét khác. thôi hiệu nhìn khói sóng trên sông rồi liên tưởng đến những ngọn khói lam chiều mà lòng trào dâng nỗi nhớ quê hương. còn ở đây dù không có khói mà cứ chiều xuống nỗi nhớ nhà lại cồn cào đau đầu trong lòng thi nhân. hình như so với thôi hiệu thì nỗi nhớ trong huy cận nó canh cánh, da diết, chảy bỏng hơn.

      cả bài thơ tràng giang vốn đã đượm một nỗi buồn man mác thì đến khổ thơ cuối cùng này, nỗi buồn ấy lại càng nhưu trn. tác giả đã sử dụng hàng loạt từ “cánh nhỏ”, “chiều sa”, “dợn dợn”, “vời”, “nhớ” càng tô đậm thêm nỗi buồn man mác của thơ. khổ thơ này nhà thơ cũng nhắc đến quê hương và nhà của mình. DườNG NHư SAU Hàng loạt Khung cảnh Mênh Mang Song NướC, Sự Trĩu nặng của tâm Trạng khi cảnh vật vềt chiều thì cuối cùng tac giả cũng phải bật thốt lên vềi nỗi n phải dồn nén thế nào, nỗi nhớ chan chứa và sâu lắng ấy mới được nhà thơ gói gọn trong hai dòng thơ cuối.

      bài thơ tràng giang, đặc biệt là khổ thơ cuối cùng, là sự kết tinh của những hình ảnh thơ hiện đại và cổ điển. cách vận dụng sáng tạo thơ xưa của thôi hiệu với sự diễn đạt của riêng nhà thơ đã tạo nên một phong cách rất huy cận. qua đây, người ọc có thể thấy ược cảnh ẹp kì vĩ của non sông ất nước và sự cô ơn, lạc lõng của người thanh neither nor no trờc trời ất mà bất lựt lựt.

      bai văn mẫu 3

      lửa thiêng (1940) của huy cận là một tập thơ sáng giá trong thơ mới việt nam. phong cảnh trong lửa thiêng, nhất là trong các bài thơ vạn lí tình, tràng giang, Đẹp xưa… đều đượm một nỗi buồn man mác:

      tôi ngã ba sông nước bốn bềnửa chiều gà lại gáy trên đê.

      Đó là con sông ngàn bên núi mồng gà thuộc hương sơn (hà tĩnh), quê hương thân yêu của nhà thơ. trong tràng giang, một nỗi buồn như dồn nén thấm sâu vào cảnh vật và lan xa muôn vàn con sóng, nhất là bốn câu kết của bài thơ:

      bao trùm cả bài thơ là một không gian nghệ thuật bao la, thật đẹp và cũng thật buồn. có sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp. có lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu. có lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng và trước mắt nhà thơ là một khung cảnh bao la, vắng vẻ: sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

      khổ cuối nói đến hoàng hôn trên tràng giang. một cái nhìn xa vời vợi. trước mắt nhà thơ là những núi mây nhô lên, đùn lên lớp lớp màu trắng bạc. cảnh sắc thiên nhiên rất tráng lệ. bầu trời chắc là xanh thẳm, hoặc tím thầm trong khoảnh khắc hoàng hôn nên màu mây ở cuối chân trời mới ánh lên màu bạc ấy. giữa cái bao la mênh mông bỗng xuất hiện một cánh chim nhỏ nhoi. cánh chim đang chở nặng bong chiều, bay vội vã. trên cái nền tím sẫm, nhạt nhòa của bóng chiều hôm, hiện lên những núi bạc mây cao và một con chim lạc đàn nghiêng cánh nhỏ. hai nét vẽ ấy tượng trưng cho những cảnh chiều hôm trong tâm tưởng người lữ thứ: ngàn mai gió cutn chim bay mỏi (bà huyện that quan), chim hôm tho thop về rừng (nGuyễn. bé và mờ dần với núi mây bạc hùng vĩ, với trời ất bao la đã làm cho ất ất trời và tràng giang thê thê ê m đng m. p>

      bốn câu kết mang ý vị cổ điển rất đậm đà. Ý vị ấy, màu sắc ấy ược thể hi ở hình ảnh nhà thơ một mình ứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cai vô củng của không gian, Thời gian. Một Cánh Chim, Một Num Mây Bạc Cũng dẫn Hồn ta đi vềi nẻo, ến với mọi pHía chân trời: lưng trời song rợn lòng sông thẳm – mặt ất mâyn đn cửa ả Ý vị cổ điển ấy lại được tô đậm bằng một tứ thơ Đường:

      lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      hơn mười hai thế kỉ trước, trong bài thơ hoàng hạc lâu, thôi hiệu đã viết:

      what hương khuất bong hoàng hôn,trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

      (tản Đà dịch)

      huy cận nhìn cao rồi nhìn xa theo tràng giang vời with nước, ở trên nhà thơ đã pHủ ịnh: mênh m mng không một chuyến đò ngang – khng cầu gợi n n n n n n n nhớ nhà. nỗi buồn cô đơn và nỗi nhớ quê tràn ngập tâm hồn khách tha hương trong buổi hoàng hôn, bên dòng sông đang mải miết trôi về tận xphô>

      thơ huy cận hàm súc, cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lí suy tưởng. một hồn thơ bơ vơ, sầu não ấy luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo vật trên một không gian mênh mông, vắng lặng. cảnh sắc trong tràng giang đẹp mà buồn. tình quê, lòng quê trong bốn câu kết thật vô cùng sâu sắc, thắm thiết. Đó là những vần thơ mãi mãi vương vấn lòng người trong mọi thời gian và không gian.

      thơ thất ngôn trong tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính, trang trọng. Mỗi khổ thơ nếu ứng tách riêng ra sẽ trở thành một bài tứ tuyệt thể hiện sâu sắc cảm hứng mà tac giả đã viết trong lời ề từ: bâng khuâng trời rộng nhớng n. nỗi buồn bâng khuâng và nỗi nhớ ấy là của một tấm lòng đang hoài vọng quê hương. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng như muôn ngàn sóng gợn buồn điệp điệp trong lòng người đọc bấy lâu nay. cảnh sắc hoàng hôn và lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi mãi khơi gợi trong ta hình bóng quê hương yêu dấu. tràng giang đã và đang mang theo bao vạn lí tình trong hồn ta.

      phân tích khổ cuối bài thơ tràng giang đầy đủ

      bai văn mẫu 1

      nền thơ 1930 – 1945 đã đóng góp cho thi đàn văn học việt nam nhiều phong cách độc đáo. NếU ta Theo thế lữ vào giấc mơ tiên, vào cuộc ời bất tận Theo Cách sôi nổi cuống qualk vội vàng của xuân diệu “muốn cắn trai xuân hồng” thì ta con cóc cóc ể ể. chẳng cần đi tới tập thơ lửa thiêng chỉ riêng bài tràng giang cũng đã làm nên hồn thơ “ảo não” huy cận. và khổ thơ cuối là khổ thơ sâu lắng tha thiết nhất trong trường buồn tràng giang của ông.

      lớp lớp mây cao đùn núi bạc…không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      nếu như trong ba khổ thơ ầu chung ta thấy tâm trạng buồn của một “nỗi buồn” thế hệ mag tínnh thời ại, một nỗi buồn không tìm ra lối thof mông vô ịch củch củA si trạng ấy được nâng lên chiều cao, lan tỏa trong khói hoàng hôn củổi chiổi.

      lớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

      Ở dòng thơ này ta thấy đôi mắt của nhà thơ dường như đang nhìn thấy rất xa nơi cuối chân trời “tràng giang”. thật vậy không gì vui bằng lúc rạo rực bình minh, nhưng cũng không gì buồn bằng cái buổi ngày tàn của“bóng chiều sa”. nhưng chynh lúc ấy trong thơ huy cận với “tràng giang” lại rạng lên vẻ ẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây hợp thành “noui mây” khhổng lồ c. quả và ằng sau hình quả num ấy là một mặt trời chói lọi sắp tắt khiến cho ở ấy mây cũng ầy nỗi buồn rợn ngợp.

      tác giả đã dùng cái có của thiên nhiên để nói về cái không của tình người trong cái bể trời bao la ấy. câu thơ gợi nhớ nỗi buồn của Đỗ phủ khi ông không chốn nương thân da diết nhớ quê hương:

      mặt đất mây đùn cửa ải xa.

      thấy trong suốt hành trình tràng giangg hình ảnh thi nhân cô ơn trong từng cảnh vật ổi thay nhưng c fourth một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh xanh trô ). với khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn lạc loài. Đó là một cánh chim, chim nhỏ nhoi đang chở nặng bong chiều, nghiêng cánh nhỏ cố bay về chân trời xa vắng.

      cánh chim bay lượn tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá, nỗi buồn ở đây càng thêm da diết trong nhớ thương. nó không đóng khung cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa. nếu như câu thơ “lớp lớp mây cao đùn no bạc” gợi lên cai cao, cai bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuốngoch BUồN NHớ CủA THI NHâN Nên MớI CÓ CHữ “SA” CHứ KHông phải là “xa. ậm trong hình ảnh thi nhân một mình ứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vôn của khôn ối ni.

      lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

      chuyển sang câu thơ thứ ba ột ngột xuất hiện hai tiếng “lòng quê” không phải là ánh mắt nhìn vào mình, nhìn tteo ​​ến hun hÚt” m. chân trời xa xôi.

      “lòng quê” đó là nỗi lòng nhớ quê hương. Và cũng Co nGhĩa diễn nôm na là: của người trí thức tây học này vốn đã bị thị thành Hóa giờ đy nó đang trởmi thành tấm lòng của người cống giàu tình n. hai nghĩa trên nó sẽ định ra cho sự giải thoát cô đơn. phải thành cái mình thứ hai nữa mới trở về chính quê hương mình.

      hai tiếng hog howng hog hog hog hog hog hog hog hog howng hog hog howng hog hog howng hog hog howng hog howng hog hog howng hog >

      what hương khuất bóng hoàng hôntrên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

      dòng thơ cuối cùng gợi ngay đến 2 câu thơ của thôi hiệu thời Đường cũng là tâm tình quê của huy cận. với huy cận lòng quê đã nhớ quê sẵn. Đó là nhớ nhà, nhớ những người ruột thịt, những gốc chuối bờ tre. vì thế không có một sự gợi ý ngoại cảnh thì tấm lòng ấy vẫn đĂm ắm hướng về qu q ểể hi vọng kiếm một chút niềm thân mật ở làng quês sông n ng ng ng ng ng thân mật ở làng quê sông n ng nơt chút niềm thân mật ở làng quê sông n ng nơt chút niềm thân mật ở làng quê sông n ng nơt chút niềm thân mật ở làng qu qu row

      mới đọc bài thơ tràng giang ta có cảm tưởng tất cả bài thơ là thiên nhiên. nó rất hoang vắng, nó độc thoại với chính nó. thế nhưng bốn dòng thơ cuối bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. và ở hoàn cảnh đất nước bị đô hộ càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu thì thi nhân càng “ảo não” bấy nhiêu.

      pHải chăng ai đó đã nâng ỡ lòng người, khơi gợi những gì ẹp ẽp ẽ nhất, tiềm ẩn nhất với đáy sâu tâm hồn ể vươn tới cai cao cả. tràng giang đã khơi dậy tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng cao cả, nó mở đường cho tình yêu tổ quốc, tình yêu giang.

      bai văn mẫu 2

      Đọc thơ của huy cận người đọc cảm nhận rõ được tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước sâu nlòng trong. bằng tình yêu nồng nàn và luôn cháy trong tim ông luôn hướng về quê hương đất nước dù hiện tại ông đang đứng trên mảnh đấ khổ cuối bài tràng giang là tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước.

      tac giả với tình yêu quê hương ất nước yêu cảnh sắc quê hương vì thế mà bức tranh thiên nhiên vẫn tiếp tục ược mở ra với những chi tiết mới:

      câu thơ ầu đã gợi mở ra cảnh phía chân trời xa, những đám mây trắng chồng xếp lên nhau trùng trùng điệp điệp dưới phiếu ánh dyng lấp đp điệp dưới phiếu ánh dyng lấp đp điệp dưới phiếu ánh dyng lấp đp điệp dưới phiếu ánh dyng lấp đp điệp dưới phiếu ánh dyng lấp đp điệp dưới phiếu ánh dyng lấp nánh. huy cận học ý thơ của Đỗ phủ qua bản dịch nghĩa của nguyễn công trứ: “mặt đất mây đùn từ ải xa”. Đã phác họa bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng đẹp một cách tráng lệ lung linh.

      nhưng đến câu thơ thứ hai: “chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa”. thơ xưa khi nói đến chiều thường buồn điểm xuyết trên nền không gian là cánh chim về tổ. Huy cận vẽ canh chim trao nghiêng ặt trong dấu hai chấm như ể nhấn mạnh cả bong chiều như rơi xuống gél pHần gợi nỗi buồn diết về sự bé nh ờ c con ngườcườcườc không gian rộng lớn bao la nhưng lại làm cánh chim nghiêng ngả với đôi cánh nhỏ của mình. nhưng trong câu thơ trên huy cận co nhắc ến thời điểm “bong chiều” là là khoảng thời gian ặc trưng choc tâm trạng nhớ nhà nhớ quhíng da diết củng rõ tâm tâm trạng ấ and

      “lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

      lần đầu tiên thi sĩ bộc lộ tâm trạng nỗi nhớ quê hương được hiện lên từ khói hoàng hôn, từ con nước dợn. Nó đã gợi ta nGhĩ ến cảm giác đang rợn lên trí trí with người hay những with song nhấp nhôn sone nước rất khó pHân ịnh chỉt biết qua từ “dợn” Song Nognc, Dong song. she chỉ biết tấm lòng thương nhớ quê hương không chỉ ở trong ý thức mà đã xâm lấn cảm giác của con người thấm thía.

      câu thứ 4 “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” tính đối thoại với một tình cảm quan niệm thơ đi trước cho ta nghĩ đỿn tiếng that

      “trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

      với huy cận không cần khói sone nào cần ến tac dụng của ngoại cảnh mà vẫn nhớ quê hương, nỗi niềm thương nhớ luôn thường trực Trong lòng ười. Đó là cách bày tỏ tình cảm thật sâu sắc. cũng giống như bà huyện thanh quan:

      “nhớ nước đau lòng con cuốc cuốcthương nhà mỏi miệng cái gia gia”

      Đứng trên quê hương, đất nước mà vẫn nhớ quê hương đất nước. pHải chăng đó là nỗi buồn sông no của một trí thức yêu nước sống trong thn phận vong quốc nô, nỗi buồn của một thế hệ thanh ni êu nước sống dưới thời phc ương ươ

      bức tranh thiên nhiên gây ấn tượng bởi vẻ ẹp kì vĩ mĩ lệ của khung cảnh trời chiều ậm màu sắc nhưng bức trap quá rộng lớn làm ầy lên nỗi >

      tràng giang là tiếng buồn của hồn thơ huy cận được gợi lên từ sự đối lập giữa không gian mênh mông cao rộng với bé mongỏ. nỗi buồn không hoàn toàn vô cớ đó là nỗi buồn thương về kiếp người cuộc đời về quê hương đất nước. nỗi buồn gắn với quan niệm thẩm mĩ của các nhà thơ mới cái đẹp sánh đôi với cái buồn. Đó cũng là nỗi buồn của thế hệ thanh niên mà trong thơ của huy cận thường đem nỗi buồn vào vũ trụ bao la. bài thơ còn là sự kết hợp hài hào giữa yếu tố cổ điển và hiện đại với các nghệ thuật thất ngôn trường thiên, phép đối ngẫu, thi tứ, bút pháp tả cảnh ngụ tình lấy điểm tả diện đã làm nổi bật khổ cuối của bài thơ.

      tuy chỉ là một khổ thơ nhưng khổ thơ cuối lại ro ý nghĩa vông quan quan trrong trong việc bộc lộ tâm Trạng của huy cận khi ứng trên quê hương ngắm nhìn cả bồi hồi xúc động từ đó bộ lộ tình yêu thiên nhiên yêu quê hương kín đáo mà cũng tha thiết của tác giả.

      khi ta phân tích khổ thơ cuối bài tràng giangg dường như nó giúp khơi gợi trong chúng ta tình yêu trọng những gì đang có.

      bai văn mẫu 3

      nhà thơ huy cậncc rất nhiều bài thơ there is myêu tả về cảnh thiên nhiên, tình yêu quê hương ất nước, nỗi nhớ nhà Trong đó nổi bật nhất lài bài thơ “tràng” tràng “pHong trào thơ trong bài thơ ” tràng giang ” khổ thơ cuối của bài thơ khổ thơ này đã thể hiện tâm trạng buồn, cô đơn, bơ vơ của tác giả khi nhớ:</

      “lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,lòng quê dợn dợn vời non nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

      huy cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

      lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

      tac giả đã dùng những từ lay “lớp lớp” ở đy ể ể miêu tả rõ hình ảnh của những đám mây nhiều từng lớp từng tơy thù ớ ớ đ đ đ đ đ đ đ đ đ ớ ớ ớ ớ ớ đ đ đ đ đ đ bạc “nhà thơ đã dùng biện phap so sánh ẩn dụ và bút phap chấm phar lại càng thi vị hơn khi nó ược khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ ường cổa ỗ ỗ ỗ ỗ ỗ:

      “mặt ất mây đùn cửa ải xa” ể ể tô thêm vẻ ẹp thiên nhiên hùng vĩ tac giả đã so sánh màu của những đám mây với “bạc” một cach sanh tình ộng ộng từ động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi thành núi bạc. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. và nét hiện đại càng bộc lộ rõ ​​​​hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau.

      dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bong chiều. trời mây thì bao la, rộng lớn như vậy còn chim thì chao nghiêng nhưng ở đây không phải là chao nghiêng một cách bình thường mà “chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”:chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi ược thời gian bởi nó sử dụng “canh chim” và “bong chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ ể ả Hoàng Hôn Trong Thơ Cổ đn ẽn. về tổ ấm của mình để tránh được cái “bong chiều sa”.

      dường như những cánh chim đó đang bị đè nặng của cảnh xế chiều buông xuống và điều đặc biệt hơn là cánh chim không bình thường mà chim nghiêng bỏi đôi cánh nhỏ bằng đôi cánh nhỏ của mình chim bay về tổ ấm của mình để tránh được một không gian rộng lớn buổi chiều tà. chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bong chiều tà đang đè nặng xuống mình? nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp net tâm trạng hiện đại:

      lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      “lòng quê dợn dợn vời non nước” lòng quê ở đy muei nói lên nỗi nhớ quê hương của nhà thơ, sựng tâm chứ không chỉn thuần là tấm lòt chất phac, burns. hai từ “dợn dợn” cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy?

      “dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của huy cận, chưa từng thấy trước đó. từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. hai từ “dợn dợn” còn gợi cho ta thấy ược sự lên xuống uốn lượn của song biển there are nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi ứng trước cảnh hoang vắng của một buổi chiều ều ều ều ều ều ều ều ều ều ề và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiều lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dợn dợn” mà chưa phải là. câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả sông nước. hay trong truyện kiều cũng ả nỗi nhớ nhà nhưng lại chưa biết đâu là nhà khi:

      “bốn phương mây trắng một màutrông vời cố quốc biết đâu là nhà”

      kiều nhớ quê nhà nhưng bốn pHương ều là một màu làm sao ể nhận ra ược đu là nhà nen trong cudc sống của cô như thì sẽ biết về đ â à ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ bởi từ” mây trắng “, cánh chim chiều và được tác giả nhấn mạnh ở từ” with nước’. tác giả kết thúc bài thơ một cách nhẹ nhàng nhưng sâu lắng:

      “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

      nhà thơ đã mượn từ “khói” Trong thơ của nhà thôi hiệu ể nói lên nỗi lòng của mình, nếu như nhà thơ hiệu nói “trên sông khói song choc chu bom cậng cậhng c cậng c. “khói” nhưng he vẫn nhớ về nhà hay cái nôi mà mình đã nuôi ta trưởng thành. nhà thơ tô hiệu mới nói lên nỗi nhớ nhà một cách chung nhưng ở đy nhà thơ huy cận đã khẳng ịnh “không khói ho sin.

      xưa kia nhà thơ thôi hiệu buồn vì cõi tiên mù mịt, quê nhà cách xa, khói sóng trên sông gợi cho tác giả thấy mờ mịt mà sầu. NHưNG NAY HUY CậN BUồN TRướC CảNH KHôNG GIAN HOANG VắNG, SONG “GợN TRàng giang” Khiến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ấm ap vá là tổm hạnh ối ôi ô thôi hiệu tìm giấc mơ tiên chỉ thấy hư vô, đó là lòng khát khao một cõi quê hương thực tại còn huy cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình, hoang vắng lòng ông lại muốn được trở về với quê hương mang nặng tình thương và mang lại sự ấm áp cho tác giả đó cũng là nỗi khát vọng của ông.

      bằng những biện pháp so sánh và sự tài tình miêu tả của nhà thơ đã thể hiện rõ nỗi buồn, nỗi nhớ nhung quê hƺơtác gi nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

      bai văn mẫu 4

      huy cận nhà thơ xuất chúng của phong trào thơ mới, thơ của ông mang nhiều tâm trạng, nỗi buồn của chính thi nhân và nỗi sầu th nhâ. Đoạn cuối của bài thơ tràng giang là một trong số đó.

      lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

      lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      hai câu thơ cuối thể hiện nỗi nhớ quê hương diết, “dợn” là từ lay chưa từng xuất hiện trước đó, từ blue

      “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” khói là chất xúc tác quan trọng gợi nhớ đến quê hương, tác giả khẳng định rằng đâu cần những thứ xúc tác, không cần những khung cảnh bóng chiều tà mới nhớ nhà, tình yêu và nỗi nhớ thương quê hương luôn trong sâu thẳm tâm hồn của thi nhân.

      bài thơ tràng giang không chỉ thể hiện cảm giác buồn there are nhớ thương quê hương thông thường, mà còn thể hiện ược tâm trạng lúc bây giờ đó là nỗi đtt củ

      bai văn mẫu 5

      huy cận thơ của ông mang nhiều nỗi buồn cảnh vật và thế sự. nỗi buồn đó về những with người, kiếp người và về quê hương đất nước. bài thơ tràng giang chính là nơi tác giả bài thơ nhiều tình cảm của bản thân với quê hương, đất nước. Đặc biệt trong khổ cuối thể hiện nỗi sầu của thi nhân và nhân thế.

      trong ba khổ ầu, tac giả dùng biện phap tả cảnh ngụ tình ể ể mô tả những with người nhỏ nhoi, thấp cổ bé họng thì trong khổ cuối, ông đã hòg sực n. quê lên tầng thiên nhiên cao, rộng lớn hơn nhiều: lớp lớp mây cao đùn núi bạc

      một câu thơ tưởng như đơn giản nhưng khiến người đọc choáng ngợp bởi hình ảnh núi mây. từ láy lớp lớp khiến cho chúng ta có cảm giác mây như dày, tầng lớp và núi mây có màu bàng bạc, huyền ảo. huy cận còn lấy cảm hứng từ trong thơ Đỗ phủ vào bài thơ.

      các cụm từ đùn và lớp lớp khiến không gian như rộng và cao hơn rất nhiều. Điều này khiến nhân vật trữ tình đã cô độc nay lại còn nhỏ nhoi trước thiên nhiên. hình ảnh no mây huy cận còn khiến ộc giả có sự liên tưởng về nỗi buồn trong lòng huy cận xếp chồng lớp lên nhau đó là tâm trạng sầu thảm c chính tát.

      giữa không gian thiên nhiên bao la, rộng lớn còn có cánh chim nhỏ bé: chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. thơ huy cận cánh chim không thật sự tĩnh lặng mà nó đang đập cánh chao nghiêng trong một không gian thiên nhiên vô tận.

      hai câu thơ cuối huy cận cảm thấy cô độc, lẻ loi và nhớ nhà da diết:

      lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

      dợn dợn từ ngữ chỉ có trong thơ của huy cận, ông lại sáng tạo ra một từ láy riêng cho minh. hai thanh nặng như là nỗi buồn của tác giả vào hố sâu tuyệt vọng. từ dợn dợn tựa như những with sóng dợn buồn trong lòng nhà thơ huy cận.

      câu thơ cuối của tràng giang dựa trên nền thơ của thôi hiệu trong hoàng hạc lâu: trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. thôi hiệu nhìn khói sóng mà nhớ quê còn huy cận lại phát triển thêm ý thơ đó là “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”, đối với ông tình yêu quê hương, đất nước trong lòng ông lúc nào cũng có sẵn mà không cần một thứ xúc tác nào khác.

      trong tràng giang khổ thơ cuối đặc biệt với sự u ám và thể hiện nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương của chính tác giả. qua bài thơ tác giả entre muốn cuộc sống này trở nên ý nghĩa và tốt đẹp.

      bai văn mẫu 6

      huy cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ pháp, giọng thơ ảo não. thơ huy cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng chung của cả thế hệ một dân tộc.

      bài thơ “tràng giang” ược trích từ tập “lửa thiêng” thể hiện một nỗi buồn côn ơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ kernel hương trong cảnh Howng Hôn Trước Tràng Giang.

      khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi sông tr

      “lớp lớp mây cao đùn núi bạc….không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

      đy là khổ thơ kết tinh của làng quê “dợn dợn vời con nước” của huy cận, của một tấm lòng sâu lắng thiết tha vớ ới Ự

      hai câu đầu là một bức tranh nhiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ:

      “lớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

      cach cảm nhận của nhà thơt sức tinh tếo nên những nét vẽ hoành tráng của thiên nhiên buổi chiều: “lớp lớp mâông xếp lên nhau thành num num. hai câu thơ của Đỗ phủ:

      “lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmmặt đất mây đùn cửa ải xa”

      một cánh chim nhỏ xuất hiện trong câu thơ gợi ấn tượng về sự cô đơn, bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp ộr cho ng .không gian cà. một cách cảm nhận vừa gần gũi, vừa tinh tế. hình ảnh bóng chiều như jue lại sa xuống từ cánh chim:

      “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”

      trước không gian vô tận ấy, tâm trạng nhà thơ là nỗi nhớ nhà:

      “lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

      Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của thôi hiệu phảng phất ở đây:

      nhật mộ hương quan hà xứ thịyên ba giang thượng sử nhân sầu.

      thế nhưng thôi hiệu phải có “khói sóng” mới “buồn lòng ai”. còn nhà thơ của chúng ta “không khói hoàng hôn” mà “lòng quê” vẫn “dợn dợn vời con nước”! từ láy “dợn dợn” và từ “vời” khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng!

      chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, huy cận đã trải lòng minh trên từng trang thơ để thể hiện tình yêu quê hương, đất nướp>

      bai văn mẫu 7

      mỗi khi trở vềi pHong trào thơ mới, cùng với hàng loạt các tên tổi lớn như: hàn mặc tử, chế lan viên, nguyễn bính, chung ta không không kể ến hhận ca đa sầu đa cảm này. Hoài Thanh đã Từng đánh Giá: “Huy cận cùng xuân diệu đã làm nên xóm thơ huy xuân” và nếu như xuân diệu là thơ mới nhất của ca thức thờ ề ủ ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả vô cùng tinh tế về không gian. chính vì vậy, thi sĩ hướng ngòi bút của mình về với vũ trụ bao la, với sông dài, trời rộng. tất cả mạch cảm xúc và pHong cach nghệ thuật trên ều ược thể hi hi sinn ộng qua bài tràng giang rút ra từp tập thơ nổi tiếang thể nổi tiếang thể. khổ thơ cuối được coi là khổ thơ sâu lắng, tha thiết nhất trong trường buồn tràng giang.

      nếu như trong ba khổ thơ ầu, tâm trạng buồn – “nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm ra lối như kéo dài triền myên” đến khổ thơ cuối, tâm trạng ấy được mở lên cao lan tỏa trong không gian hoàng hôn của buổi chiều tàn:

      lớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa

      thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng”. Đó là lời tự tình của tác giả về hai câu thơ này! thật vậy, không có gì vui và rạo rực bằng lúc bình minh, nhưng không gì buồn tan tác bằng buổi ngày tàn, khi bong chiều đang sa sầm lại. NHưNG Chineh lúc ấy, Trong Thơ Huy Cận, NơI Tràng Giang Lại Vang Lên Vẻ ẹP TRANG Lệ VớI LớP LớP NHữNG TầNG Mây HợP Thành NUMN MâY KHổNG Lồ ượC NHữNG VạNG VạT NắT Đó là cảnh thực, song cũng là một hình ảnh nghệ thuật đẹp tuyệt diệu. Viết ược Hình Tượng Num Bạc, Huy Cận Phải Có Một Sựmm Nhận Vẻ ẹp tinh tế và đó pHải là một hồn thơ yêu quê hương ất nước ằm thắm. hình ảnh núi bạc ấy sinh động hơn, có hồn hơn, hùng vĩ hơn qua động từ “đùn”. “mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những bup bông trắng nở ra trên trời cao, ánh chiều khi vụt tắt rạng lẻ đ”. nhà thơ đã từng tâm sự ông học được chữ “đùn” trong bài thơ dịch của Đỗ phủ:

      lưng gợn sóng gợn lòng sông thẳmmặt đất mây đùn cửa ải xa.

      trong suốt bài tràng giang, hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ; Trôi nổi, lạc loài, vô ịnh, như cành củi, đám bèo dạt … và tới khổ thơ cuối, hình ảnh thi nhân, nỗi buồn thân lại thn tho -hi, một hình ảnh ảnh ả Đó là một cánh chim nhỏ nhoi, cánh chim đang chờ nặng bóng chiều, nghiêng cánh có bay về chân trời xa vắng. Trong Thơ cổ điển cũng như hiện ại, chỉ riêng việc khắc họa hình ảnh một canh chim lẻ loi đã gợi nên một cai gì cô ơnn, tội nghiệp, gợi nên cai bồng.

      trong thơ huy cận, đó lại là một cánh chim “nghiêng cánh nhỏ” và đang chờ nặng bóng chiều sa cứ xa mờ dần ối lập với hình ẹn vúng ản bhnh sự tương phản ấy khiến cảnh tràng giang đã mênh mông xa vắng lại càng mênh mông hơn, xa vắng hơn và tràng giang đã buồn lại càng hơn. hình ảnh cánh chim bay nghiêng trong buổi hoàng hôn là hình ảnh ước tư tưởng, tượng trưng trong thơ cổ điển. không gian ấỵ, cánh chim ấy đã từng là nơi bao thi nhân xưa thả những tâm tình tha thiết, thấm thía vào đó. và có lẽ nó còn là nơi để thi nhân muôn đời gửi gắm những nỗi niềm sâu kín. canh chim lẻ loi, cô ơn, lạc đàn nghiêng canh nhỏ trong tràng gianggg lại gợi cho ta nhớ tới tâm tưởng, nỗi buồn bơ v, trối trủa một người lữ thứ h qus ững ảng ảng ững ữ mỏi cố bay về nơi chân trời xa vắng để tìm một điểm dừng chân:

      ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi.(bà huyện thanh quan)

      hai câu thơ đầu của khổ thơ cuối rất hay. nếu như câu thơ “lớp lớp mây cao đùn no bạc” gợi nên cai cao, cai bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu tiếpteo “chim nghiêng canh nhỏ bong chiều saều” tình buồn nhớ của thi nhân. tâm trạng cô ơn cùng nỗi “sầu nhân thế” như ngưng ọng và không thể giải tỏa Trong không gian của “bong chiều sa” la, lặng lẽ

      lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      “dợn dợn” như một nốt nhạc kết thúc một bản nhạc buồn, nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng. “dợn dợn” diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơcc cảnh trời nước mênh mông trong từng khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê, cố hương:

      dừng chân đứng lại: trời, non, nướcmột mảnh tình riêng ta với ta.

      there are:

      what hương khuất bóng hoàng hôntrên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

      gợi nên từ tứ thơ ấy của thôi hiệu, hai câu thơ Đường:

      lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

      cũng là tấm “tình quê” của huy cận. nhưng đy là một tình quê tha thiết hơn, sâu nặng và ménh liệt h, bởi tấm “tình quê” ấy ược toát lên trong một câu Thó vừa cổnển, I saw hi ệ ừ ở ổ ổ ổ ởn ởn ởn ởn ởn ởn ừn. cấu thơ Đường: hiện đại ở cách nói trái ngược với ý thôi hiệu, một cách nói mới mẻ, độc đáo của một hồn thƺy xưa kia, đứng trên lầu hoàng hạc, thôi hiệu nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên sông mà lòng nhớ, tình quê thổn thức. nhưng nay huy cận không cần cai mờ ảo của khói song tac ộng vào thị giác, Thính giac, cũng không cần cai lạnh thấm vào da thịt, không cần thứ vốn vố rõ ràng tâm trạng của huy cận sâu lắng hơn, mãnh liệt hơn, nó luôn thường trực trong tâm hồn và luôn sẵn sàng tỏa ra, thấm vào vo v

      khổ thơ đã khep lại về tứ thơ, nhưng cai tình quê buồn thiết sâu lắng thì như kéo dội vọng mãi cai âm đuệu “dập dềnh” nhưg nước nước nước nước nước nước nước nước nước nước nước

      Đây là khổ thơ rất hay, hay ở sự kết hợp nhuần nhuyễn thơ cổ truyền với những nét hiện đại. “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. cảm hứng lời ề ề từ ấy dàn trải trong ba khổ thơ ầu ồ rồi hội tụ, kết tinh trong khổ thơ cuối – khổ thơcccc đt đt đt đt đt đt đt đt đt đt. giả.

      bai văn mẫu 8

      thơ của huy cận lại vô cùng hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lý. trước cách mạng, thơ của ông nhuốm đầy nỗi buồn mênh mang, da diết. nỗi buồn đó dường như vô cớ nhưng xét cho cùng, đấy lại là nỗi buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê ƺn. sau cách mạng, các tác phẩm của ông đã có sự hòa điệu giữa con người và thiên nhiên.

      khi viết về ông, các tác giả trong cuốn thi nhân việt nam có viết:có người muốn làm thơ phải tìm những cảnh nên thơ. huy cận không thế. nguồn thơ đã sẵn trong lòng thời thi nhân không cần có nhiều chuyện. thật vậy, các tác phẩm của huy cận dường như đã được ông giấu hết tâm tư, suy nghĩ, tình cảm của mình vào thiên nhiên, hòa quyện nỗi lòng của mình với trời mây sông nước, tiêu biểu là thi phẩm tràng giang – đặc biệt là ở khổ 4.

      nếu như trong ba khổ ầu, huy cận đã sửng biện phap tả cảnh ngụ tình ể ưa những kiếp người bất hạnh, thấp cổ bé họng vào bài theơ thơ ngườt hạt hạt, thất thất thất thất thất Thn thì giờ đy, ở khổ cuối, ông đã “ặt” một phần của sự cô ộc c c cuar bạc

      một câu thơ chỉ với bảy chữ thôi mà đã mởr trước mắt người ọc một cảnh tượng vônng hùng vĩ, Tráng lệng cũng có phyn khiến ta bất giác phphphphphphphph Chải chải chải ảt. Thật ra, nii mây ở đy không co nghĩa là ni và mây mà nó chynh là một ngọn number lớn, sừng sững do thiên nhii tạo bằng cach gom những đám mây lại nhi nhi nhi nhi nhi nhi nhi nhi nhi nhi bằng cách gom những đám mây lại nhi nhi tạo bằng cách gom những đam mây lại nhi nhi nhau.

      từ lay lớp lớp đã gop pHần tạo cảm giác mây như dày ặc hơn, nhiều tầng lớp hơn khiến choc number tả vô cùng cao, được huy cận lấy cảm hứng ừ ý thė></

      lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmmặt đất mây đùn cửa ải xa.

      sự kết hợp khéo léo giữa hai cụm từ đùn và lớp lớp không chỉ làm không gian như ược mở rộng hơn, cao hơn, ộu chàn hơn và. mà nó còn khiến nhân vật trữ tình đã nhỏ bé, cô độc lại càng bé nhỏ hơn biết nhường nào! Ngoài ra, hình ảnh no mây của huy cận còn gợi rach ọc giả một sự liên tưởng: liệu có pHải tac giả đ m mượn hình ảnh những đá sầu thảm cùng nỗ

      giữa không gian bao la, rộng lớn và tưởng chừng như yên ắng ấy lại đột nhiên xuất hiện một cánh chim nhỏ bé. thoạt đầu, cánh chim nhỏ này xuất hiện như chỉ để tô điểm thêm cho sự hùng vĩ, kì ảo của cảnh sắc thiên nhiên. Đối lập với sự kì vĩ là cánh chim ấy lại nhỏ nhoi và cô độc đến độ: chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

      hình ảnh cánh chim xuất hiện trong thơ văn việt nam nói riêng và phương Đông nói chung là không hề xa lạ. ví như, hình ảnh cánh chim trong thơ cổ thời Đường bay về chốn vô tận, vô định gợi cảm giác xa xăm, phiêu dạt, chia lìa:

      chúng điểu cao phi tận – lý bạchthiên sơn điểu phi tuyệt – liễu tông nguyên

      hay cánh chim bay mỏi mệt vì nhớ quê hương trong thơ của bà huyện thanh quan:

      ngàn mai gió cuốn, chim bay mỏidặm liễu sương sa, khách bước dồn

      và kể cả cánh chim xuất hiện trong thơ của chế lan viên- một nhà thơ cùng thời với huy cận cũng có viết:

      bye oi! mong nhớ! Ôi mong nhớ!một cánh chim Thurs lạc cuối ngàn.

      mặc dù vậy, ta có thể dễ dàng nhận thấy được sự khác biệt của cánh chim

      trong thơ huy cận so với cánh chim trong thơ của các nhà thơ khác. cánh chim trong thơ của huy cận không hoàn toàn tĩnh lặng, dường như ta cảm thấy ược cánh chim ấy đang ập cánh chao nghiêng giữa mộl ộn bakhông gian.

      nhưng sự chao nghiêng này lại không toát lên được nét phóng túng của một cánh chim tự do. chú chim nhỏ nghiêng đôi cánh kéo bóng chiều cùng chú sa xuống bao phủ, chiếm đóng cả một bầu trời rộng lớn hay lại là chiếc bÓng bóng

      tâm trạng của huy cận lúc bấy giờ cũng vậy. có lẽ ông sẽ cảm thấy hoang mang lắm, bơ vơ lắm, lẻ loi và đơn độc lắm. vào những giây phút quyết định đó, huy cận đã tìm được câu trả lời cho riêng mình:

      lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

      hoài thanh, hoài chân có viết trong cuốn thi nhân việt nam: huy cận đi lượm lặt những chút buồn rơi rác rồi để sáng tạo nên thão. người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi bình thường thi nhân lại có thể đúc thành bao nhiêu châu ng.

      thật vậy, chỉ với hình tượng ối lập giữa sự nhỏ bé, ơn ộc của một canh chim và sự bao la, rộng lớn của không gian, cũng ủ ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể một nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương vô cùng mãnh liệt. cảm xúc ấy cứ cồn cào và day dứt trong lòng thi sĩ từng đợt từng đợt như gợn sóng trong lòng ông.

      dợn dợn – cách sử dụng từ ngữ vô cùng khéo và linh hoạt ến lạ thường! thay vì dùng dờn dợn, ông lại sáng tạo ra một từ láy mới cho riênh: dợn. liệu có phải với hai thanh nặng đã kéo nỗi buồn của ông rơi vào hố sâu tuyệt vọng – nỗi tuyệt vọng trước cảnh nướn mấ tant. từ dợn dợn ấy vừa tả những con sóng gợn trên mặt nước lại còn vừa ám chỉ những con sóng gợn trong lòng nhà thơ. bởi lẽ đó có người nói về tràng giang quả thật không sai. là tràng giang, khổ nào cũng dập dềnh sóng nước. là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.

      câu thơ cuối cùng trong khổ bốn của tràng giang được huy cận dựa trên nền thơ của thôi hiệu trong hoàng hạc lâu: trên sông khóión bg. mặc dù lấy ý từ thơ của thôi hiệu nhưng huy cận lại có sự phat triển hơn trước: người xưa chỉ ến khi nhìn thấy khói trắng mới nhớ ến nhà; Còn huy cận với tình yêu quê hương, ất nước sâu nặng, tình cảm ấy trong ông cứ dạt dào, trào dâng ngày một nhiều thêm mà chẳng cần ến bất chất chất thác n atte n.

      khổ thơ cuối của bài tràng giang không chỉ là nỗi buồn, nỗi nhớ quê hương da diết của nhà thơ mà nó còn chất chứt một sự khát khao, hi vọng vềt cuc sộc sộc sộc sộng sộng sộng t ẹt sựt sựt sựt s sộc sộng t t ttnh, hi vọng vềt cuc sộc sộng t, hẹt. . xuân diệu đã từng nhận xét về thơ huy cận: thơ huy cận dường như ngầm chất chứa cái lớp sầu dưới đáy hồn

      ân

      bai văn mẫu 9

      ai đó đã từng nhận xét như này về thơ huy cận: rằng, thơ ông không phải là rượu đã rót vào chén mà là men ược lên, kh. phải chăng muốn nói đến sức sống cũng như sức gợi của sự hàm súc, cô đọng trong cách dùng từ đặt câu của thi nhân. khổ thơ 4 bài tràng giang có thể xem là chuẩn mực cho nhận định ấy.

      “lớp lớp mây cao đùn núi bạc…chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều salòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

      thế giới thiên nhiên được huy cận tạo ra bao giờ cũng là một không gian hùng vĩ rợn ngợp và gợi buồn. Mà như Hoài Thanh đã Nói, rằng “tưởng như huy cận đã lượm lặt hết những chút buồn rơi rải rác ểể viết những vần thơ âu sầu ảo não như thế”. vừa bước vào thế giới thơ, ta đã bắt gặp ngay hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ mà thấm màu buồn đã ược phác lên lên lên phôn cứ c. lớp lớp, mây cao và núi bạc. những chất liệu rất quen thuộc trong thơ cổ điển, ược huy cận sử dụng, nhưng cai mới ở đây chynh là cach nhà thơt hợp, nhào nặn chúsg bằng tư duy thủ ạt. vậy cho nên, huy cận tập cổ mà không nệ cổ. hình ảnh trong câu thơ này gợi cho ta nhớ đến dáng dấp của một câu thơ trong thơ Đỗ phủ:

      “mặt đất mây đùn cửa ải xa”

      Đều là cách diễn đạt gợi nên không gian buổi chiều, buổi hoàng hôn đẹp mà buồn nhưng diễm lệ, mờ ảo. cũng đồng thời, gợi nên chất hùng vĩ nét khoáng đạt của cảnh vật. Để tiếp tục câu thơ sau, là nghệ thuật đối rất chỉnh của thi nhân:

      “chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”

      cánh chim nghiêng như đã đỡ cả buổi hoàng hôn rực rỡ trên đôi cánh nhỏ bé của mình, như đang mang trong nó cả cái lồng lộù ộ va chig h. vẫn là sự thủ phap ối lập quen thuộc trong thơ cổ, canh chim nhỏ nhoi, ơn ộc giữa chân trời của nó và ối lập là hình ảnh thiên nhiên, là bong nm nm ngợnp. Điều đó tạo cảm giác mới mẻ trong cảm nhận cho người đọc. dấu hai chấm chính là dụng ý nghệ thuật mà huy cận đặt vào dòng thơ. TưởNG NHư KHông Chỉ Trong Cảm GIÁC, Mà Cả Trong Dòng chảy của nghệ thuật đang tiếp diễn trên trang giấy, thì canh chim ơn côi và cô ơn ấy cũng đang đng gánh và và mag và mag và mag và mag và mag nộn

      Đứng trước không gian rộng lớn ấy, nhân vật trữ tình chảy tràn những xúc cảm bồi hồi về quê hương:

      “lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

      từ “dợn dợn” thực sự là điểm mấu chốt ểể ta thấy Bút thơ tài hoa của huy cận, vừa gợi ược cai cồn cào khắc khoải trong lòng người, vừa cho cho sự sự sự khắc khoải, đau đáu của một kẻ đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương. câu thơ cuối, là một chỉ dấu để ta hiểu hơn về cảm giác của nhân vật trữ tình. rằng dẫu không cần một điểm tựa, điểm gợi ến từ khói trắng của chiều tà, của hoàng hôn thì trong lòng nhân vật trữ tình vẫn dấy lên ni niềm the the Đây là cảm giác trống vắng, thiếu thốn bất định của cái tôi thơ mới thời kì bấy giờ. nhưng ồng thời cũng ặt rach ta một câu hỏi, phải chăng giữa with người và cảnh vật, with người và with người nơi đy không còn sự gắn kết, cho nêi m mớm ạm ạm ạm ạm ạm ạm ạm ạm ạm ạm ạm . Nó phải chăng là một sự ứt gãy có tínnh phổ quát và sự gắn kết trong xã hội, cũng ồng thời là sự biến mất của những giá trị Tryng và thay và và và tđón đ >

      khổ 4 cuối là khổ thơ ặ ặc sắc, nắm giữ hồn cốt thơ huy cận, và cho ta there, nỗi buồn sầu ảo não trong thơ ông, còn là nỗi buồn của một hồn thơ luôn tha ông, n n n. hương của mình.

      bai văn mẫu 10

      ọc những vần thơ, những bài thơ của tố hữu, chung ta như cảm nhận ược một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trai Tim v ớng t, v ớnhn. dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.

      “dù ai thay ngựa giữa dòngĐời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đivẫn là ta đó những khiĐầu voi ra trận cứu nguy giống nòi”

      Bao Trùm lên toàn bộ sáng tac thơ của tố hữu là vì lý tưởng cach mạng, vìc cup ấu tranh giành ộc lập dân tộc, tự do và hạnh phc cho nhân, vì, vìng. lẽ phải trên ời .. và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ tốu là tính hướng thiện ược biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, ậm đ qa cậ ổ ổ ổ ổ ổ ổ từệệệt, từtệệệệt, từệệệt, từệệệt, từệệệt, từệệệ. , ra trận, gió lộng,…

      bài thơ “từ ấy” được tố hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. có thể nói “từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước việt nam giác ngộ lí tưởng mác lênin trong ngày hội lớn của cách m:

      từ ấy trong tôi bừng nắng hạmặt trời chân lí chói qua timhồn tôi là một vườn hoa lárất đậm hương và rộn tiếng chim

      “từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tac ộng ến cuộc ời nhà thơ khi ược giác ngộ chủ nghĩa mác – lênin, một kỷ niệm sâu sắc củc củc củc củc củc . trong buổi ban ầu ấy, những người Thanh niên như tố hữu dùco nhiệt huyết nhưng vẫn chưa tìm ược ường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở lẽ yêu đời”. Chynh Trong Hoàn Cảnh đó lí tưởng cộng sản nhưng hạ, như mặt trời xua tan đi những u Ám, buồn đau, queet sạch mù và đen tủi hướng ến cho Thanh n Niên một dan tộc.

      /poto/////polloy////pullo allo.

      “từ ấy trong tôi bừng nắng hạmặt trời chân lí chói qua tim”

      từ and đã làm cho tâm hồn tố hữu “bừng nắng hạ” được niềm vui sướng của tố hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.

      “Đời đen tối ta phải tìm ánh sángta đi tới chỉ một đường cách mạng”

      và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều k

      “mặt trời chân lí chói qua tim”

      mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng, của cách mạng , mặt trời cãa chủ x hęi. tố hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tưchởng ca. bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chynh là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hài hòa giữa tâm lí và ý thưởc tu tuệc sự hành ộng đúng khng lag lag. rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.

      lý tưởng cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. so sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng cách mạng đem lại:

      hồn tôi là một vườn hoa lá,rất đậm hương và rộn tiếng chim.

      cai giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cai Say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà li đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đ hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Ở đây hiện thực và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *