Top 11 bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay chọn lọc

Phân tích đây thôn vĩ dạ

Trong bài viết này chúng tôi sẽ giúp các bạn tìm hiểu thông tin và kiến thức về Phân tích đây thôn vĩ dạ hay nhất được tổng hợp bởi mvatoi.com.vn

Phân tích bài thơ Làng Vida —— Phân tích đoạn thơ Làng Vida, cảm nhận bức tranh thiên nhiên tươi đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế và tâm hồn ở Làng Vida. Hồn thơ Hanmo lãng mạn đong đầy yêu thương giúp người đọc hiểu hơn về ý tứ, tâm tư của tác giả gửi gắm trong những vần thơ.

  • Một mẫu gồm 8 bài thơ hay của Xiaochun
  • Top 7 bài văn mẫu phân tích bài thơ về đồng tính nam hay nhất
  • Phân tích Đây là Làng Vida tốt nhất. Có thể nói Làng này là một trong những bài thơ hay nhất của nhà thơ Hàn Mưu. Hoàn cảnh của bài thơ “Làng Vida” cũng rất đặc biệt. Bài thơ được viết trong lúc tác giả đang điều trị tại trại phong ở Quy Nhơn. Qua bài thơ này, tác giả đã khắc họa hình ảnh đẹp của vùng quê xứ Huế và thể hiện tình yêu của nhà thơ. Trong bài viết này hoatieu xin chia sẻ và phân tích dàn ý bài Vida ở đây, phân tích bài Vida ngắn nhất ở làng này, phân tích 2 đoạn đầu bài Vida ở làng này … Sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích để các bạn củng cố. Làm bài kiểm tra khi bạn cố gắng bổ sung từ vựng.

    1. Phân tích sơ lược ngôi làng này là Vida

    Tôi. Mở

    – Giới thiệu về tác giả

    -Giới thiệu bài thơ ở đây là Làng Vida

    Hai. Nội dung bài đăng

    1. Phân tích câu 1: Bức tranh đẹp về cảnh vật và con người xứ Huế.

    – Hình ảnh được thể hiện qua lời mời kèm theo lời quở trách thân mật:

    Tại sao bạn không trở lại và chơi trong làng?

    – Khung cảnh được thể hiện bằng màu xanh lục bảo trong ánh ban mai trong veo qua một số bản phác thảo mềm mại, trang nhã, ấn tượng.

    – Cuối cùng, kiểu chữ vuông tạo thành một nét tương phản độc đáo với những hàng tre lá nằm ngang, nó làm nổi bật nét nghịch ngợm, hiền lành và đáng yêu vốn có của vùng quê.

    2. Phân tích mục 2: Tình huống buồn của suy tư.

    – Cảnh đẹp và thơ mộng nhưng lại phảng phất nỗi buồn của một cảm giác chia ly trong một thể thơ độc đáo: gió cuốn theo gió / mây bay theo mây. Dòng sông như một tấm gương, ghi lại bức tranh chia ly ấy, thật buồn, hoa ngô đang than khóc, chia sẻ với tâm trạng của nhà thơ.

    – Trăng chiếm một phần đáng kể trong bài thơ, ánh trăng thật lạ và khác thường. Chúng ta gặp nhau trong thơ anh, ảnh:

    Mặt trăng nằm trên cành dương liễu

    Chờ gió đông về rồi thảnh thơi

    (ngại ngùng)

    – Trung lập: “Thuyền của ai?”, rồi “Bến sông trăng”. Quả thật, như lời của ông Hãn Thanh viết trong “Thi nhân Việt Nam”: “Vườn thơ của con người rộng mênh mông vô biên, càng đi càng lạnh”.

    3. Phân tích đoạn cuối: cảnh và nhân vật chìm sâu trong mộng ảo.

    – Lòng nhà thơ dường như đang ở trạng thái mộng mơ (mộng khách phương xa). Bệnh tật cũng đẩy nhà thơ vào trạng thái đau buồn và ảo giác (hình ảnh mờ ảo, mờ ảo). Vì vậy, con người và cảnh vật như nhòe đi trong nỗi cô đơn, ngậm ngùi.

    ——Trong giấc mơ cô đơn, buồn đau, nhưng lòng nhà thơ vẫn thầm muốn nhắn gửi con người và cuộc đời, như một lời tâm sự tội nghiệp:

    Ai biết được tình yêu của ai dồi dào?

    – Chúng tôi không thể xác định bài thơ này thể hiện lòng yêu nước của Han Maitu ở mức độ nào. Tuy nhiên, điều chắc chắn là Han Maitu rất yêu đời và yêu quê hương đất nước. Chúng tôi cũng không ngờ trong tập thơ “Thằng điên” lại có những vần thơ đậm chất hoài cổ như thế.

    Ba. kết thúc

    Sơ lược về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm

    2. Phân tích Đây là Làng Vida – Mẫu 1

    han mac tu – Một trái tim, một tâm hồn lãng mạn đầy yêu thương, thơ và biết khóc mở ra nghệ thuật trước cuộc đời. Khoảnh khắc của niềm vui và nỗi buồn, khoảnh khắc anh thả hồn vào thơ, khoảnh khắc anh rút tỉa và thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn và viết nên những vần thơ tuyệt vời. Và bài thơ “Làng Vida” này đã ra đời trong những khoảnh khắc đẹp đẽ ấy. Trong bài thơ tình yêu trong sáng, nồng nàn hòa nhập với thiên nhiên tươi đẹp, có yêu nhau thì bài thơ vẫn đượm một nỗi buồn.

    Ngôi làng này là một trong những bài thơ tình hay nhất của Han McTu. Một tình yêu nồng nàn, đầy u uất, ẩn hiện trong cảnh sắc thiên nhiên, lồng ghép vào lòng người, hòa quyện giữa thực và mơ, ảo và cụ thể. Đoạn thơ mở đầu bằng một lời trách móc nhẹ nhàng đối với nhân vật trữ tình.

    Sao bạn không về làng chơi. Chỉ một câu hỏi! Một câu hỏi của một cô gái quê mùa, nhưng đầy yêu thương và mong đợi. Bài thơ vừa là lời trách móc, vừa tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã lỡ đánh giá cao vẻ đẹp mặn mà, nồng hậu của vùng quê – một vùng quê ngoại ô đẹp và thơ mộng. Cảnh quan bên. Chúng ta hãy chú ý quan sát và thưởng thức vẻ đẹp của ngôi làng:

    Nhìn vào mặt trời, mặt trời sẽ sáng trở lại

    có khu vườn xanh như ngọc

    Lá tre che bề mặt văn bản.

    Nét độc đáo của làng vi – quê hương của người con gái được nói đến ở câu đầu đã được miêu tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ mở ra trước mắt người đọc. Hình ảnh mặt trời chiếu trên ngọn trầu đẹp rực rỡ. Nắng mới là nắng sớm trong ngày, những cây trầu cao vươn mình đón nắng sớm, chan hòa ánh bình minh. Sao nắng mới mang lại cảm giác quê hương đến thế. Bài thơ này làm ta chợt nhớ đến những dòng quen thuộc trong bài thơ xuân.

    Nắng xuân trong lành trên những trái dừa xanh mềm

    Thuyền trầu non soi gươm xanh

    Ánh sáng chơi với quả trắng non

    Tan trong lá của một nhánh chanh.

    Nắng mới cũng có nghĩa là nắng xuân, khởi đầu một năm mới nên nắng cháy mãi.

    Đó là tia nắng đầu tiên trên bản làng, còn trước những rặng trầu, giọt sương đêm đang nhỏ giọt lấp lánh như những viên ngọc trên tấm áo nhung xanh mỏng manh: khu vườn mượt mà như ngọc.

    Vẻ mặt dường như chạm nhẹ vào màu sắc của mọi thứ, và sau đó một sự ngạc nhiên bàng hoàng bùng lên. Đến với bài thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của nhà thơ được thu nhỏ và mở rộng về chiều rộng. Một khoảng xanh cho khu vườn hiện lên, nhắm mắt lại bạn sẽ hình dung ngay đến màu xanh mượt mà, màu mỡ của khu vườn. Chúng tôi không chỉ cảm nhận được màu xanh tươi đẹp mà còn tràn đầy sức sống.

    Những cành lá bị sương đêm gột rửa thành những chiếc lá ngọc. Không phải xanh mượt, không xanh dày, chỉ có màu xanh ngọc bích mới lột tả được vẻ đẹp và sức sống vô hạn của khu vườn. Màu xanh quý phái, lấp lánh, trong veo khiến khu vườn càng thêm lung linh.

    Dường như cả khu vườn được tắm mình trong bầu không khí rung động của sự trinh nguyên nguyên sơ không chút bụi bặm. Lăng kính không khí đó thể hiện rõ ràng hơn các vạch màu của cảnh mà mắt thường của chúng ta bỏ qua. Nếu không có tình yêu sâu đậm với Ngụy Đà, Han Maktu không thể có một bài thơ trong sáng như vậy. Ai sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, nhất là ở Huế, đều hiểu những câu ca dao này: Lá tre che mặt lấp ló chữ điền.

    Trong khu vườn Làng Vida, lá tre và mặt chữ điền có một mối quan hệ bất ngờ và đẹp đẽ như thế: lá tre mảnh mai che mặt phông. Khuôn mặt lấp ló – khuôn mặt ngày càng lấp ló sau lớp lá tre mơ màng, hư ảo.

    Làng Veda nằm cạnh sông Hương êm đềm. Vì vậy, tác giả đã chuyển từ tả cảnh thôn quê đầy tình cảm ở khổ thơ đầu sang tả cảnh sông nước u sầu, nhớ nhung, da diết như một giấc mơ:

    Gió cuốn theo đường đi của gió và mây

    Nước buồn, bắp rang lắc lư

    Thuyền của ai đã cập bến trên sông Mặt trăng đó

    Bạn có thể mang mặt trăng trở lại tối nay không?

    Gió và mây gợi nỗi buồn khi trôi và lang thang, giờ còn hơn gió theo gió, mây theo mây, gió và mây xa nhau; không thể làm bạn đồng hành, không thể gặp nhau, cuộc chia ly của nhà thơ và người yêu của anh ta có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là nỗi niềm của nhà thơ trước sự xa cách và nỗi nhớ, và đây cũng là nỗi niềm của người xưa trong cuộc đời.

    Nỗi buồn chia tay, tạm biệt mang nét bùi ngùi, bất đắc dĩ ám ảnh lòng người. Chúng ta không còn được gặp lại giọng văn tươi tắn, sôi nổi ở đoạn cuối, chúng ta gặp lại Han Maitu – một tâm hồn đa sầu đa cảm: nước buồn hoa lá đung đưa

    Thật đáng buồn biết bao khi Xianghe xuất hiện với những bông hoa ngô đồng xám xịt, kỳ lạ như một làn khói. Một tâm hồn hung dữ như Hàn Mai Tử, dòng sông lười của Huế cũng chỉ là dòng sông buồn, gợi cảm giác buồn bã, cô đơn. Những bông hoa ngô đồng cũng khẽ đung đưa trong nỗi buồn xa xăm. Thay đổi tình cảm là thái độ của con người đang sống trong một vòng đời u ám, bế tắc.

    Nước sông Hương êm đềm, gợi nhớ về những bến bờ xa xôi, với những mảnh đời trôi nổi của kiếp người. Tâm trạng vui – buồn mà buồn hơn, ta gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạn khác sống cùng đời Hán. Thơ buồn quá, hai câu sau tiếp tục nhưng với cách diễn đạt thì rất sôi động, rất thực mà lại là mơ:

    Thuyền của ai đã cập bến trên sông Mặt trăng đó

    Bạn có thể mang mặt trăng trở lại tối nay không?

    Mọi thứ dường như tan biến trong vầng trăng Han Motu quen thuộc. Cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, vầng trăng sáng soi bóng xuống dòng sông khiến phù sa sông nước lung linh một thứ ánh sáng thơ mộng. Cảnh thật thơ mộng, thật thơ mộng! Tình cảm lắm luôn! Nước buồn trở thành sông trăng lấp lánh, tàu khách trở thành tàu trăng.

    Tác giả gửi gắm những yêu thương, khao khát, khao khát vào con thuyền trăng và cả dòng sông trăng. Những vần thơ lồng vào đó là ngôn ngữ thơ thật tài tình, thật đẹp đẽ, và sự đồng điệu của những giấc mơ. Tác giả viết nên những vần thơ nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng chứa đựng một tình yêu bao la và rực lửa.

    Vầng trăng trong hai dòng thơ này là vầng trăng tròn vành vạnh trước tình yêu không bờ bến của nhà thơ. Hàn Mưu rất thích trăng, nhưng trăng trong các bài thơ khác thì không như vậy. Ánh trăng chói lọi, kỳ lạ, ánh trăng khiêu khích, phù phiếm:

    Gió thổi cao và trăng rơi

    Giả vờ tan chảy thành một vũng vàng.

    Hay:

    Mặt trăng nằm trên cành dương liễu

    Chờ gió đông đến thư thái.

    Mặt trăng biến thành hơi thở bao trùm tất cả cảm xúc và suy nghĩ của Han Motu, và nó trộn lẫn vào cơ thể anh. Ngài là trời đất và con người. Trăng trở thành vô lượng trong thơ anh, đôi khi vô hình, đôi khi mê hoặc, đôi khi đáng sợ:

    Thuyền của ai trên sông Trăng

    Bạn có thể giúp tôi mang mặt trăng trở lại không?

    Có phải trăng ở đây là một hạnh phúc và con thuyền không về kịp người trên bến? Câu hỏi này thể hiện sự lo lắng về một số phận không có tương lai. Han Motu hiểu được bệnh tình của mình, cảm thấy tội lỗi cho cuộc đời ngắn ngủi, trăng không về kịp, Han Motu không còn đợi được trăng hạnh phúc nữa, một năm sau từ biệt cõi đời. Nhưng bây giờ, mọi người sống và tiếp tục ước mơ:

    Mơ ước về khách hàng từ xa, khách hàng từ xa

    Áo sơ mi của tôi quá trắng để nhìn thấy;

    Ở đây có sương mù

    Ai biết được tình yêu của ai dồi dào?

    Niềm khao khát tình yêu trong trái tim anh và nỗi đau về tình yêu đó đều được ghi lại trong các bài thơ. Để rồi mọi thứ như trôi trong giấc mơ mộng mơ và hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu nắng của Vader, nhưng nhìn vào, tác giả thấy choáng ngợp và vui mừng khôn xiết trước sự trong trắng, thuần khiết và cao quý của người tình. Dường như có một khoảng cách nào đó giữa những mỹ nhân áo trắng ấy và nàng thơ khiến nhà thơ nghi ngờ:

    Ở đây có sương mù

    Ai biết được tình yêu của ai dồi dào?

    Câu này miêu tả cảnh thực ở Huế – lâu đài nghi ngút khói. Trong làn sương mù ấy, con người ta dường như đã phai nhạt, có lẽ tình yêu cũng đã phai nhạt? Thay vì tả cảnh đó, nhà thơ lại tả tâm trạng, trong bài thơ có rất nhiều cung bậc cảm xúc. Cô gái Huế kín tiếng, ẩn hiện trong sương, trở nên xa vắng, liệu có giàu tình yêu? Tác giả không rõ về tình cảm của người phụ nữ Huế mà chỉ nói: Ai biết tình ai giàu?

    Lời bài hát giống như lời nhắc nhở, không phải là tuyệt vọng hay hy vọng, chỉ là thất vọng. Nỗi thất vọng của một trái tim khao khát tình yêu, nếu không có tình yêu trọn vẹn thì sẽ không bao giờ là mãi mãi. Bài thơ càng hay càng đáng thương, dẫu đã khép lại lòng người vẫn xót xa. Cả bài thơ được kết nối bởi hai nhân vật: vườn ai xanh như ngọc; thuyền cập bến sông trăng, cuối cùng ai biết tình ai dạt dào? Khiến “Làng Veda Ở đây” trở nên khói lửa và huyền bí hơn.

    “Đây là Làng Vida”, qua trí tưởng tượng và tâm hồn giàu sức tưởng tượng của nhà thơ, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật khơi gợi để hòa quyện giữa thiên nhiên và lòng người, vẽ nên một bức tranh tuyệt đẹp. Sau bao nhiêu năm, tình yêu nguội lạnh vẫn luôn nóng bỏng, làm xao xuyến bao trái tim người đọc.

    Ảnh minh họa (Nguồn internet)

    3. Phân tích Đây là Làng Vida – Mẫu 2

    Khi đặt tên cho Phong trào Thơ mới, Du Laicui đã gọi nó là “một cây nấm lạ trên cây phả hệ của văn hóa dân tộc”. Có người biết đến “bông hoa tuyệt sắc” của thơ mới, có người không, nhưng chắc hẳn ai cũng biết đến “bông hoa tuyệt sắc” mà các thi sĩ Hàn khoác lên mình khi bước vào làng thơ.

    Những bài thơ điên cuồng đầy hồn, trăng và máu luôn ám ảnh tâm trí những ai yêu và đọc thơ Hàn. Nhưng không ai có thể ngờ rằng một loài hoa thuần khiết lại mọc lên trong một khu rừng thơ mộng bí ẩn và kỳ lạ như vậy, vẫn phảng phất hương thơm của sự sống. Loài hoa ấy có tên “Đây là làng Vida”, chất chứa bao cảm xúc và nỗi nhớ về một miền quê đã từng gắn bó …

    Bài thơ này chỉ có ba khổ nhưng là sự tích tụ của biết bao nỗi nhớ, biết bao khao khát, bao nỗi hoài nghi, tuyệt vọng. Bài thơ liên quan đến câu chuyện tình yêu giữa một nhà thơ và một cô gái Huế tên là Huang Ku. Trong những ngày đau khổ nhất, anh nhận được bức ảnh chụp dòng sông Huế vào một đêm trăng, và vài dòng thư của người con gái anh từng thầm thương trộm nhớ. Với bao cảm xúc tràn về từ nơi hành hương trong đầu tôi, những bài thánh vịnh hay nhất lấy cảm hứng từ xứ Huế mộng mơ bật ra trong nỗi nhớ …

    Bài thơ mở đầu bằng câu hỏi Giấc mơ Huế và bài thơ Huế đầy ý nghĩa. Không giống như hàng loạt câu hỏi tự vấn bản thân dày vò và đau đớn mà chúng tôi từng phải đối mặt:

    Tôi vẫn ở đây hoặc ở đâu đó

    Ai đã đưa tôi đến thiên đường

    Những bông hoa phượng hoàng đẫm máu

    Thả vào trái tim tôi?

    Câu hỏi đưa ra ở đây vừa là lời mời vừa là lời hỏi han, lời trách móc, câu cảm thán: “Sao anh không về làng chơi?”. Bạn đang hỏi về những cô gái Huế? Hay bạn muốn hỏi chính mình? Dù là gì đi chăng nữa, cái mà ta thấy ở đây trên hết vẫn là một sự nghiêm trang, một cảm xúc mà nhà thơ có được khi trở về miền đất ký ức, dù chỉ là trong tâm tưởng.

    Một câu thơ được chơi ở sáu ô nhịp bằng nhau và bay bổng ở ô nhịp cuối cùng cũng đủ để khơi gợi trong tâm trí người đọc những cảm xúc khó tả. Đó là “không về” không phải là “không về”, là “về chơi”, không phải là “thăm”. Nếu chúng ta đọc kỹ, suy nghĩ sâu sắc, chúng ta sẽ thấy một câu kinh thánh có nhiều ý tưởng.

    “Chưa quay lại” có nghĩa là tôi sẽ quay lại lần nữa, “ghé thăm” nghe có vẻ lạ. Hàn Lí đứng ở vị trí của một người con từng rất yêu Huế, viết câu thơ tiếp theo với những suy nghĩ của riêng mình. Hình ảnh một khu vườn thôn quê trang nghiêm hiện ra, lấp lánh màu xanh và lấp lánh:

    Nhìn vào mặt trời, mặt trời sẽ sáng trở lại

    có khu vườn xanh như ngọc

    Lá tre che mặt chữ

    Ấn tượng sâu sắc nhất về bài thơ này là không gian tràn ngập ánh sáng mặt trời. Đó không phải là “nắng” ở Mengyan, hay “nắng” bên bờ sông Trắng, nắng ở đây, “nắng mới”, không huyền ảo, không đậm, tinh khiết và đẹp đẽ, trong trẻo đến lạ lùng.

    Mặt trời chiếu vào cây trầu bà, cây trầu nhìn lên để hứng lấy ánh nắng dịu nhẹ, một khu vườn xanh tươi được rửa sạch bởi sương đêm, được tắm mình trong nắng mới sáng nay. Cái “êm ái” mà Hân gọi trong vườn, Hân ví như những “viên ngọc” của màu xanh, và chúng gợi lên nhiều sắc thái. Vừa gợi, vừa gợi, vừa lấp lánh, vừa trong sáng. Mọi người kinh ngạc khi thấy khung cảnh của một khu vườn làng mà họ từng biết nay đã trở nên rõ ràng một cách đáng kinh ngạc.

    Nhớ đến làng Ngụy cũng là nhớ đến những gương mặt khả ái của người dân nơi đây. Nhà thơ không tả, chỉ gợi, dùng từ cách điệu, nhà thơ cũng đủ khiến ta cảm nhận được cái chân chất, dịu dàng của con người xứ Huế, về cô gái Huế yêu kiều, mềm mại, thấp thoáng sau lũy tre như gương. Các phông chữ có rất nhiều màu sắc. Chúng ta thấy hình ảnh này trong câu thơ của bạch dương:

    Làng Ngụy Đà, Làng Đà

    Cây tre không buồn mà say.

    Nét vẽ thanh thoát, cảm nhận tinh tế, gợi lên một hồn thơ thánh thiện, sâu nặng tình yêu với mảnh đất quý giá này. Ta tìm đâu được tình yêu quê hương đất nước, đôi khi tình yêu bắt đầu bằng ấn tượng ngọt ngào bình dị này. Dữ kiện đã chứng minh rằng không chỉ Hoàng cung mà Trịnh Công Sơn là người viết về Huế. Hân cũng góp một số bài thơ thân thương và chân thành về Huế …

    Nhưng nhắc đến Huế, tôi lại quên mất rằng nơi đây đã trở thành điểm ngắm trăng đêm của tâm hồn tôi, chẳng phải là sơ suất sao? Nắm bắt được cái hồn riêng ấy, nhà thơ kéo tầm mắt người đọc sang một không gian khác, vờn mây gió, lặng lẽ theo dòng nước:

    Gió cuốn theo đường đi của gió và mây

    Những bông hoa ngô đồng buồn

    Một bức tranh vừa gợi nỗi buồn, vừa gợi nỗi sầu muộn. Gió thổi, mây nhàn nhạt, hoa ngô đồng khẽ đung đưa, phảng phất hương thơm. Các sắc thái khá giống nhau trong vài thập kỷ qua. Không khí trầm mặc của cố đô gợi nhớ đến nao lòng. Nhưng bạn hãy thử đọc kỹ và xem câu thơ này ẩn chứa bao nhiêu ý nghĩa.

    Quả thực, đây không chỉ là bức tranh bên ngoài, mà còn là bức tranh tâm trạng, giai điệu của tâm hồn. Chỉ cần nghe rõ điều nghịch lý trong kinh điển. Thường thì gió thổi mây bay, còn đây gió mây lại ngả nghiêng, như không thể đi chung một con đường. Khung cảnh nội tâm hóa và đầy sự chia cắt. Đến nỗi nỗi buồn được gọi thành một cái tên: “sầu bi”. Từ “sầu” đã tóm gọn nỗi buồn tê tái của con người. Hãy xem lại những câu ca dao xưa:

    Ai về ruộng dứa

    Gió lay cây lau sậy làm tôi buồn?

    Nhưng không biết là do nỗi buồn tràn ngập tâm hồn hay do không kiềm chế được vì không kiềm chế được mà ở hai câu thơ tiếp theo, khung cảnh trở nên thật tuyệt vời:

    Thuyền của ai đã cập bến trên sông Mặt trăng đó

    Bạn có thể mang mặt trăng trở lại tối nay không?

    Thuyền, mặt trăng và bãi biển không phải là những thứ xuất hiện đầu tiên. Một bài thơ cổ do ai đó viết:

    Nước non trong vắt trở thành bãi tắm biển

    Vào ban đêm, khách lên lầu.

    Nhưng điều khác biệt ở đây là thay vì đứng đó nhìn trăng, nhìn sông, nhà thơ lại đắm chìm trong cảm giác hư ảo. Mặt trăng xuất hiện trở lại, nhưng không phải là “Trăng vàng ngọc” hay “Trăng nằm trên sóng”, mà là vầng trăng bí ẩn tan trên mặt nước. Trong cảm giác mơ hồ của nhà thơ, sông trở thành sông trăng, tàu trở thành tàu trăng, bóng người cũng trở thành bóng trăng.

    Tất cả đều ngập tràn màu sắc của mặt trăng. Vầng trăng ở đây mang theo những khắc khoải, lo lắng, nuối tiếc trước nỗi đau chia lìa thực tại. Sự lo lắng và mong muốn níu kéo thời gian đó được thể hiện rõ nhất trong từ “kịp thời” và cụm từ “vấn đề kém cỏi”.

    Chúng ta thấy ở đây cuộc chạy đua với thời gian, từng bước một, nhưng cuộc chạy đua không phải để tận hưởng vẻ đẹp tuyệt vời nhất của cuộc sống mà mùa xuân mong muốn, mà là để tận hưởng nó. Nhỏ nhất – đó là sống. Sống tiếp là đủ. Trong bài thơ có biết bao nỗi băn khoăn và bao nỗi nhớ mong. Tính nhân văn của bài thơ còn ở đó: hãy sống từng ngày khi còn sống.

    Niềm khao khát tình yêu và tình người của nhà thơ được thể hiện rõ nhất trong khổ thơ thứ ba, khi thế giới trở về với thực tại và hoàn toàn chìm đắm trong giấc mơ:

    Giấc mơ của những khách hàng từ xa

    Áo sơ mi của tôi quá trắng nên không thể nhìn thấy được

    Ở đây có sương mù

    Ai biết được tình yêu của ai dồi dào?

    Đặt chữ “ước mơ” vào đầu, chơi vơi để rồi tiếng gọi “đi xa” đầy lo lắng, bất lực, hụt hẫng và để lại bao nỗi buồn. Hình ảnh của vật đó lại hiện ra, như thoát ra khỏi cánh tay hàn, vào một cõi xa xăm, không thể chạm tới. Người con gái khoác trên mình tấm áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô bờ bến mà suốt đời tôn thờ nay đã trở nên nhạt nhòa, khó giữ lại. Mọi thứ dường như mờ hơn: sương mù ở đây có hình người.

    Không gian mơ hồ, lạnh lẽo, mơ hồ trong sương mù, bí ẩn trong ảo giác. Nó lấn át ý thức và tiềm thức và làm tê liệt con người. Nghe câu hỏi trăn trở cuối cùng: “Tình ai giàu có biết bao nhiêu?”, Ta chợt nhận ra rằng, nhà thơ đã chờ đợi, khao khát, đó là tình người, tình người. Đời sống.

    Cuộc đời nhà thơ vốn dĩ bất hạnh, cuối đời chỉ mong tìm được tri kỉ. Han Motu của chúng ta không hề “dị” như nhiều người vẫn nói. Anh ấy rất con người, rất con người, nhưng có lẽ nhiều năm sau, nhiều người vẫn sẽ nhận ra anh ấy.

    Bài thơ này giống như một bài ca ngắn về tình yêu và khao khát, về một khu vườn, nhưng cũng là một cuộc sống. Nét độc đáo của bài thơ còn thể hiện ở phong cách nghệ thuật riêng của Han Maktu. Với những hình ảnh giàu tính biểu tượng, những câu hỏi tu từ nêu ý kiến ​​riêng, lối hành văn cách điệu, kết hợp giữa hư ảo, “Đây Làng Vida” xứng đáng là một bài thơ. .

    “Trong tương lai, những thứ tầm thường sẽ biến mất, và những gì còn lại là một chút ý nghĩa, chính là mặc lạnh.” Những lời lẽ trân trọng của cô bạn Lan Viên dành cho Hân thể hiện cuộc đời mà Hân đã bỏ lại sau lưng. mãi mãi …

    4. Phân tích Đây là Làng Vida – Mẫu 3

    Bài thơ này ra đời vì một lý do rất cụ thể. Khi Han Motu lâm bệnh nặng và đang nằm chờ chết trong trại phong ở Quy Nhơn, nhà thơ bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh từ người bạn gái của làng, kho bạc của Huang. Tấm bưu thiếp đó có cảnh sông, đêm trăng, thuyền và cầu tàu. Một vài lời chúc được đính kèm ở phần cuối để an ủi nhà thơ, người hiện đang bệnh nặng.

    Đối với những người bình thường, những tấm bưu thiếp chỉ là một mối quan hệ xã giao, nhưng đối với Han Maktu, chúng có một ý nghĩa vô cùng đặc biệt. Nó cho phép nhà thơ yêu người trong mộng bằng tình yêu sâu sắc nhất trong trái tim anh ta. Như vậy, kiệt tác “Làng Vida đây rồi” đã ra đời. Khổ thơ đầu tiên bắt đầu bằng câu hỏi của một cô gái.

    “Sao em không về làng chơi?” Thực chất đây là lời trách móc tình yêu, nỗi sầu muộn của cô gái trong làng. Nhưng trên thực tế, không có cô gái nào giao dịch trực tiếp với Han Motu. Những lời yêu thương dịu dàng ấy chính là những lời tâm sự trong tấm bưu thiếp, xao xuyến và sống động, biến thành giai điệu và kể lể.

    Ở khổ thơ thứ hai, chúng tôi rất ngạc nhiên vì từ mới được nói ra và Hammatu ngay lập tức xuất hiện trong không gian của Làng Vida. Rõ ràng, đây là một cuộc hành trình tâm linh. “Hãy nhìn vào mặt trời, một mặt trời mới sẽ mọc”

    Hai từ “ngày nắng” xuất hiện trong câu thơ này. Một ánh sáng mặt trời được khám phá được miêu tả là “hàng trầu nhìn mặt trời”, một thứ năng lượng mới tinh khiết khiến nhà thơ phải thốt lên “mặt trời vừa mọc” như một đứa trẻ. Đây không phải là ánh nắng mặt trời chúng ta nhìn thấy hàng ngày. Đây là một loại ánh sáng mặt trời rất mới, khi nó xuất hiện vào lúc bình minh. Nó soi bóng cây trầu bà.

    Cho đến nay, quan điểm của Han Motu được cho là từ xa đến gần. Du khách có thể nhìn thấy ánh nắng của những hàng cau cau, càng đến gần vườn càng thấy cây cối xanh tươi. Trên thực tế, nếu anh ta trở lại thông qua ý thức, sẽ không cần phải đi bộ như thế này.

    Ánh mắt của Han Motu rơi xuống khu vườn trong làng. Nhà thơ nước mắt mở bầu trời đen kịt để nhìn thấy một bình minh mới diệu kỳ từ làng Vida. Một không gian bên những người thân yêu của bạn là một khu vườn địa đàng với bao điều kỳ thú như trong truyện cổ tích. Trở về làng là để trút bỏ bao đau thương, muộn phiền. Kết quả là, thần thức của Hàn Mạt đã rơi vào vườn trong thôn.

    Bài thơ “vườn ai xanh như ngọc” có hai vế đối và ngạc nhiên. Với “vườn ai mướt quá” thì cũng thấy “mượt” thì “xanh như ngọc”. Chúng đều còn non và xanh tốt, và mỗi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc bích. Nó không chỉ cho chúng ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho chúng ta cảm giác về sự va chạm của những chiếc lá ngọc. “Lá tre che mặt thay lời nói”.

    Câu thơ cuối cùng của câu thơ đầu tiên có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng “miếng dán mặt” chính là khuôn mặt của cô gái rủ Han Maitu về làng chơi. Bởi vì “vườn của ai” là vườn của tôi, thật có lý khi nhìn thấy khuôn mặt của tôi trong khu vườn đó.

    Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên, một người bạn của Hàm Ma Tử lại không bằng lòng với cách hiểu này, ông cho rằng cái phông có thể đẹp nhưng chắc chắn đó là một khuôn mặt chưa đạt tiêu chuẩn thẩm mỹ Việt Nam. đánh giá một người phụ nữ. Cũng có ý kiến ​​cho rằng “mặt lấp” là một viên gạch vuông, thường được xây trên bình phong của các ngôi nhà ở làng Ngụy.

    Thực sự, nếu đọc thơ Hàn Quốc, chúng ta bắt gặp nhiều hình ảnh và thế giới kỳ lạ. Những người làm thơ gặp nhau trong quá khứ và tương lai là lẽ thường tình. Cho nên dù khó tin nhưng Hàn Mưu vẫn thấy mình ở đây lần nữa, mặt mày hớn hở, lúc bấy giờ đang là một thiên tài nổi tiếng ở Huế.

    Để yêu một tình yêu trong sáng, êm đềm, say đắm, một thi sĩ phải ngược về quá khứ, và phải là một thi sĩ đa tình của một thời Huế. Nói một cách chính xác, nhà thơ muốn quên mình khi bệnh nặng, để được yêu thương. Hình ảnh “lá tre nằm ngang” phản ánh nét dung dị, tự tại, dễ gần của con người. Lá tre trong quan niệm xưa là biểu hiện của người đàn ông lịch lãm.

    Nếu buổi đầu tiên cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng, thì buổi thứ hai cho chúng ta ấn tượng về buổi chiều trong không gian thoáng đãng bên ngoài làng Vida, và sau đó là cảnh sông vào ban đêm. Con tàu đầy ánh trăng. Cả bốn câu thơ đều gợi cho ta liên tưởng đến cảnh vật xứ Huế, nhưng thực tế tất cả những hình ảnh đó đều tồn tại trong những mối quan hệ mâu thuẫn và trái tự nhiên. “Gió theo gió, mây theo mây”.

    Khổ thơ thứ hai không chỉ là một nghịch lí mà còn là một sự châm biếm. Đương nhiên, khi những bông hoa ngô di chuyển, nước nhất định sẽ gợn sóng. Tuy nhiên, ở đây, chỉ có những bông hoa ngô di chuyển bằng chân của chúng, cho phép nước chảy một mình. Thà xa mặt, lòng xa như mây gió, còn hơn đứng bên nhau bao đắng cay, tủi hờn.

    Nếu ở câu thơ đầu tiên, chúng ta cảm thấy một tình yêu đẹp sắp chớm nở thì ở câu thơ thứ hai, chúng ta lại gặp phải sự tan vỡ. Han Maitu đã kịch liệt từ chối người đã mời anh đến thăm làng Wei qua cách nói chuyện bốc lửa của anh ta. Đây là câu chuyện về một người phụ nữ đã thất hứa và làm tan nát trái tim của những kẻ cả tin ngu ngốc.

    Người tình trong mộng của Han Maitu đôi khi mời gọi và chuẩn bị cho một thế giới tình yêu chờ đợi, và đôi khi biến thành một người tình rất tàn nhẫn. Đột nhiên, con người đó bỗng trở nên tốt bụng và rộng lượng.

    “Thuyền của ai đã cập bến trên sông Trăng đó

    Bạn có thể mang mặt trăng trở lại tối nay không? “

    Hình ảnh vầng trăng xuất hiện rất nhiều trong thơ ca Trung Quốc. Mặt trăng vĩnh cửu là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là của các cặp đôi. Vì khao khát hạnh phúc, hai bài thơ của Han Maktu đều tràn ngập ánh trăng: Trăng hạ cánh, Sông trăng, Thuyền chở trăng và Người chở trăng.

    Nhân vật “ai” ở đây chỉ có thể là người đã mời Han Maitu đến thăm Ngụy thôn. Anh đang chèo thuyền qua sông, đợi đêm nay trăng vui mang trăng về cho thi nhân. Đây là một tình yêu cao cả và thấu hiểu mong muốn của Han Maitu.

    Nhưng từ “đúng lúc” ở đây xoay quanh câu hỏi: Liệu đêm nay mặt trăng có được đưa trở lại đúng thời điểm không? Có lẽ Kíp, có lẽ không kịp … Đêm nay là một khái niệm thoáng qua. Han Maitu biết đời mình chỉ còn hạnh phúc ngắn ngủi, sẽ có người đem lại hạnh phúc cho thi nhân, nhưng nếu đến muộn thì hạnh phúc cũng trở nên vô nghĩa.

    “Mộng khách phương xa, khách phương xa” ở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ rất đặc sắc. Khách đã là khách lạ mà nhà thơ còn lặp lại hai lần cái lạ: “khách phương xa, khách phương xa”. Tuy nhiên, anh mơ thấy vị khách không quen biết. Thực ra đây là người mời Han Maitu đến Ngụy thôn, nhưng nhà thơ hiểu rằng người này ngoài tầm với. Người đó ngày càng xa lạ, không thể níu kéo nên càng ngày càng phó mặc cho ước mơ. Bạn có thể thấy tâm trạng này trong các bài thơ khác của Hàn Quốc:

    “Người đi không nao núng

    Tình yêu vẫn là tình yêu

    Tôi đã mất một nửa linh hồn của mình

    Một nửa tâm hồn của tôi thật ngốc nghếch “.

    Hamatu luôn trong tâm trạng ngược lại vì muốn tìm được tình yêu trong mộng và có một cuộc sống ý nghĩa cuối đời. Ban đầu thì hi vọng, rồi trách móc người yêu là kẻ ngoại tình, sau đó nhà thơ thấy người con gái mời về thăm thôn Ngụy đều chung tình, sẵn sàng chèo thuyền đợi trăng hạnh phúc.

    Tiếp theo, Han Motu coi người yêu của mình như một “người du hành phương xa”. Nhưng chẳng bao lâu, nhà thơ thấy người đàn ông đã trở về với mình, và cô gái hoàn toàn trong trắng, thánh thiện. Đại từ “em” thật giản dị và gần gũi: “Áo em trắng quá không thấy đâu”.

    Bài thơ này vừa thắp lên hy vọng, nhưng lại khiến Han Motu cảm thấy tuyệt vọng. “Áo sơ mi của anh trắng quá”, lẽ ra tôi phải nhìn rõ điều đó. Nhưng áo của bạn càng trắng, tôi càng ít thấy nó. Thật ra, tôi không dám nhìn bạn, vì bạn quá trong sáng và quá tự cao …

    Sự phức tạp trong tình yêu là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như một người đàn ông lạnh lùng là do lý do cuộc sống của chính mình. Nhà thơ biết hoàn cảnh thực tế của mình, nên dù chữ “em” có trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Han Motu đã phải từ chối chính mình với tình yêu. Câu thứ ba mang màu sắc bi quan của triết lý nhân sinh: “Ở đây có sương mù và sương mù”. nguyen gia thieu từng viết:

    “Đỉnh đã ở trên bầu trời

    Hình ảnh mờ như một người đi bộ vào ban đêm “

    Cuộc sống giống như một con quay, chúng ta không thể kiểm soát được số phận của chính mình. Trong mối quan hệ của chúng ta với người khác, chúng ta chỉ có thể nắm bắt được “hình ảnh”, chứ không thể nắm bắt được bản thân người đó. Han Motu cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không thể chủ động và không thể nhìn thấy hình ảnh của người mình yêu.

    Nhà thơ hiểu rằng sương mù cuộc đời đang quét sạch “hình tượng” của nhân vật “em” … một nhận thức rất chua xót, đáng thương để lại sự trống vắng như sa mạc. Mặc chết trong tâm hồn lạnh lẽo.Chính vì vậy mà nhà thơ đặt ra một câu hỏi vô vọng không nơi nào có được: “Ai biết tình ai giàu?”.

    Hai đại từ “ai” trong câu này tạo ra nhiều cách hiểu: Tự hỏi liệu bạn có hiểu được tình yêu của mình có bền chặt không? Tôi không biết anh ấy có biết tình yêu của mình mạnh mẽ như thế nào không? Em có biết tình yêu của anh mạnh mẽ như thế nào không? Em có biết rằng tình yêu của anh rất bền chặt?

    Một câu hỏi trong bài thơ, nhưng ẩn chứa rất nhiều câu hỏi, càng hỏi càng “mờ” và càng trở nên tuyệt vọng. Tình yêu tha thiết càng đậm đà bao nhiêu thì tôi càng thấy tuyệt vọng đoạn tuyệt với tình yêu bấy nhiêu. Chính vì vậy, cảm hứng chủ đạo của “Làng Vida đây rồi” là sự thổ lộ đau thương của tình yêu tuyệt vọng.

    Mọi tuyệt vọng đều khiến chúng ta bi quan, nhưng tình yêu tuyệt vọng của Han Maktu dạy chúng ta những giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ bám vào cuộc đời này bằng tình yêu, cho dù đó là tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta sẽ không rơi vào hoàn cảnh bi đát như Han Maitu, vì vậy chúng ta cần phải biết cách sống, cách yêu thương, trong cuộc sống trần gian tuyệt vời đáng sống này.

    Ảnh minh họa (Nguồn internet)

    5. Phân tích bài thơ Làng là Vader – Văn mẫu 1

    “Ai mua mặt trăng, tôi bán cho ai

    Không bán đoàn viên, hy vọng đến nay. “

    Nhắc đến vài dòng này, chắc hẳn độc giả đã quen thuộc với hình ảnh “Nửa vầng trăng” của Han Motu. Một điều nghịch lý, lạ lùng, vì mặt trăng cũng là của chung và của mọi người, tại sao lại phải “bán”. Tuy nhiên, từ bức tranh này, ta có thể thấy được tấm lòng son sắt thủy chung của nhà thơ. Sự trung thành này được tái hiện một lần nữa qua “Đây là làng Vader”. Tác phẩm không chỉ là bức tranh màu nước ở đâu đó cố đô Huế mà còn là tâm tình gửi về nơi phương xa của nhà thơ Hàn Mưu.

    Bài thơ mở đầu không phải bằng một lời chào mà bằng một lời trách móc: “Sao anh không về làng chơi?”. Giọng điệu như vấn vương, trách móc khiến nhân vật trữ tình không nỡ trở về làng, về với kỉ niệm. Bài thơ cũng thể hiện sự tiếc nuối khi nhân vật trữ tình không biết trân trọng cảnh đẹp của vùng quê.

    Nhắc đến những tiếc nuối của các cô gái châu Âu cũng có lý, bởi với loạt “mỹ nhân” sau đây, ai lỡ chuyến về cũng tiếc hùi hụi.

    “Nhìn vào ánh nắng mới”

    có khu vườn xanh như ngọc

    Lá tre che mặt chữ “

    Ba câu thơ trên đã miêu tả sơ bộ một bức tranh nông thôn trong sáng và tươi đẹp. Ở phần thứ hai, tác giả khéo léo sử dụng lối ngụ ngôn “qing”, nếu “qing” ở câu đầu chỉ nơi nó xuất hiện (mặt trời chiếu vào miếng trầu), thì câu sau là “qing”. với nó bản chất. . (Nắng mới) Khung cảnh làng lớn hiện ra trước mắt người đọc là vẻ đẹp của miệt vườn, vẻ đẹp của vùng quê ngoại thành.

    hàng cau là hình ảnh đặc trưng nhất của chốn miệt vườn thiên nhiên, nhưng tác giả đã tinh tế hơn khi đưa hình ảnh này vào như một “gia vị” riêng cho xứ Huế. -Mới. “New Sunshine” có thể hiểu là ánh nắng ban mai, khởi đầu cho một ngày mới.

    Nhưng ánh nắng này không chỉ là khởi đầu của ngày mới, mà còn là khởi đầu của một mùa xuân tươi mới. “Nắng mới” mang động từ “hướng lên,” tạo cảm giác về sức sống của tuổi trẻ, một khoảnh khắc được nhà thơ ưu ái trân trọng. Có thể thấy, sức sống căng tràn đang lan tỏa ra cả làng.

    Từ góc độ “hàng trầu che nắng”, tác giả chuyển sang quan sát một “đối tượng” khác, đó là mảnh vườn nơi làng quê. Từ câu thơ này, rõ ràng là quan điểm của tác giả đã thay đổi. “Khu vườn” hiện ra gần hơn, và tầm nhìn của nhà thơ cũng gần lại. Nghệ thuật tu từ “vườn của ai” khơi dậy sự tò mò, hiếu kỳ, bởi không rõ chủ nhân của khu vườn này là ai, nhưng điều khiến người ta quan tâm không phải là danh tính của chủ vườn, mà quan trọng là sự thật. màu xanh lá.

    Tác giả so sánh khu vườn với những viên ngọc lục bảo để thể hiện sự trong lành và xanh tươi của khu vườn vào buổi sáng sớm. Nhìn vào bức tranh này, người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, cơ mắt được thư giãn thực sự. Tuy nhiên, tài năng của Han Motu không dừng lại ở đó. Tác giả đã khéo léo “tặng” từ “mượt mà” khi miêu tả màu sắc của khu vườn. Chữ tạo cho người đọc cảm giác mượt mà, tròn trịa và thêm mượt mà.

    Ngoài ra, đi kèm với thán từ “quá” làm cho thanh tao miệt vườn, khiến người đọc tò mò muốn đọc lại, nếu câu thứ hai và thứ ba giúp ta có cái nhìn khái quát về thiên nhiên xứ Huế, nhà thơ trong Những người ở đây được giới thiệu trong câu thứ tư.

    Hình ảnh “khuôn mặt chữ điền” dùng để chỉ khuôn mặt khả ái, cũng là cách tác giả giới thiệu tính cách của người con gái Huế. Chi tiết ẩn sau vẻ đẹp ấy là “Qua Lá Tre” gợi cho những cô gái mộng mơ e ấp, e thẹn. Vì vậy, người đọc chỉ cần khổ thơ đầu là đã có được cái nhìn đầu tiên về cảnh đồng quê hùng vĩ. Đất nền nơi đây không chỉ có giá trị vượt trội mà còn có giá trị vượt trội.

    Sang đến khổ thơ thứ hai, người đọc tiếp tục được chứng kiến ​​những nét vẽ của “Nhà thơ”.

    “Gió theo gió, mây theo mây

    Suối buồn, hoa ngô đồng …

    Thuyền của ai đã cập bến trên sông trăng đó,

    Bạn có thể mang mặt trăng trở lại tối nay không?

    Ở đầu phần hai, Han Motu mở rộng không gian của ngôi làng với hình ảnh trên. Ở đây tác giả kết hợp kiểu câu chuyện ngụ ngôn với ám chỉ rất tài tình. “Gió” và “Mây” được nhấn mạnh hai lần nhưng không phải là cảm giác lưu luyến mà là sự xa cách. Gió có cách của nó, và đám mây có cách của nó.

    Nếu câu đầu của tác giả nói về cuộc chia ly nhưng gián tiếp thì câu thứ hai dùng động từ “buồn” để nhấn mạnh cảnh vật mang tâm trạng sầu muộn. “Buồn” là một thể loại tâm trạng u uất, có chút cô đơn, nhân vật mang tâm trạng này chính là “Thủy”. Qua cách nhân hoá, tác giả ví dòng nước chảy như một sinh vật có tư duy và tâm trạng. Khung cảnh lúc này chuyển từ trong sáng sang hoài cổ.

    “Hoa ngô đồng nở” có thể thổi vào một cơn gió, khiến nỗi buồn và sự cô đơn trở nên rõ ràng hơn. Khoảng trống ở phía trên ngay lập tức được kéo xuống khiến hình ảnh trở nên sống động hơn. Ý đồ của tác giả khi để nỗi đau của thiên nhiên bộc lộ trước, khiến người đọc tò mò suy nghĩ, sau đó tác giả đưa ra một suy ngẫm của con người.

    “Thuyền của ai đã cập bến trên sông Mặt Trăng đó,

    Bạn có thể mang mặt trăng trở lại tối nay không? “

    Nếu câu hỏi tu từ ở câu đầu mang tính chất trách móc thì câu thơ này lại đầy nỗi niềm, ngậm ngùi. Với sự xuất hiện của hình ảnh “Sông trăng” đã làm xuất hiện những hình ảnh ẩn dụ “con thuyền” và “bến tàu”. Dòng sông Hương lúc này đầy ánh trăng, lấp ló cả một vùng sông nước một màu vàng rực rỡ.

    Câu hỏi ở cuối phần này dường như đang hỏi chính tác giả. Bài thơ thể hiện sự lo lắng khi tác giả mang trong mình căn bệnh quái ác trong tình trạng này. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để đợi trăng về đúng lúc. Câu hỏi này đã làm cho cả phần chùng xuống! Nhà thơ xót xa cho số phận phù du, cho ước mơ chưa thành. Đó là nó! Cũng giống như câu thơ thứ ba, tác giả tiếp tục sống cho ước mơ của mình

    “Mơ ước của những khách hàng ở xa, những khách hàng ở xa

    Áo sơ mi của tôi quá trắng nên không thể nhìn thấy được

    Ở đây có sương mù

    Ai biết được tình yêu của ai là giàu có “

    Lần này, tác giả sống trong tưởng tượng của mình. Hình ảnh người khách đường xa được nhấn mạnh hai lần phần nào nói lên tâm tư, suy nghĩ của tác giả đối với người mình yêu. Một số tài liệu cho thấy, khi làm việc ở Quy Nhơn, Han Motu đã phải lòng và nhớ nhung một cô gái Huế tên là Huang’s Kho bạc, con của ông chủ.

    Sau một thời gian, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, sau khi về Quy Nhơn, gia đình cô trở về Vida (Huế). Trong thời gian nhà thơ bị bệnh, theo gợi ý của một người bạn, cô Daisy đã gửi cho nhà thơ một bức ảnh cô mặc áo dài trắng, cùng với hình ảnh sông, nước, bến tàu và con thuyền.

    Nhà thơ vui mừng khi nhận được bức tranh. Chính vì vậy mà hình ảnh “áo bạn trắng quá” có thể bắt nguồn từ chiếc áo sơ mi trắng mặc trong của Hoàng thị kim cúc mà “không thấy đâu”. Có câu nói tác giả bị bệnh nặng mắt nên có thể không rõ lắm. Vì vậy, màu trắng này là một màu kỳ lạ hay nó trông giảm đi?

    “Ở đây có sương mù

    Ai biết được tình yêu của ai là giàu có “

    Phần thứ ba của phần cuối mô tả đúng không gian của Huế. Ở vùng nông thôn đầy sương mù, màu trắng đã làm mờ mọi thứ, kể cả “chân dung”. Tác giả như lạc vào một thế giới bí ẩn, đằng sau một “bức màn trắng” mà mọi thứ đều khó nhìn thấy.

    Có lẽ ý nghĩa và tình cảm của tác giả đã chứa đựng trong phần cuối. Vẫn là một câu hỏi tu từ “Biết đâu tình ai dạt dào?”. Khi nhà thơ hỏi người ấy, như đang tự hỏi chính mình rằng liệu tình yêu có còn “mặn nồng”, tình duyên trớ trêu như ngày xưa và liệu người xưa có còn giữ lại tình xưa hay không. Khi được hỏi sẽ là ai, nhưng người ta quan tâm đến thứ tình cảm nào sẽ bền lâu, người ta vẫn có chút chạnh lòng.

    Tất cả đều chưa biết! Thông qua các biện pháp nghệ thuật đặc sắc, linh hoạt như điệp ngữ, điệp cấu, đặt câu tu từ … Người đọc có dịp tận mắt chứng kiến ​​cây nêu. Nhà văn tài hoa đã phác họa nên những đường nét mềm mại của bức tranh một cách sống động và có hồn nhất Với ​​bài thơ “Đây thôn Vida”, Hàn Mưu đưa người đọc đến với không gian mộng mơ của xứ Huế. Cụ thể là cảnh Làng Vida.

    Với cảnh tình thơ mộng trữ tình, thương nhớ tác giả đã thổ lộ tình cảm của mình với cô gái xứ Huế mà tác giả đã thầm thương trộm nhớ. Tâm trạng trớ trêu, bâng khuâng nhưng lại khắc khoải, lo lắng khi “cố nhân” vẫn giữ tình cảm xưa. Tình cảm này tồn tại mãi mãi, trở thành câu hỏi khắc khoải trong đầu người viết cũng như độc giả.

    6. Phân tích bài thơ Đây là làng Vida – Văn mẫu 2

    Trong tác phẩm “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã có một nhận định rất sâu sắc về phong trào thơ mới: “Đời ta chỉ trong vòng một con chữ. Mất bề rộng thì tìm bề sâu. Nhưng càng vào sâu, trời càng lạnh. Ta trốn chạy.” thần tiên và thế giới, tôi đã mạo hiểm trong tình yêu lâu dài và Lục trọng, tôi đã phát cuồng vì Han Matu và Chelan Vien, tôi đã yêu sự kỳ diệu của mùa xuân Nhưng động cổ tích đã đóng lại, tình yêu không kéo dài, cơn điên tỉnh lại, cơn mê vẫn như cũ Bất lực, tôi choáng váng, sầu thảm trở về hồn với huy gần đó ”.

    Nếu như “Sự kỳ diệu của mùa xuân” luôn cuốn hút với những cảm xúc nóng bỏng và lo lắng, thì thi sĩ Han Marktu lại gắn liền với sự quái đản và điên rồ thì trong thế giới điên cuồng và quái đản ấy, người ta vẫn thấy một thứ trần thế đau đớn của cuộc đời. , tình yêu không ngơi nghỉ, dẫu nó đã để lại cho anh nhiều bất hạnh và nỗi buồn. Làng là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mai Tử và được coi là một trong những bài tiêu biểu nhất, hay nhất của Phong trào Thơ mới cũng như trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

    Hàn Mai Tú, tên thật là Nguyễn Trọng Chí, sinh ra trong một gia đình Công giáo nghèo ở Quảng Bình năm 1912. Ông được biết đến như một thần đồng thơ khi mới 15, 16 tuổi. Phong cách thơ của ông pha trộn giữa cái quen thuộc, trong sáng, thuần khiết, linh thiêng với sự ghê rợn, ma mị và cuồng loạn, tạo nên một chất thơ vô cùng lạ lẫm. tổ hợp.

    Đây là Làng Vida, được viết năm 1938 trong tập thơ “Điên”, sau đổi tên là trau, bài thơ này ra đời trong hoàn cảnh của Hàn Mai Tử và cô gái Huế hoàng thị kim cúc mối tình đơn phương. Khi cả hai bị ngăn cách bởi địa vị và địa lý, điều đó trở nên vô vọng.

    Trong cơn tuyệt vọng tuyệt vọng đó, Han Meitu đã viết rất nhiều bài thơ về vấn đề này, trong đó có một bài văn đặc biệt “Đây là ngôi làng Vida” mà Han Meitu đã viết khi tình trạng của anh trở nên tồi tệ, nhưng anh đã nhận được nó. Người xưa khơi dậy niềm vui trong lòng và khát vọng sinh tồn vô hạn được thể hiện trọn vẹn trong bài thơ này.

    Không chỉ vậy, ngôi làng này còn là thông điệp mà Han Maitu muốn gửi gắm đến cuộc đời này, khát vọng mãnh liệt và sự nghiêm túc của nhà thơ đối với cuộc sống trần thế.

    “Tại sao bạn không đến làng chơi?

    Ngắm nhìn mặt trời mọc mới.

    có khu vườn xanh như ngọc

    Lá tre che bề mặt văn bản. “

    Khổ đầu của bài thơ, cảnh thiên nhiên Làng Vida, một góc của xứ Huế mộng mơ, mở ra với khuôn mặt thanh khiết và trong sáng dưới ánh ban mai dịu nhẹ. Thay vào đó, được hỏi “Sao anh không về làng chơi?” Giọng điệu đặc biệt, bởi số từ nhẹ nhàng, tạo cho người ta cảm giác rất ấm áp, ngọt ngào và êm ái, như một bức màn mỏng mở ra, gợi lên niềm mơ ước. toàn bộ tác phẩm Chu trình cảm xúc thơ. sản phẩm.

    Câu hỏi tu từ này cũng thu hút sự chú ý của chúng tôi đến chủ đề “anh”, một câu hỏi mà các cô gái Huế nhớ nhung, hờn dỗi một cách duyên dáng với một lời trách móc. Tại sao chàng trai không phụ lòng mình thì cũng có nghĩa là nhắc nhở và mời người bạn cũ của mình về thăm Huế.

    Đó cũng có thể là giọng nói của Han Maitu, vừa chất vấn, vừa nhắc nhở bản thân vì sao “không về chơi làng”, “một đi không trở lại” là một điềm báo đau thương của kiếp người không may, anh không thể quay lại. trước đây, có lẽ anh ấy sẽ không quay lại trong tương lai Bây giờ, Han Maitu đã hết thời gian và đành phải lỡ hẹn với Huệ và người cũ.

    Bạn có thể nhận ra rằng, trở về Huế có lẽ là niềm trăn trở và tiếc nuối lớn nhất của nhà thơ. Đây không chỉ là nơi ông đã sống một thời gian dài, mà còn là người con gái đã chung sống với ông. Tôi không biết cô ấy là ai, thay vì chờ đợi, anh vẫn chỉ quay sang anh. Sau câu hỏi tu từ, Han Maktu đã tái hiện lại khung cảnh thơ mộng và kỳ ảo của Làng Vida bằng những câu thơ hay.

    Đây là cảnh bình dị trước bình minh, bức tranh tươi tắn và độc đáo, vẻ đẹp của nắng, từ “nắng” được lặp lại trong câu thơ “nhìn mặt trời, khi mặt trời mọc”. Có thể nói ngòi bút của Han Maktu là một nhà văn tài ba, sẵn sàng phá bỏ những quy tắc lặp lại vốn cấm kỵ trong thơ, tạo nên một bức tranh với phông nền vàng nhạt, ánh nắng dịu nhẹ. Sự hài hòa lan tỏa khắp không gian, vì thế mà chất thơ cũng được thổi bừng sức sống tươi trẻ và ấm áp.

    Và cái nắng ở đây cũng rất đặc biệt, đó là “nắng trầu”, phải nói trầu là biểu tượng của huệ, cây có ưu điểm về chiều cao và luôn vươn thẳng. Với a đèn xanh vàng, lòng người yêu đời hơn.

    Thì “Nắng mới” cũng là một cảm nhận mới về hình ảnh ánh nắng của làng quê, không phải là cái nắng gay gắt của trưa hè đổ lửa, mà là thứ nắng trong trẻo, thuần khiết và dịu dàng đến hoàn hảo, hoàn toàn giống như Tương tư “Hạt trầu không nắng” cũng mang lại sức sống mới, giống như tâm hồn thi nhân khi nhận được tấm bưu thiếp của một cụ già, có lẽ phải nói rằng đó là biểu tượng của sự khởi đầu.

    Đó là một khung cảnh tuyệt đẹp của Vườn Huế dưới ánh nắng vàng, rất “mượt” xanh mướt đầy sức gợi của “màu xanh ngọc”. Chỉ từ “lánh” thôi đã gợi lên sự trù phú, tươi mát và tràn đầy sức sống của khu vườn quê tươi đẹp, đồng thời cũng gợi cho người ta nhớ đến những giọt sương mai trong vườn mới rơi từng giọt, giọt sương trong veo lấp lánh trong nắng. , phản chiếu ánh nắng mới, khiến từng chiếc lá xanh tươi bừng lên sắc xanh ngà, trong trẻo, tươi tắn.

    Thêm một chữ “ai” nhỏ vào câu thơ chỉ làm cho bức tranh toàn cảnh thêm thân thương, lãng mạn, làm nổi bật vẻ đẹp của người dân làng chài trong “ô chữ” “lá tre che mặt”. Han Maktu sử dụng phong cách văn học trung đại “thơ và họa”, và sử dụng nét vẽ mềm mại của lá tre rải rác để làm nổi bật những đường nét trên khuôn mặt của một cô gái duyên dáng và nhân hậu. Đó là khuôn mặt mang vẻ đẹp và phẩm chất của người con gái mà mọi người vẫn mong muốn, tốt bụng, trung thành và một vẻ ngoài hạnh phúc trong tương lai.

    Han Maitu miêu tả cảnh ngày trong veo, đưa người đọc trở lại cảnh đêm của Huế, nước đục, con thuyền và đặc biệt là ánh trăng, chất liệu thơ quen thuộc trong các bài thơ của ông. tác giả. Có thể thấy, giữa hai phần có sự chuyển đổi cảm xúc rất rõ ràng, từ yêu đời, vui sống như mặt trời mọc, rồi Han Maitu trở về với tâm trạng hoang mang, lo lắng, bất an. , nỗi buồn như một dòng sông lạnh lẽo mênh mông.

    “Gió theo gió, mây theo mây,

    Suối buồn, hoa ngô đồng …

    Thuyền của ai đã cập bến trên sông trăng đó,

    Bạn có thể mang mặt trăng trở lại tối nay không? “

    Hai câu đầu tả thực cảnh mây trời, sông nước xứ Huế, sử dụng giọng ngắt 4/3, như xé đôi bài thơ, tạo cảm giác hụt ​​hẫng khó tả, “Đôi ba chữ” mây. “và” gió “đưa khung vào tả cảnh. Vì vậy, dường như mây và gió chẳng liên quan gì đến nhau, và mỗi người đều đi theo con đường riêng của mình, và từ xưa đến nay, đám mây với gió là một phép màu của định nghĩa, nó bộc lộ rõ ​​ràng trái tim và linh cảm xấu của Han Mike đã chết trước khi chia ly. Sự chia ly khủng khiếp là sự sống và cái chết, không còn là khoảng cách hay linh hồn.

    Từ “nỗi buồn” chậm rãi, ngập ngừng của dòng sông Hương nổi tiếng chảy vào bài thơ, nó trở thành một hình ảnh nhân hoá phản ánh tâm tư sầu muộn của nhà thơ trước số phận của mình. Nhưng có lẽ “Hoa ngô đồng nở” là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa, buồn tẻ, lặng lẽ buồn tẻ.

    p>

    Sau đó, dường như không thể chịu đựng nổi đau đớn của hiện thực băng giá, nàng tiếp tục chìm vào cõi mộng với ánh trăng vàng, là tâm sự cả đời của tác giả ở nơi hiu quạnh này. Vầng trăng hiện lên thật đẹp, một dòng sông lấp lánh ánh trăng vàng, con thuyền chở trăng, vầng trăng cho tác giả hóa thân vào một thế giới tươi đẹp, về cuộc sống mà tác giả khao khát chiếm hữu. hội nhập.

    Câu hỏi “Thuyền ai cập bến sông trăng ấy / Đêm nay có đưa trăng về được không?” ẩn chứa nỗi băn khoăn của tác giả về kiếp người hữu hạn, lo lắng không biết còn được hưởng trăng sáng, hay tiếc nuối một đời.

    “Mơ ước của những khách hàng ở xa, những khách hàng ở xa

    Áo sơ mi của tôi quá trắng để nhìn thấy …

    Ở đây có sương mù

    Ai biết được tình yêu của ai dồi dào?

    Niềm khao khát cuộc sống trần thế của tác giả nổi bật hơn ở đoạn cuối, cụ thể là khát vọng về hơi ấm của tình người, khát khao thoát khỏi cảm giác cô đơn, lạnh lẽo và muốn dùng tình yêu để tận hưởng cuộc sống. Thế giới vốn đã được chỉ ra bằng hình bóng của một mỹ nhân trong giấc mơ của tác giả, nhưng câu thơ lặp đi lặp lại “mộng khách phương xa, khách phương xa” lại thể hiện một cảm giác lạ lùng, bóng dáng của một đứa trẻ. Cô gái vụt tắt, vụt tắt, trong tầm tay tác giả, đến nỗi đôi mắt u sầu của nhà thơ phải tiếc thương “Áo em trắng quá chẳng thấy đâu”.

    Có lẽ cuộc đời này định mệnh cho hai người không có cái kết giống nhau, chỉ biết bất lực nhìn thế gian, người đẹp lần lượt trở thành người vô hình, còn nhà thơ thì sững sờ trong đau buồn. Cô đơn sầu muộn. Khi nhà thơ không thể hòa nhập với thế giới mà mình mong muốn, anh ta phải trở về thế giới của riêng mình, một “hình ảnh mờ ảo” về một thế giới mờ mịt không có con người, bị cô lập, đối mặt với cái chết, sắp phải rời bỏ thế giới mà mình vẫn hằng mong ước, v.v. khó tưởng tượng nỗi đau.

    Nhất là tâm hồn thi sĩ ấy, cứ mãi vướng vào một câu hỏi hoài nghi, băn khoăn về tình cảm của người xưa, không biết người con gái ấy đã từng dành tình cảm cho chàng, hay người con gái ấy. Biết được mối quan hệ bí mật bao năm anh không dám tiết lộ. Những tấm bưu thiếp có thể gợi nhiều cảm xúc trong lòng nhà thơ, nhưng cuối cùng vẫn là nỗi cô đơn, trống trải và nỗi đau của một người đàn ông mang nhiều tiếc nuối cho thế gian.

    Có thể dùng một vài dòng trong bài thơ “Điên” của Han Maitu để nói về ngôi làng này, đó là “nguồn sáng từ một tâm hồn rất dày vò. Chúng ta thấy một số dấu vết của tình yêu đã chết sớm. Sự thất vọng của tình yêu, bài thơ Câu chuyện của Han Motu tương tư với nỗi buồn, tuy thấm thía, đẹp đẽ nhưng vẫn dịu dàng, chỉ trong những vần thơ của Han Motu, tôi mới thấy nỗi đau dữ dội đến thế.

    Thơ như máu “. Đọc thơ, ta thấy yêu đời và khát khao được yêu, yêu đôi mắt đẹp của cuộc đời, đồng thời xót xa cho số phận của thi sĩ, cuộc đời đau thương khiến Hàn Mưu không khỏi mơ ước. trong một thời gian dài, và cuối cùng anh ta phải trở về Nơi lạnh lẽo và cô đơn, không người yêu, không hơi ấm của tình người, chờ đợi cái chết trong đau đớn và tuyệt vọng.

    7. Bài phân tích Đây là Làng Vida

    Nếu nhắc đến Han Maitu thì không thể không nhắc đến bài thơ “Đây là làng Vida”. “Làng Daveda” luôn gắn bó với thi nhân Hán, như một bức tranh cuộn với bóng, bởi đó là một bài thơ tài hoa; tấm lòng của Hán tự, nhưng đây “chỉ thể hiện tình yêu dành cho Huế như ai đó đã nhận xét”. Tình yêu của một cô gái.

    Đây là một bài thơ hoài cổ. Theo các tài liệu về Han Motu, Han Meitu đã yêu Hoàng thị kim cữu, con gái của chủ quán đặc công quy nhon, quê ở làng Vị, Huế, khi còn đang làm việc trong bộ phận đặc công quy nhon. Tất cả tình cảm của tôi đều gửi gắm vào BST Gái quê. Khi hoang cuc theo cha den tu Hue-vi da, han me tu cho rang minh se co gia dinh.

    Ngày mai tôi sẽ không còn là nhà thơ nữa

    Tôi đã kết hôn và không có ước mơ nào

    Tôi sẽ tìm những vách đá trắng,

    Ngồi trên đó và thả hồn thơ.

    Han Meitu mắc bệnh phong năm 1936. Năm 1939, Han Meitu nhận được một tấm bưu thiếp của Hoa Cúc Vàng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh Huế, có sông, thuyền, cầu tàu, trăng và trăng. Cây trầu bà có kèm theo dòng chữ cúc cung đình để an ủi nhà thơ. Tấm bưu thiếp đánh thức cảm xúc của nhà thơ, từ đó có bài thơ tuyệt vời.

    Làng Vida này bao gồm 12 câu không lời được chia thành 3 khổ thơ.

    Phần đầu tiên bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ là một lời trách nhẹ nhàng, pha chút tiếc nuối nhưng đằng sau đó là một lời mời gọi chân thành du khách hãy biết trân trọng vẻ đẹp của “làng quê”.

    Trở lại vi thôn “Ngắm mặt trời mới mọc”. Nhà thơ nhắc đến trầu đầu tiên vì đây là loài cây thanh tao, đẹp đẽ, thân thẳng, lá xanh mướt gợi lên lòng trung thành, liêm khiết. Đây là một chi tiết đáng nhớ nữa của hình ảnh cây trầu bà, đó là “mặt trời ló rạng, nắng mới lên.” Từ “nắng” gợi cho ta liên tưởng đến ánh nắng ban mai, tượng trưng cho sức sống lan tỏa, tươi vui. Trong ánh nắng ban mai, những thân trầu treo sương đêm long lanh như vươn mình hấp thụ ánh vàng rực rỡ

    Một cảnh đẹp thu hút sự chú ý của tác giả. Khổ thơ thứ ba như những tiếng reo vui, thể hiện sự ngạc nhiên, thán phục. Khung cảnh hùng vĩ đẹp như một bức tranh cuộn: “vườn ai xanh như ngọc”. Cây trái trong vườn được những bàn tay khéo léo chăm sóc, thường xuyên tắm mưa dãi nắng, sáng như ngọc trong nắng mai. Những hình ảnh tương phản của tác giả trong bài thơ vừa chính xác vừa gợi cảm. Có thể nói, những miêu tả về khu vườn của Han Maktu đã đạt đến cảnh giới của những họa sĩ thiên tài.

    Han Motu sử dụng một vài nét đứt để phác họa một cảnh quan miệt vườn làng quê Huế vừa thân thuộc vừa bình dị. Ngắm nhìn Vườn Huế dưới “Mặt trời mới” thật bình yên. Nhưng khung cảnh đêm lớn bỗng trở nên sống động hơn, khi xuất hiện bóng dáng: “Lá tre che mặt”. Phông chữ thường gợi lên tính thẩm mỹ đẹp. Trang trọng và quý phái, trong khi lá trúc gợi cho một dáng người mảnh mai, xinh xắn, tinh anh. Bài thơ này ngoài ý nghĩa thiết thực: thấp thoáng sau bụi tre, khuôn mặt rất nhân hậu của một người như đang nhìn khách từ xa, còn có ý nghĩa tượng trưng và cách điệu.

    Cảnh và người cùng tỏa sáng: cảnh đẹp nên thơ, con người cao thượng, nhân hậu. Tất cả tạo nên nét thẩm mỹ kín đáo, nhẹ nhàng. Nhờ đó, bài thơ đã làm nổi bật được cái hồn của Vườn Huế mà khổ thơ tập trung thể hiện.

    Tóm lại, “Hàn Mỗ Tử” miêu tả bức tranh thôn quê sống động với những chi tiết rất đỗi thân quen, giản dị, mang vẻ đẹp bất ngờ và sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. Bài thơ khơi dậy bao cảm xúc về quê hương, làng quê Việt Nam trong lòng người đọc.

    Phần thứ hai giới thiệu một thế giới khác của Huế: sông Hương, đặc biệt là sông Hương và vẻ đẹp tĩnh lặng, trầm mặc của Huế nói chung.

    Về Vida, về Huế, về Dashan, về sông Hương, về với Hanmeitu, bạn cũng có thể cảm nhận được cái hồn, cái nhịp rất riêng của Huế. Cảnh sắc xứ Huế được Hàn Mộtu miêu tả có sông, có thẻ, có gió, có mây, có thuyền đậu dưới trăng trên bến vắng. Tất cả những điều này tạo nên một bức tranh thanh bình và thơ mộng.

    Gió theo gió và mây theo mây

    Nước buồn, bỏng ngô lắc lư.

    Hai câu thơ tả cảnh mà thắm đượm tình người. Hai dòng này gợi cảm giác chia ly, xót xa và đau buồn. Chẳng lẽ yêu đơn phương, không gặp ngọt ngào đã sớm chia lìa, cảnh tượng như vậy cũng hòa vào lòng người mà buồn bã chia lìa? Vì tâm trạng rất buồn nên dù nhìn gì tôi cũng cảm thấy buồn. Gió thổi mây bay nói chung là một chiều, nhưng đứt đoạn này, coi như không có cuộc gặp gỡ. Các từ “gió” và “mây” cho thấy rằng ngay cả nước vô hồn cũng đau buồn khi bông hoa ngô nhẹ nhàng “đẻ”

    Hai bài thơ không chỉ tả cảnh và tả tình trong cảnh mà dường như còn muốn tả cả nhịp điệu của cảnh. Đó là một nhịp điệu uyển chuyển, phiêu lãng, một nét chiêm nghiệm rất đặc trưng không tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác ở Huế. Hai câu thơ có nhịp điệu chậm rãi cũng thể hiện thành công cảm xúc trên.

    Bài về Huế phải tả trăng. Mặt trăng trong cây bút kỳ dị của Han Motu lấp đầy vũ trụ, tạo ra bầu không khí nửa thật:

    “Thuyền của ai đã cập bến trên sông Trăng đó

    Chỉ trong giấc mơ, dòng sông mới có thể trở thành sông trăng và thuyền có thể chở trăng. Ở đây, Han Motu là một người có đôi mắt rất mơ màng và đôi mắt rất trống rỗng. Xem sự thật, nó giống như một giấc mơ, thấy giấc mơ, thấy con hạc. Thơ của cái chết thật thanh tao! ngọt ngào ”(bich khe).

    Mặt trăng là biểu tượng của sự sống và vẻ đẹp của thiên nhiên. Mặt trăng còn tượng trưng cho hòa bình và hạnh phúc. Chính vì vậy, hình tượng thơ “Hàn Mỗ Tử” đã khơi dậy một niềm tin, một niềm vui, một khao khát về vẻ đẹp hoàn mỹ, thánh thiện trong lòng người đọc. Nhưng bài thơ đã được nêu ra như một câu hỏi vô vọng. Hai dòng thơ sau vừa thể hiện niềm khao khát được gặp gỡ, vừa thể hiện được nỗi niềm. Mô phỏng việc đến muộn. Chỉ có một từ “đúng giờ” và phần cuối cùng đã nói lên tất cả.

    Khổ thơ thứ ba thể hiện vẻ đẹp huyền ảo của Huế và niềm khao khát tình yêu xa vời của tác giả.

    “Mơ ước của những khách hàng ở xa, những khách hàng ở xa

    Áo sơ mi của tôi quá trắng nên không thể nhìn thấy được “

    Cụm từ “người lữ thứ từ phương xa” không chỉ thể hiện một tâm trạng khác về nỗi nhớ nhung, khao khát mà còn thể hiện một tình yêu đơn phương trong vô vọng. Vì vậy, tác giả của “Giấc Mộng Khách Từ Afar” chỉ thấy “một chiếc áo”, mà “không thấy đâu”. Cô gái này là ai? Đó là một cô gái mang sắc màu nào đó, hay một cô gái quê rung rinh trong giấc mơ của nhà thơ khiến tác giả cảm thấy một nỗi sầu thực sự? Tất cả những gì tôi biết là đây là một hình ảnh vừa gần gũi, vừa nghiêm trang, vừa xa xăm. Gần vì đã trở thành nỗi nhớ thường trực, xa vì khoảng cách về thời gian, không gian và sương mù của tình yêu không cam kết “Áo em trắng quá chẳng thấy đâu” là một câu thơ hay. Màu trắng là màu Aodai của nữ sinh Huế, đồng thời đây cũng là gam màu gợi lên sự trong trắng thuần khiết, hoàn hảo cho cô gái trong mộng của bạn. Còn “Áo Taibai” ẩn hiện trong sương mù nắng mưa hư ảo, hơn nữa tông màu khói khó nhận biết và đơn phương.

    Vậy tình yêu của những cô gái nông thôn ngày nay có bền chặt không? “Ai biết tình ai dạt dào?”.

    Trong cơn đau nặng, nhà thơ vẫn có phút thư thái thanh tịnh, nhìn cảnh quê gần gũi, tình như mộng, tạo nên “hòn ngọc thơ mộng, sáng ngời ngàn năm” Chuẩn bị hoa lan.

    Tất nhiên, bài thơ này có nguồn gốc và cảm hứng cụ thể, nhưng qua phân tích, chúng ta có thể thấy rằng tác phẩm đã vượt ra khỏi ranh giới cụ thể và đạt đến tầm khái quát của nghệ thuật. Cao đến tuổi thọ mở rộng.

    Đây Làng Vida của Han Motu không chỉ là một bài thơ bày tỏ tình yêu với một cô gái Huế, thậm chí không dành riêng cho một làng quê cụ thể, mà là một lời tâm sự nghiêm túc, những lời trăn trối của nhà thơ Han Motu về cuộc đời quá đau thương. và quá sâu.

    8. Phân tích Phần 1 Đây là Làng Vida

    Han Maktu là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào Thơ mới, với sức sáng tạo dồi dào và lối hành văn ấn tượng. “The Village is Vader” là bài thơ đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Han Maktu, là bức tranh hài hòa giữa cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng và tâm hồn nghèo đầy chiêm nghiệm của bản thân trữ tình. .

    Trong khổ đầu của bài thơ, nhà thơ Hàn Mưu đã chỉ ra khung cảnh thiên nhiên bình dị, đẹp đẽ và trong trẻo của làng Ngụy:

    “Thà về làng chơi, thấy nắng mới vườn xanh như ngọc, lá tre xen kẽ chữ”

    “Đây là làng Vida” được viết dựa trên món quà mà Han Maitu nhận được từ hoa cúc hoàng gia, một tấm thiệp in hình khung cảnh mộng mơ của xứ Huế và lời mời chân thành, ấm áp. Sao anh không đến chơi làng “.

    Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ với giọng điệu nhẹ nhàng, tha thiết, vừa trách móc vừa giận hờn, vừa chân thành mời gọi những người phụ nữ xứ Huế. Vấn đề cũng là sự tự trách của nhà thơ, không thể trở lại mảnh đất lớn nơi nhà thơ đã từng có những kỷ niệm khó phai mờ. Hoàn cảnh hiện tại không cho phép nhà thơ đến thăm Vader, nhưng Hamatu đã vẽ nên bức tranh sống động và độc đáo về Vader bằng tất cả nỗi nhớ và kỷ niệm của mình.

    “Ngắm mặt trời mới mọc”

    Veda là ngôi làng nổi tiếng với nghề trồng rau truyền thống, với những hàng trầu xanh thẳng tắp. Hình ảnh cây trầu bà trong các bài thơ của Han Maitu được miêu tả sinh động với màu xanh ngọc bích của lá trầu và ánh nắng vàng tinh khiết lúc bình minh. “Nắng” được lặp lại hai lần, vừa gợi ấn tượng về ánh sáng vừa thể hiện sự hào hứng, phấn khởi của nhà thơ trước cảnh đồng quê hùng vĩ. Lỡ làng Ngụy, tâm hồn thi sĩ Han Maktu cũng ánh lên niềm xúc động trong sáng.

    “Vườn ai xanh như ngọc”

    Cảnh khu vườn xanh tươi, làng Ngụy rực rỡ trông đẹp đến ngỡ ngàng, để tăng thêm hiệu quả thẩm mĩ, tác giả Han Maktu đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ ấn tượng “xanh như ngọc”. Màu xanh trong vắt của lá trở nên lấp lánh dưới nắng, rất đặc biệt. Cách dùng từ “lánh” của tác giả rất tài tình, không chỉ gợi tả sự mượt mà, tươi tốt của khu vườn mà còn phản ánh sự khéo léo, cần mẫn của người làm vườn.

    Trong dòng cảm xúc miên man, khung cảnh mục đồng đẹp xao xuyến lòng người thấp thoáng sau bụi tre thật đặc biệt:

    “Lá tre chen nhau lấp ló”

    Khuôn mặt chữ điền mang đến cảm giác dịu dàng thân thiện, cho người đọc khái niệm, đây là bóng dáng của một cô gái Hàn Mặc bị thương chết sao? Nhìn từ xa được ngăn bằng bè tre nhưng lại mang đến cảm giác thót tim cho người xem. Từ trước đến nay, cảnh vật và con người đã hòa làm một, tạo thành một bức tranh đẹp nên thơ trong trẻo.

    Chỉ trong 4 bài thơ ngắn ngủi, tác giả Han Maktu đã vẽ nên bức tranh sống động và gợi cảm của Vader với cảm xúc đắm say, tràn đầy tình yêu với chủ đề trữ tình.

    9. Cảm nhận bài thơ Đây là làng Vida

    Hàn Mai Tử là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền thơ ca Việt Nam. “Làng Vida đây” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ. Bài thơ để lại trong lòng người đọc một hồn thơ độc đáo.

    Đến với phần đầu tiên, độc giả sẽ cảm nhận được bức tranh thiên nhiên vùng quê tươi đẹp:

    “Sao anh không về làng chơi? Nhìn nắng mới trong vườn xanh như ngọc, có lá trúc che mặt”

    Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về làng chơi?”. Câu hỏi này gợi cho người đọc hiểu theo hai cách. Đây có thể là vấn đề của dân làng lớn của tác giả. Bởi theo câu chuyện, Han Maitu được một cô gái làng chơi lấy cảm hứng viết bài thơ, khi nhà thơ bị ốm nặng. Cô ấy gửi một tấm bưu thiếp có ảnh ngôi làng và nó nói tại sao anh ấy không về thăm làng. Đó cũng có thể là lời của chính tác giả, Han Motu tự hỏi mình. Lúc này, nhà thơ dù rất nhớ quê hương nhưng không thể quay về. Dù thế nào thì ta cũng thấy được nỗi nhớ quê da diết của nhà thơ và nỗi nhớ quê da diết.

    Đoạn thơ sau miêu tả hình ảnh thiên nhiên của Làng Vida. Hình ảnh đầu tiên xuất hiện: “Hãy nhìn vào mặt trời, một mặt trời mới sẽ mọc”. Ánh nắng ban mai đã bao trùm khắp ngôi làng. Để sử dụng cụm từ “see the sun” – “nắng mới” thể hiện một không gian tràn đầy sức sống. Ánh sáng của một ngày mới, trong lành và ấm áp, mang đến một luồng sinh khí mới. Tiếp đến khổ thơ thứ ba là câu hỏi tu từ: “Vườn ai xanh như ngọc”. “Ai” là một đại từ tầm thường, và nhà thơ không biết đó là vườn của ai. Từ “mượt” gợi cảm giác xanh tươi của sức sống tỏa sáng khắp khu vườn. Sự tương phản của “xanh như ngọc” làm chúng ta liên tưởng đến bài thơ của Xuandie:

    “Qua lá đổ qua bầu trời xanh, mùa thu đến rồi – nơi cất lên tiếng nói của huyền thoại”

    (bài thơ dễ thương)

    Cuối cùng, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của con người xứ Huế trong câu thơ: “Lá tre che mặt lấp ló”. Trong không gian thiên nhiên ấy, con người chỉ xuất hiện thoáng qua. Hình trên gợi cho người đọc hai cách hiểu. Những gương mặt dân làng thấp thoáng sau lũy tre. Khuôn mặt thập phần hàm ý ôn nhu nhân hậu, chẳng lẽ lại là khuôn mặt của một cô gái Hàn Quốc vạn người mê? Hoặc có thể là khung cửa sổ đệm thấp thoáng sau rặng tre. Dù thế nào, Hàn Mai Tú cũng muốn thể hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế, cũng như tình yêu của mình đối với con người và cảnh vật nơi đây.

    Đối lập hoàn toàn với bức tranh thiên nhiên tươi sáng ở vùng quê tươi đẹp là bức tranh sông nước đêm trăng:

    “Gió theo gió, mây theo mây, nước xót xa, hoa ngô rung rinh”

    Hai dòng đầu tiên của phần thứ hai, mặc dù là mô tả về khung cảnh, nhưng đọc với một cảm xúc. Hình ảnh thiên nhiên ám chỉ sự chia ly “gió cuốn theo gió, mây bay theo mây”. Nếu trong tự nhiên, gió và mây là những thứ mãi quấn lấy nhau thì ở đây lạnh lùng, hãy để “mây và gió” chia cắt chúng. Chúng tôi tự hỏi đây là sự chia cắt tự nhiên hay sự chia cắt nhân tạo? Ngay cả nước – một vật vô tri, vô giác nhưng nay đã có cảm xúc qua con mắt của nhà thơ. Nước “buồn” – một biện pháp tu từ nhân hóa khiến dòng sông như một con người, một tâm trạng. Cuối cùng là hình ảnh “hoa ngô đồng” – những bông hoa ngô đồng nhỏ trôi theo dòng nước, giống với cuộc sống lang thang của con người.

    Ngoài ra còn có bản đồ sông đêm trăng, làm sao có thể có được nếu không có ánh trăng:

    <3

    “Trăng” đã trở thành một biểu tượng thơ quen thuộc. Đặc biệt trong thơ chữ Hán, vầng trăng xuất hiện nhiều lần. Mặt trăng đôi khi được ẩn dụ và đôi khi được nhân hóa, tạo cho nó một phong cách độc đáo và khác biệt, chẳng hạn như:

    “Vầng trăng nằm trên cành liễu, đợi gió đông về”

    (ngại ngùng)

    Hoặc ánh trăng đôi khi có thể trở nên điên rồ:

    “Tôi nằm trong miệng núi lửa đêm đó và thức dậy nôn ra máu”

    (Ánh trăng)

    Trong “Đây Làng Vida” là “Sông Trăng” – một hình ảnh gợi nhớ đến vầng trăng vàng phản chiếu trên mặt nước. Ánh trăng rải khắp sông tạo thành sông trăng. Cuối phần là câu hỏi tu từ “Có đưa trăng về kịp không?”. Tác giả dùng từ “đúng lúc” để diễn tả sự lo lắng. Bởi vì đối với người bình thường, nếu không kịp trở về “Tối nay”, sẽ có những đêm khác, nhưng đối với Hàn Lập, mỗi đêm đều có thể là đêm cuối cùng.

    Khổ thơ cuối là dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình:

    “Mộng khách phương xa, khách phương xa, áo em trắng quá xem đây sương mờ, ai biết tình ai giàu?”

    Giữa không gian mờ ảo giữa “Trí tưởng tượng và Giấc mơ” của “Cảnh và người”. Cảnh đi từ thực đến ảo, từ vườn làng đến sông trăng, rồi cuối cùng chìm vào màn sương mờ ảo. Hai chữ “khách phương xa” như một cú điện thoại chân tình, Hàn Mãu nhớ quê, phải mặc cảm trong cuộc chia ly. Câu hỏi tu từ “Ai biết thương ai giàu?” Nhân vật trữ tình tự hỏi cả người và mình, nửa gần, nửa xa, nửa ngờ, nửa giận, nửa trách. Khi đại từ thông tục được sử dụng càng làm tăng thêm sự cô đơn, trống trải của những tâm hồn khao khát được sống và được yêu thương. Thơ làm mờ đi hình ảnh của khách thể và chủ thể trữ tình, đồng thời một nỗi ám ảnh đau đáu nảy sinh trong nỗi day dứt, khôn nguôi và tuyệt vọng của nhà thơ.

    Qua sự phân tích trên, người đọc cảm nhận được cảm xúc thơ mạnh mẽ, luôn khát khao đồng cảm với cuộc đời của Hàn Mưu. Bài thơ “Làng Vida đây” gợi bao cảm xúc trong sáng và sâu lắng.

    10. Phân tích Phần 2 Đây là Làng Vida

    “Làng Taiye! Bạn có thể che một cành tre mà không bị say không?”

    Vẻ đẹp của làng quê trong câu ca dao thật ấn tượng. Xinh đẹp, đượm buồn, ấm áp đã thu hút biết bao người đắm chìm, để rồi có một người đã tặng chúng ta một bài thơ độc đáo “Đây thôn có một không hai” – Han Maitu.

    Buổi tối đẹp đẽ, khu vườn xanh tốt, vững chãi trong ánh bình minh, những con người hiền lành và tốt bụng thấp thoáng sau những cành lá tre thanh tao. Vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng cùng những dòng sông hiền hòa:

    “Gió theo gió, mây về mây, nước buồn, hoa ngô đung đưa thuyền, đêm nay trăng có về được không?”

    Hai câu đầu tác động sâu sắc đến hình tượng Vân Vận và Phong Vân. Thơ cho chúng ta những cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng gió và mây là những thứ gắn kết và luôn bên nhau nên giờ đây, “gió cuốn theo mây, gió cuốn theo mây” nghĩa là vạn vật đều tan thành mây khói. lên. Điều này phù hợp với tâm trạng của tác giả. Nhưng với thiên nhiên, khi gió to, mây cuộn, gió thổi mây bay đi. Nơi đây trong đêm lớn Huế toát lên vẻ đẹp dịu dàng, thơ mộng. Ở đây, mây đang lơ lửng trên cao, gió thổi hiu hiu gợi lại một nỗi buồn nào đó, phù hợp với tâm trạng của chính tác giả.

    Mỗi lần xuất hiện cảnh vật đều gợi lên một cảm giác bùi ngùi. Ngay cả dòng nước chảy cũng không nằm ngoài tiếng nói đời thường ấy: “Nước buồn hoa nằm”. Vùng nước sâu thẳm của nỗi buồn bên ngoài hay đó là “nỗi buồn” lan tỏa và bao trùm lên những cảm xúc bên ngoài. Trên bờ sóng, những bông hoa ấy cũng thấm đẫm cảnh buồn bã ấy nên chỉ khẽ động lòng. Chúng ta cũng bắt gặp hình ảnh hoa ngô đồng trong nhiều bản kinh, nhưng ở đâu cũng thấy buồn. Đó là câu thơ của Xuân Xuân Xuân:

    “Lá ngô nằm bên sông, sông còn gió lặng chẳng ai về”

    Hay nỗi buồn khi thấy hoa trải dài trong lòng người đọc:

    “Ai muốn trồng khóm lau sậy gió để người buồn”

    Dù là nỗi buồn chia tay và nỗi buồn nhớ nhung, khung cảnh bờ sông và những bãi ngô bên bờ sông lại mang đến cho người ta một nỗi buồn man mác. Điều này cũng đúng với những dòng sông và hoa ngô của Hanmotu, với vẻ đẹp dịu dàng và thơ mộng của chúng. Thiên nhiên thật đẹp nhưng cũng thật lạnh lùng, dường như phản ánh tâm trạng u uất, cô đơn của nhà thơ trước sự xa cách và sự thờ ơ của cuộc đời đối với mình.

    Thời gian uyển chuyển trong cảnh sông nước thơ mộng. Đột nhiên, khung cảnh biến thành một đêm trăng huyền ảo:

    <3Hai dòng dưới đây cho thấy tâm hồn nhà thơ tuy buồn, cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu với thiên nhiên xứ Huế. Đây là một cảnh tượng hiện thực hợp lý, bởi sông không còn là sông sóng mà là sông ánh sáng, lung linh ánh trăng vàng, hay một luồng ánh sáng chảy khắp vũ trụ khiến không gian trở nên nghệ thuật hơn. Ảo tưởng, hão huyền.Vì điều này, con thuyền thật trên sông trở thành hình ảnh trong giấc mơ, dừng lại ở bến tàu Moon River, chở vầng trăng đến bến tàu nào đó trong giấc mơ. nó là con tàu của ai? Thuyền lớn của dân làng hay thuyền của chính tác giả? Tôi không biết nữa, chỉ có trăng tròn trên tàu. Bằng bút vẽ giàu trí tưởng tượng và trí tưởng tượng phong phú của mình, Han Maktu đã phác họa ra phía đẹp nhất của sông Hương, đó là một thế giới thần tiên thơ mộng dưới ánh trăng. Đến câu hát cuối, con thuyền, dòng sông và ánh trăng trong kí ức quá khứ được nối với tâm trạng hiện tại của nhà thơ, bởi vì nhà thơ muốn con thuyền chở trăng ngược dòng thời gian về đêm nay chứ không phải đêm nào? Con thuyền đã trở thành con thuyền dành cho những du khách đặc biệt, nó có thể cập bến vào một thời điểm nhất định không? “Đêm nay” ấy có phải là một đêm rất buồn và hiu quạnh, nơi nhà thơ có một tâm sự mà chỉ có trăng mới có thể hiểu được? Điều đó cho thấy Hàn Mưu rất yêu trăng, rất yêu Huế, cảnh vật và con người nơi đây, nhưng dường như người dân Huế và Huế chưa hiểu và không đáp lại tình yêu ấy nên nhà thơ đã nhìn trăng và thích một người để trút bỏ nỗi cô đơn, nỗi cô đơn và những mặc cảm bệnh tật.

    Toàn bộ bài thơ “Làng Vida đây” là một tác phẩm nghệ thuật khiến người đọc phải suy nghĩ nhiều. Bằng những biện pháp tu từ và óc quan sát nhạy bén và con mắt tinh tường của mình, Han Maitu tiếp tục vẽ rõ hơn ngôi làng trong khổ thơ thứ hai. Sông Hương, non nước, mây trôi, con thuyền, ánh trăng, đặc biệt là một trái tim yêu thiên nhiên, khao khát, yêu cuộc sống và khao khát thiên nhiên của con người, nhà thơ sẽ khiến lòng người nao nao. Ngủ ngon xứ Huế mộng mơ, nơi có đôi mắt đau.

    11. Phân tích đây là Làng Vida của 2 phần đầu tiên

    Ngôi làng Vida này là một tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tạo của Han Maitu. Bài thơ được lấy cảm hứng từ một tấm thiệp với hình ảnh phong cảnh của những bông hoa cúc vàng – người mà Han Motu thầm thương trộm nhớ – và được viết vào những năm cuối đời, khi nhà thơ đang điều trị bệnh hiểm nghèo trong trại. Feng Suihe.

    Hai khổ thơ đầu của bài thơ miêu tả cảnh và người xứ Huế vừa trong sáng, vừa êm đềm, vừa đượm buồn.

    “Sao anh không về làng chơi? Nhìn nắng lên, vườn xanh, nương rợp lá tre”

    Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ “Sao anh không về làng chơi”. Câu hỏi này vừa là một lời nhắc nhở, vừa là một lời mời, và nó có thể là một lời quở trách nhẹ nhàng. Dường như tác giả đang tự phân trần, tự vấn lòng mình, một điều mà lẽ ra đã từ lâu nhưng không thể thực hiện được: một chuyến thăm lại Làng Vida. Những sắc thái đan xen ẩn chứa trong những câu hỏi tu từ gợi cảm ấy thể hiện khát vọng trở về đêm lớn của nhà thơ, đặt câu hỏi với một nỗi niềm thầm kín không dễ giãi bày.

    Sau câu hỏi tha thiết này, hình ảnh làng quê thanh bình, yên ả dần hiện lên trong trí nhớ nhà thơ:

    “Nhìn nắng vườn xanh mướt, lá tre che mặt”

    Trong khu vườn xinh đẹp ấy, “mặt trời trầu cau” tinh khôi, trong trẻo đã thu hút và thu hút bao ánh nhìn của nhà thơ. Những cây trầu bà vươn mình đón những tia nắng đầu tiên do thiên nhiên ban tặng, khoe sắc trong nắng lấp lánh. Vẻ đẹp của khu vườn đẹp đến nỗi nhà thơ bỗng thốt lên đầy vui sướng: “Vườn ai xanh như ngọc”. Tính từ “mượt mà” kết hợp với mức độ “quá” gợi vẻ đẹp mượt mà, óng ả, tươi tắn, đầy sức sống của cây cối trong vườn. Hình ảnh tương phản “xanh như ngọc” gợi vẻ đẹp quý phái duyên dáng của khu vườn, những tán lá xanh mượt được “ánh nắng của cây trầu bà” chiếu sáng lên màu xanh ngọc bích tuyệt đẹp. Cả khu vườn không chỉ được nuôi dưỡng bởi sương đêm và ánh sáng mặt trời mà còn được con người chăm sóc rất kỹ càng khiến nó trở nên tươi đẹp hơn.

    Trong một phong cảnh tuyệt đẹp, bóng dáng một cô gái áo gấm hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng và kín đáo:

    “Lá tre che mặt tôi”

    Đằng sau những chiếc lá trúc mảnh mai, khuôn mặt đầy nhân hậu toát lên một vẻ đẹp dịu dàng và nhân hậu. Vẻ ngoài của một người là thận trọng, dè dặt và nhẹ nhàng, giống như bản chất của con người. Chắc hẳn các em yêu thiên nhiên và cuộc sống tác giả đã để lại trong tâm trí các em những bức tranh đẹp và sống động như vậy.

    Đằng sau bức tranh hòa quyện giữa cảnh và người, có lẽ ẩn chứa một nỗi niềm bất khuất chứa đựng một tâm sự “Tôi”:

    “Gió theo gió, mây theo mây, nước chảy, hoa ngô đồng rung rinh”

    Tác giả khéo léo sử dụng nghệ thuật nhân hoá để miêu tả chuyển động và trạng thái “gió cuốn theo chiều gió, mây bay theo mây”. Cách ngắt nhịp 4/3 giống như cắt đôi câu thơ, như tách đôi trái phải. Hình ảnh mây gió trong thiên nhiên luôn đi cùng gió Mây bay theo gió Khi gió thổi mây bay. Vì vậy, gió và mây trong bài thơ có cảnh chia cắt Gió và mây là hai hướng, hai con đường, hai hướng. Với người sáng tác, điều đó thật nực cười, nhưng với sự mặc cảm tự ti của người viết lời lúc bấy giờ, đó là một giai điệu phù hợp.

    Nước sông Hương dường như thấu hiểu tâm trạng nhà thơ và cũng mang nặng nỗi lòng “sầu bi”. Dòng nước lặng lẽ trôi, những bông ngô đồng khẽ đung đưa bên bờ, mặt nước rung rinh – cảnh vật vắng lặng, động tĩnh, phảng phất vẻ buồn man mác. Có lẽ là do giờ phút này, tác giả không còn dùng ánh mắt bình thường nữa, mà cảm nhận cảnh tượng ấy bằng trái tim trong tim. Đó là trái tim của một người, mang nặng cảm giác tội lỗi khi ra đi, từ biệt thế giới trong khi linh hồn vẫn còn sống.

    <3

    Không gian sáng trăng trên sông đầy hư ảo, vừa thực vừa ảo. Vầng trăng hòa vào làn nước xanh biếc tạo nên vẻ lung linh thơ mộng. Moon River đưa thuyền về bến, Moon Pier chờ thuyền dừng, liệu đêm nay thuyền đưa trăng về bến kịp? Những câu hỏi nghiêm túc chứa đựng cả sự lo lắng và chờ đợi và mong đợi. Từ giản dị “vừa phải” khiến ta liên tưởng nhiều đến chàng thơ trẻ. Han Motu hiểu rõ thực tại ngắn ngủi hơn ai hết, cái chết đang cận kề nên phải nắm chắc từng phút từng giây, chạy đua với thời gian và sự sống. Nếu con tàu vẫn đưa trăng về bến “đúng lúc” thì “ta” còn nói chuyện được, nhưng nếu không “kịp” thì nhà thơ tội nghiệp sẽ rơi vào nỗi cô đơn, đau đớn muôn đời. Đoạn thơ cuối bài là thật đáng buồn và đáng thương, có lẽ Ngay cả với Han Maitu, cuộc sống của một người cũng rất hạnh phúc.

    Vẻ đẹp thiên nhiên và niềm say mê yêu đời của nhà thơ được thể hiện qua hai khổ thơ rất rõ ràng, độc đáo và giàu sức biểu cảm. Qua đó thấy được tâm hồn nhân hậu, coi trọng lẽ sống mạnh mẽ của tác giả, từ đó biết trân trọng cuộc sống, trân trọng khoảnh khắc, để lại không nuối tiếc.

    Vui lòng tham khảo phần Tài liệu – Tài liệu của hoatieu.vn để có thêm thông tin hữu ích.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *