Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm

Qua bài viết này mvatoi.com.vn xin chia sẻ với các bạn thông tin và kiến thức về Phân tích bài thơ người chinh phụ hay nhất được tổng hợp bởi mvatoi.com.vn

phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong chinh phụ ngâm vừa đượcvndoc.com sưu tầm. bài viết cho thấy thấy được tâm trạng khát khao tình yêu của người chinh phụ, đoạn trích còn bày tỏ sự oán ghét chiến tranh đã ngăn cách hạnh phúc lứa đôi.mời các bạn cùng tham khảo chi tiết và tải về bài văn mẫu dưới đây nhé.

  • bài văn mẫu lớp 10 số 5 đề 1: thuyết minh về tấm gương học tốt của lớp em
  • bài văn mẫu lớp 10 số 5 đề 2: thuyết minh về một món ăn đặc sản
  • soạn bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Đặng trần côn) siêu ngắn
  • dàn ý chi tiết bài phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong chinh phụ ngâm

    1. mở bai

    – giới thiệu sơ lược, khái quát về bài thơ “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” của tác giả Đặng trần côn.

    2. thanks bai

    – tâm trạng cô đơn của người chinh phụ trong những năm tháng lẻ loi

    + nỗi cô ơn, buồn tủi của người chinh pHụ đã ược tái hiện thông qua hành ộng lặp đi lặp lại “gieo từng bước” và ưa ang mắt xa xa xa Xhng ra ngo ứt ứt ợt ợt ứt ứt ứt lanh.

    + ngọn đèn leo lét giữa đêm khuya không đủ sức san sẻ và sưởi ấm nỗi lòng cô đơn đến giá lạnh, “bi thiết” của ngƥp.</

    + điệp từ “gượng” ược lặp lại hai lần đã diễn tả thành công hành ộng mang tính chất thụ ộng, gượng gạo của ngƱhời tron ​​chin.

    – nỗi nhớ thương, trông mong người chinh phu quay về

    + nàng gửi gắm nỗi nhớ vào “gió đông” đến miền biên ải xa xôi – nơi “non yên”

    + nỗi nhớ thương ối với người chinh phu đã ược bộc bạch một cach trực tiếp: “nhớ chàng thăm thẳm ường lên bằng trời”, “nỗi nhớ chàng đau àu àu nào nào”.

    – Đánh giá về giá trị nhân đạo và hiện thực của tác phẩm thông qua dòng tâm trạng của nhân vật trữ tình.

    + giá trị hiện thực: thể hiện số phận bi kịch của người phụ nữ (là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa); thể hiện sự bất công của chế độ xã hội phong kiến.

    + giá trị nhân đạo: là tiếng nói xót thương, đồng cảm của tác giả đối với thân phận người phụ nữ; đề cao niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình của người chinh phụ; lên án, tố cáo chiến tranh phong kiến.

    3. kết bai

    – khẳng định lại giá trị nội dung và đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”

    phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong chinh phụ ngâm mẫu 1

    chinh phụ ngâm được viết bằng chữ hán, do tác giả Đặng trần côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ xviii. Đây là thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. chiến tranh xảy ra liên miên, hết lê – mạc đánh nhau đến trịnh – nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. ngai vàng của nhà lê mục ruỗng. nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. văn học thời kì này tập trung phản ang bản chất tàn bạo, phản ộng của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế ộ ộ ối tác phẩm chinh phụ ngâm của Đặng trần côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp nho sĩ. nhiều bản dịch xuất hiện, Trong đó bản dịch sag chữ nôm của bàn đoàn thị điểm ược coi là honn hảo hơn cả, thể hiện thành công giá trịi nội dung và nghệ thu

    nội chinh pHụ ngâm pHản angai ộ oan ghét chiến tranh phong kiến ​​phi nghĩa, ặc biệt là ề ề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh pHúc lườa ủa ủa ủa ủa cable. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.

    người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. she nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, she nàng sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng of her. thấm thía nỗi cô đơn, she nàng nhận ra de ella tuổi xuân của mình đang qua đi và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày càng xa vời. người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực. khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn ấy.

    đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 ến câu 228) Miêu tả những cung bậc và sắc this khác nhau của nỗi cô ơn, buồn khổ ở và hạnh phúc lứa đôi.

    Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:

    đoạn 1: từ dạo hiên vắng thầm gieo từng bước … ến dây uyên kinh ứt, phÍm loan ngại chùng: nỗi cô ơn của người chinh phụ cụ trong; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không được.

    Đoạn 2: từ lòng này gửi gió đông có tiện… đốn sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi: nỗi nhớ thương ngườgi Ɵ; cảnh vật khiến lòng nàng thêm sầu thảm.

    Đoạn 3: từ vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc… đến trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!. cảnh vật xung quanh khiến lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc.

    sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo chắng cho. một lần nữa ella nàng tự hỏi vì sao đôi lứa uyên ương lại phải chia lìa? vì sao she mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? bấy nhiêu câu hỏi đều không có câu trả lời. tâm trạng băn khoăn, day dứt ấy được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. có thể nói, sầu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.

    trong mười sáu câu thơ đầu, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của người chinh phụ:

    dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcngồi rèm thưa rủ thc đòi phen.ngoài rèm thước chẳng mách tin, trong rèm dường đcn bi. rầu nói chẳng nên lời, hoa đèn kia với bong người khá thương!

    nàng lặng lẽ dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi cô đơn đang tràn ngập tâm hồn. nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng.

    giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. she nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng chim thưỳc báoẺạ y vui mà

    nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. không gian im ắng, chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng. lúc ầu, she nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi she lại nghĩ: đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi và vết nóic. nhìn ngọn đèn chong suốt nĂm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, she nàng chợt liên tưởng ến of her tình cảnh của mình và trong lòng rưng rưng nỗi thân tớn “hotn: hot : hello we.

    hình ảnh người chinh pHụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt nĂm ượ ượ ượ ượ ượ ượ. phụ.

    tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài phòng, trong phòng. nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng.

    cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng ới ủu: n

    gà eo óc gáy sương năm trống,hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.khắc giờ đằng đẵng như niên,mối sầu dằng dặc tựa mi.

    tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. cây hòe phất phơ rủ bóng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng. giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào!

    Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:

    hương gượng đốt hồn đà mê mải,gương gượng soi lệ lại châu chan.sắt cầm gượng gảy ngón đàn,dày uyên kinh ĺṹm châu t, loan

    người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. she nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng of her. chạm ến đu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi ơn chiếc, khi hương gượng ốt thì hồn nàng lại chìm ẏẻm vài loth n. lúc gương gượng soi thì she nàng lại không cầm ược nước mắt bởi vì her nhớ gương này her mình cùng of her chồng of her đã từng chung bong, bởi vì her phải ối diệi hình ảnh ảnh đ Nàng Cố Gảy Khúc đàn Loan Phượng Sum vầy Thì lại chạnh Lòng vình cảnh vợ chồng đang chia lìa đy ngả, ầy những dự cảm chẳng lành: dây usên kinh ứ ứ ứ ứ

    sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. DườNG NHư NGườI CHINH PHụ KHôNG DAMA ụNG TớI BấT Cứ THứ Gì vì vì chung nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm ến sự chia xa đôi lứ tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, she nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió:

    lòng này gửi gió đông có tiện?nghìn vàng xin gửi đến non yên.non yên dù chẳng tới miền,nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng tr.

    sau những day dứt của một trạng thati bếc cao ộ, người chinh phụ chợt có một ý nghĩ rất nên thơ: nhờ gió xuân gửi lòng mình tới ng ường ởng ầng ầ ầng ầng ầng ầng ầng ầng ầng ầng ầng ầng ầng ầng. she kiếm chút tước hầu. chắc chắn, she chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đình với bóng dáng thân yêu của mẹ già, vợ trẻ, with thơ:

    non yên dù chẳng tới miền,nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

    không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vô biên: nhớ chàng thăm thẳm ổng lên bên. thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm with đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm with đường lên trời. câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong văn chương nước ta thời trung:đ

    trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

    hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. ? nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đớn đau cho thể xác:

    cảnh buồn người thiết tha lòng,cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

    giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. cảnh vật xung quanh người chinh pHụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi ược nhìn qua đôi mắt ẫm lệ buồn thương cho thân phất h cn bô, sự giá lạnh của tâm hồn tâm cũng giọt sương ấy ọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao són tình cảnh ấy, tâm tâm hội cũ không ược sống hạnh phúc, ồng thời cũng thánh thái ộ ộ á án án án án án aman álca aman aman aman aman alka aman alka aman alca aman aman aman aman aman aman aman aman aman aman aman aman aman áman áman áman áman áman álá.

    bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trở về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn:

    sương như búa, bổ mòn gốc liễu, tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

    hình như người chinh phụ đã thấm thía sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. tuy nhiên ến câu: sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thì không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người phụ chỉ mới thất mọt vọt.

    tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong chinh phụ ngâm:

    vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc, một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.lá màn lay ngọn gó xuyên, bong hoa Theo bony từng bông.nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!

    ý thơ đi từ tình ến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứi qua dội lại như vậy nhằm thể hi hi rich tâm trạng ở đ đu, lúc nào, làm gi … m. /p>

    từ thốc rất mạnh trong câu một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. cảnh hoa – nguyệt giao hòa khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa đôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.

    tac giả lựa chọn và dùng từt kĩ, rất ắt: dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, sương như búa, bổ mòn gốc liễu, tuyết dường cưa, xẻ thành công hàng loạt từ láy: eo Óc, phất phơ, ằng ẵng, dằng dặc, mê mê mê mê mêi chan, thăm thẳm thẳm, đau … về đhu, đu, tá. PHÁT HUY MộT CACH Tài TìnH NHạC điệu du dương của thể Thơ Song Thất Lục Bát, Giống NHư NHữNG ợT SONG DạT DàO, DIễN TảM TRạNG NG NG

    bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm ảm củi. cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật.

    thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì chồng pHải tham gia vào những cuanh giành quyền lực của các vua cú cú, túc ệ ệ đ đ đ đ đ đ đ đ thần phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. tác phẩm chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương; một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của with người.

    phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 2

    ặng trần côn (chưa riqute năm sinh, năm mất) người làng nhân mục, tên nôm là làng mộc, huyện thanh trì, nay thuộc phường nhân chynh, quẙn hành, quẙ. Ông sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ xviii. về sáng tác, ngoài tác phẩm chính là chinh phụ ngâm, ông còn làm thơ chữ hán và viết một số bài phú chữ hán. theo các tài liệu lịch sử, đầu đời lê hiển tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành thăng long. triều đình cất quân đánh dẹp, nhiều trai trải từ giã người thân ra trận. Đặng trần côn cảm động trước nỗi khổ đau mất mát của con người, nhất là những người vợ lính trong chiến tranh, đchin ã viế. khúc ngâm này gồm 476 câu thơ làm theo thể trường đoản cú (câu thơ dài ngắn không đều nhau).

    tác phẩm đã được dịch ra chữ nôm, và chưa biết ai là tác giả bản dịch hiện hành. có người cho rằng đó là bản dịch của Đoàn thị Điểm. lại có người cho rằng phan huy Ích chính là dịch giả của chinh phụ ngâm.

    đoạn trích dưới đy thuộc bản dịch hiện hành, viết về tình cảm và tâm trạng người chinh pHụi sống cô ơn, mòn mỏi Trong thờng ngường đng ứng õNg õHõNC, thõng.

    kể từ lúc tiễn chồng vào “cõi xa mưa gió” người chinh phụ trở về sống trong tình cảm đơn chiếc, lẻ loi. ngày cũng như đêm, sau khi công việc đã yên mọi bề, người chinh phụ

    dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

    ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

    ngoài rèm thước chẳng mách tin,

    strong rèm, dường đã có đèn biết chăng?

    bốn câu thơ song thất lục bát với vần điệu chặt chẽ, thăng trầm như những nốt nhạc buồn càng làm ậm thêm tình cảnh cảnh. người trước có lúc sóng đôi vợ chồng thì nay “thầm gieo từng bước” dưới mái hiên vắng vẻ. ngày nào bàn chuyện làm ăn cùng chồng bên cửa sổ thì nay buông xuống kéo lên nhiều lần mong ngóng nhưng chẳng thấy chim thước báo tin Lành. Ngày thì như thế, còn đêm thì không ngủ ược, một mình ối diện với ngọn đèn khuya. tình cảnh của người chinh phụ qua lẻ loi, ơn chiếc. với bóng lạnh lùng.

    khắc giờ đằng đẵng như niên,

    mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

    hai câu lục bát, một câu miêu tả thời gian, một câu miêu tả nỗi buồn. cả hai câu đều mang nghệ thuật so sánh. Trong tình cảnh lẻ loi ấy thì một giờ là ợi dài tựa một năm, như người xưa thường ví “nhất nhật bất kiến ​​như tam thu hề”, ngày sau này xuân quỳnh tâm sự “ đầu thương nhớ”. thời gian chờ đợi càng dài thì nỗi sầu càng lớn “tựa miền biển xa”. tình cảnh đã bước qua tâm trạng. Đấy là tâm trạng nhớ thương của người chinh phụ gửi tới chồng de ella ở miền xa. nỗi nhớ thương thật tha thiết.

    lòng này gửi gió đông có tiện?

    nghìn vàng xin gửi đến non yên

    non yên dù chẳng tới miền,

    nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

    bốn câu thơ trên là lời tâm sự của vợ gửi đến chồng. nhưng chim thước không có để nhờ mang thư đi. vậy thì she gửi lời nhớ thương theo gió. nhưng gửi theo gió đông thì gió có mang lời thủ thỉ đến được tai chàng? biết she chàng đang ở nơi nào ngoài mặt trận? thôi thì lòng thương quý chàng xin ược gửi ến nơi xa nhất màng tới như ậu hi hi hi ời hậu Hán đálh đuổi giặc bắc thiền vu ến no and nhi nhi, bởi vì: <p.

    “nay hán xuống bạch thành đóng lại,

    mai hồ vào thanh hải dom qua. ”

    ời chiến binh là như thế, là “ôm yên, gối trống đã chôn, / năm vùng cát trắng ngủ cồn rêu xanh”, chưa kể ời chiến binh mấiấiỡ ngƻiẻ l. tình thương, nỗi nhớ của nàng là như thế. nhong:

    trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

    nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

    cảnh buồn người thiết tha lòng,

    cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

    dù là “trời” thì trời cũng khó mà hiểu thấu tình thương và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ. Các từ lay “Thămmm, đau đáu” Càng làm tăng thêm sự không hiểu biết, không thấy ược của trời, và chỉ cc người cuuộc (người chinh) mới cảm nhận r. cảnh thì buồn, đến cả cây cỏ và tiếng côn trùng cũng não ruột. còn tình thì da diết thiết tha.

    thơ thơ song thất lục bát vốn thích hợp với tự sự, trong đoạn trích, bản dịch lại dùng phép so sánh, từ lặp và từ láy mựthê cámựthê cáchá lựt

    ọc đoạn trích người ọc cứ ngỡ ngàng rằng chỉ ể miêu tả tình cảnh lẻ loi, thể hiện tâm trạng khát khao tình yêu cờa ngƥỰ chin. nhưng nếu nghĩ sâu xa hơn thì đoạn trích bày tỏ sự oán ghét chiến tranh. Chiến Tranh đã Chia rẽ tình yêu, ngăn cach hạnh phúc lứa đôi của nhiều thế hệ, nhất là thế hệ trẻ, cr lẽ vì thế mà tac pHẩm đã ược ộc giảc thờt sứt. nhiều người còn dịch chinh phụ ngâm sang thơ nôm (tức thơ tiếng việt) để khúc ngâm được truyền bá rộng rãi hơn. bản diễn nôm hiện hành là bản dịch thành công nhất.

    phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 3

    ra đời vào nửa đầu thế kỉ xviii với nguyên tác bằng hán văn của Đặng trần côn, chinh phụ ngâm đã mau chóng đi vào lòng mọn qu t. Trải qua hơn hai thế kỉ rưỡi cho ến nay, chinh phụ ngâm luôn giữ nguyên giá trị của một viên ngọc văn chương sáng ngời, một sản pHẩm đáng tự hàe của xứ của người chinh pHụ cho thấy rõ tâm trạng cô ơn của người vợ nhớ chồng ra trrận và nghệ thuật miêu tảm trạng bậc thầ củc ễ ễm đm đm đM đ đ đ đ đ đc đc đc đc đc. biệt xuất sắc của nữ sĩ Đoàn thị Điểm. Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụi sống cô ơn, buồn khổ trong thõi gian dài người chồng đi đánh

    “dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

    như trong kiều, nguyễn du đã từng ể ể kiều nói câu ‘pHận gai chữ tòng’, there are như trong tân hôn biệt cócc ợ ợ. muốn theo chồng. nhưng ‘hình thế phản thương hoàng)’, mà ‘phụ nhân tại quân trung/ binh khí khủng bất dương’, người vợ có chồng đi lính ại chỉ n. có chồng, nàng pha trà cùng quân đối ẩm, nhưng quân nay đi rồi, nàng đành ‘dạo hiên’. she nàng đếm từng bước chân, tựa như đếm từng ngày chồng đi, đếm từng ngày nỗi nhớ thương đong đầy trong cách trở. ‘có khoảng không gian nào đo chiều dài nỗi nhớ’ (trích ở hai đầu nỗi nhớ) hết dạo hiên, nàng lại kéo rèm. she kéo rèm xuống, nàng như nhác thấy bóng chồng khuất đi, vội kéo rèm lên, hóa ra chỉ là tình cảm và ánh nước trong mắt lừa nài dố. nhưng khi she nàng hạ rèm xuống, she nàng lại vẫn thấy mọi chuyện diễn ra như cũ, và rồi she nàng cứ vô thức lặp đi lặp lại một h…

    quân sinh ta chưa sinh

    ta sinh quân đã lão

    quân hận ta sinh trì

    ta hận quân sinh tảo

    nhưng có lẽ chỉ những người có duyên có phận lại chẳng ược gần nhau như thế mới biết ược nỗi sợ của việcỰ c kh. vì không có người, mà vì người quan trọng nhất không ở bên nàng.

    ngoài rèm thước chẳng mách tintrong rèm dường đã có đèn biết chăngđèn có biết giường bằng chẳng biếtlòng thiếp riêng bi thiết mà thôirbuẻ chenó . gà eo óc gáy sương năm trốnghòe phất phơ rủ bóng bốn bên.

    giữa thời buổi loạn lạc, nhà có người đi lính, ‘gia thư để vạn kim’, họa có mấy khi có người về báo tin chiến trận? người vợ nghe tin thắng trận cũng lo sợ, mà nghe tin thua trận cũng lo sợ, vì ‘cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?’. She không nghe tin chồng nàng chỉ có thể chời ợi trong of her sợ, nàng như chết dần chết mòn vì sự bi thiết trong lòng of her, sự bi thiết ến từ nỗi chờ mong trong cô lẻ, triền miên. Đến cả loài chim – loài có đôi cánh, có thể dang rộng bay khắp thiên hạ, cũng chẳng biết tin, há một người phòng khuê như nàng lại có thết tin? Dù she cho ‘hoàng điểu tọa tương bi’, ‘biệt li chim cũng vì người xót xa’, nhưng her nàng vẫn chẳng co người ồng cảm, tựa như bá nha mất đi tử kì, trag tửt tửt đt đt đt ‘Lệ rơi khêu ngọn đèn’, she nàng chong đèn suốt đêm, she không ngủ ược mà cũng chẳng dám ngủ-có lẽ chồng nàng sẽ về, và nàng không muốm trễm trễ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ. nhưng she gà gáy canh năm, trời sáng rồi, mà bong chàng vẫn cứ biệt tăm. ‘cành liễu ai người vin?’, chỉ có hòe phất phơ in bóng lên tường khi mặt trời của ngày mới đến. ai bảo mặt trời là hi vọng, ai bảo ánh sáng là nguồn sống? nàng chỉ biết, một ngày đã lại qua, số ngày chia cách lại tăng thêm một, nỗi nhớ trong nàng lại dâng đầy, lo sợ cũng nhƛc nưl>

    kinh thi câu ‘nhất nhật bất kiến ​​như tam thu hề’, nguyễn du gói gọn lại thành ‘ba thu dọn lại một ngày dài ghê’, ối với ng chinh phụ, ‘khắc gi’ ằ ằ ằ ằ ằ ằ ằ ẵ ẵ ẵ ẵ ẵ ẵ. niên’, mà ‘mối sầu’ thì ‘dằng dặc tựa miền biển xa’. hay cho một câu cảnh còn người mất! mùi hương vẫn còn đó, vấn vít giống như ngày chàng còn tại ‘hương diệc cánh bất diệc’, nhưng she chỉ tiếc ‘nhân diệc cánh bất lai’. gương đồng vẫn sáng, nàng vẫn soi gương, điểm trang mỗi ngày, nhưng chỉ là ‘gượng’. chồng đi lính nàng không còn tâm trí nào nghĩ tới bản thân nữa. nhớ chồng, giọt nước mắt rơi lúc nào không hay. nỗi nhớ luôn đau đáu trong lòng nàng. she lệ lại châu chan, she nàng đã khóc biết bao ngày. she nàng đánh đàn, nhưng tiếng đàn đứt đoạn, bởi nàng lo dây uyên sẽ đứt, phím loan sẽ chùng, gợi nên sự may mắn cho đôi l

    “Khắc Giờ ằng ẵng như niênmối sầu dằng dặc tựa miền biển xahương gượng ốt hồn đà mê mảng gượng soi lệi chansắt cầm gượng gảng ạnd đnd đnd đnd đnd đnd. ”

    mười Sáu Câu ầu là pHần điệp khúc bằng tiếng tỳ bà chậm rãi, day dứt – bởi sự khắc khoải trong nỗi nhớ, bởi sự triền miên và vôn – tiếng đng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng chinh phụ trong màn đêm. Ấy không chỉ là màn đêm của bong tối – mà còn là màn đêm của những lo lắng, sợ hãi; là màn đêm của những cô đơn, lẻ loi bị che khuất dưới ánh mặt trời ban ngày.

    nếu mười sáu câu ầu là đoạn điệp khúc khi mà nỗi nhớ thương và tâm trạng đau thương ược ẩy lên ến c cùt. tấm long hướng về phương xa nơi chồng đang chinh chiến chậm rãi biến nỗi cô đơn thành một nỗi đau, một nỗi đau không gì ưc. như một chữ ‘thiết tha’, nó mài, nó cắt vào ruột gan người đọc hệt như cách nó làm đau đớn lòng người chinh phụ. trước hết là một ước mong cháy bỏng đêm ngày:

    “lòng này gửi gió đông có tiện?nghìn vàng xin gửi đến non yên.”

    “lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua nhiều đợi chờ “trài mấy thu đi tin nhạn lại-tới xuân này, tin hãy vông”. gió đông là gió xuân. Trong cô ơn, người chinh phụ chỉt biết hỏi gó, nhờ gió ưa tin, nhắn tin tới người chồng yêu thương nơi chiến ịa xa xôi, nguy hiểm, nơi non yên nghìn nghìn. non yên, một địa danh cách xa thiểm tây, trung quốc hơn hai ngàn dặm về phía bắc. hỏi gió, nhờ gió nhưng”có tiện”hay không như lời nhún mình, năn nỉ ngọn gió. nhưng đó là mong ước phi thực tế, hi vọng lóe lên rồi vụt tắt ngay. chỉ có nỗi nhớ là hiện thực. :

    “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời”.

    “nhớ đằng đẵng” nghĩa là nhớ mãi, nhớ nhiều, nhớ lâu, nhớ không bao giờ nguôi. trong truyện kiều cũng cóu tương tự để diễn tả nỗi nhớ nhung: “một ngày đằng đẵng xem bằng ba jue”. câu thơ “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” là một câu thơ tuyệt bút, vừa diễn tả một nỗi nhớ thương đè nặng trong lòng, triền miên theo thời gian đêm ngày năm tháng (đằng đẵng) không bao giờ nguôi, vừa được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian (đường lên bằng trời). KHI GIảI THÍCH NGHĩA Câu Thơ Này, NGUYễN THCH Giang đã Viết: ”Lòng nhớ chồng thăm thẳm dài dằng dặc vẫn có ến ược dùc rất sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng củi ngưhờa ph. nỗi nhớ thương ấy, tiếng lòng thiết tha ấy lại ược diễn tả qua âm điệu triền miên của vần thơ song thất lục bát với tháp nghệ thuật liên-điệp ngữ. cả Một trời thương nhớ mênh mông. nỗi buồn triền miên, dằng dặc vôn tận.

    “trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

    nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.”

    trời ở cao xa, không chỉ là cao mà là thăm thẳm, không chỉ là xa mà trở nên xa vời, nên không thấu, không hiểu sao cho “nới nhớ chờ Ƨang” cỻ. nỗi nhớ càng trở nên đau đáu trong lòng of her. Đau đáu nghĩa là áy náy, lo lắng, day dứt khôn nguôi. Có thể nói qua cặp từ lay: ”ằng ẵng” và . tâm trạng ấy được miêu tả trong qua trình phát triển mang tính bi kịch đáng thương.

    Ở hai câu cuối, nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh;nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cực kì điêu luyện. tính hình tượng kết hợp với tính truyền cảm tạo nên sắc điệu trữ tình sâu lắng thiết tha:

    “cảnh buồn người thiết tha long,

    cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun. ”

    nỗi thương nhớ, lúc thì “đằng đãng”, lúc thì “đau đáu”, triền miên suốt ngày đêm. Đêm nối đêm như dài thêm. càng cô đơn thì càng thao thức. nhìn cành cây ướt đẫm sương đêm mà thâm lạnh lẽo. nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm lạnh lẽo. nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng “mưa phùn” mà thâm buồn nhớ. Âm Thanh ấy, cảnh sắc ấy vừa lạnh lẽo vừa buồn, càng khơi gợi trong lòng người vợ trẻ, côt biết bao thương ᧓ n, lon lòn lòng đau ớn như her bịt cắt xt xt xt x có thể nói hai câu thơ “chinh phụ ngâm khúc” này rất gần gũi với hai câu “kiều” nổi tiếng:

    “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

    người buồn cảnh có vui đâu bao giờ…”.

    có người nói: “hạnh phúc hay bất cứ thứ gì, thường chỉ đến lúc mất đi người ta mới biết nó từng tồn tại”. Với chinh phụ ngâm của ặng trần côn, chung ta ược ưa vào một không gian nhỏ hẹp -một không gian đong ầy nhi nhớ và sự khắc khoải, sự bấnh và bữhệh ự cuh -cuh -cuh -cuhh -cuhc m ựha ựh -cuh -cuh -cuhh -ca ựh -cuh -cuh -cuhc m ựha ựh -cuh -cuh -cuhc m ựha ca ựh -cuh -cuh -cuhc m ốc m ựha ca ựh-cui c. và bất công của chế độ phong kiến ​​​​- nơi mà những ‘dân đen thấp cổ bé họng’ không có quyền, mà chỉ có nghĩa vụ. NHữNG NGườI NHư VậY, Họ đã Không ượC Hưởng Hạnh Phúc Một Giây Phút Nào – Mà Họa Có đi Chăng nữa – ấy cũng chỉ Là phúnt giây ngắn ngủi tựa như như như khả khả khả khả khả khả khả khả chúng ta bị ặt vào vị thế của những người như thế, và xúc ộng trước khát vọng tột c cùng của họ – ược sống bình ẳng.

    qua thể thơ song thất lục bát, cach dùng từ, hình ảnh ước lệ, tac giả đã thể hi hi hi một cach tinh tế các cung bậc sắc this tình cảm khác nhau của nỗi cô khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi. Đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thông sâu sắc của tác giả với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh. cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phong kiến ​​​​phi nghĩa.

    phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 4

    văn học thế kỉ xviii là văn học của những tiếng nói cảm thương, cảm thông cho số phận bất hạnh của người phụ nữ. ngoài kiệt tác truyện kiều của nguyễn du ta cũng không thể không nhắc đến tác phẩm chinh phụ ngâm của Đặng trần côn. tác phẩm là tiếng lòng thiết tha, thổn thức của người phụ nữ khi có chồng phải ra chiến trận. tâm trạng của nhân vật được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

    theo các cứ liệu lịch sử, vào đầu đời vua lê hiển tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành thăng long. triều đình phải cất quân ra trận, nhiều trai tráng phải từ giã gia đình, người thân ra trận. có bao nhiêu những chàng trai lên đường thì có bấy nhiêu người phụ nữ, người vợ ở nhà trong nhớ thương, buồn tủi. tác giả Đặng trần côn đồng cảm với nỗi niềm của người phụ nữ để nói lên nỗi lòng của họ. Trib đoạn ược tribs từ câu 193 ến câu 216 diễn tả tâm trạng của người chinh phụ khi she phải xa chồng, thế giới tâm trạng đó ược thển qua rất nhi -cung bậc cảc cảc cảc cảc c.

    TRướC HếT TâM TRạNG BồN CHồN LO LắNG, NHớ THươNG CủA NHâN VậT ượC THể HIệN TRONG CAC HànH ộNG LặP đI LặP LạI NHIềU LầN: DạO HIêN VắNG THầM GIEO T. bước chân chậm chạp, nặng trĩu tâm trạng, trong đó chất chứa biết bao nỗi niềm chán ngán của người chinh phụ. bước chân này khác với bước chân của nàng kiều khi she tìm đến tình yêu: she xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. người chinh phụt hết ứng lên lại ngồi xuống, tâm trạng nàng thấp thỏm, bất an bởi lo lắng choc sinh mệnh của chồng of it ở nơi chiến trường ầy nguy hiểm. tâm trạng bất an ấy còn thể hiện qua hành động: ngồi rèm thưa rủ thác đòi phe, nàng hết buông rèm xuống nàng lại cuốn rèm lên, dường như đó là hành động vô thức, nàng làm không chủ động làm mà trong vô thức thực hiện hành động để vơi bớt nỗi âu lo. she hết ngắm ra ngoài bức rèm để mong chờ tin tức tốt lành lại thẫn thờ quay vào đối diện với ngọn đèn đơn độc.

    trong nỗi bồn chồn ấy còn là cả nỗi nhớ, thao thức, mong ngóng chồng quay trở về. trong văn học, ngọn đèn thường ược sử dụng ể nói về nỗi nhớ mong, thao thức, ta đã biết ến qua bài ca dao: đèn thương nhà khớ a. hay trong chuyện người with gái nam xương, người vợ nhớ chồng nên đêm đêm she chỉ bóng mình trên tường nói với with đó là bố. hành động đó cũng thể hiện nỗi nhớ thương. Đây là hình ảnh xuất hiện nhiều trong văn học, và trong tác phẩm người chinh phụ cũng lấy ngọn đèn để thể hiện nỗngi hƻ. trong căn phòng trống vắng, quạnh hiu, chỉ có cây đèn là người bạn để chia sẻ mỗi nỗi lòng với người chinh phụ. vì vô tri vô giác nên chinh phụ rất đau khổ nhận ra rằng “Đèn có biết dường bằng chẳng biết”.

    nàng càng thấm thía hơn nỗi cô đơn cùng cực của chính mình. Để nhấn mạnh hơn nữa vào tình cảnh tội nghiệp của mình, hình ảnh hoa đèn kia với bóng người khá thương, hoa đèn là tàn kết lại đầu sợi bấc đèn cháy đỏ như hoa đèn, là dấu hiệu khi dầu hao, bấc hỏng. chứng tỏ người chinh phụ đã thao thức rất nhiều đêm, triền miên, khắc khoải, mong nhớ về chồng of her. không gian bên ngoài làm cho nỗi cô đơn của người chinh phụ được khắc họa rõ nét hơn, tiếng gà eo óc cho thấy âm thanh thê lƺơơng, không. kết hợp với từ láy phất phơ cho thấy nhịp điệu buồn tẻ, chậm rãi, cho thấy tâm trạng ngao ngán của người chinh phụ. hai hình ảnh tương hỗ để diễn tả sự thao thức triền miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn, lê loi. từ đó người chinh pHụ cảm nhận thấm thía nỗi cô ơn hơn bao giờ hết: khắc giờ ằng ẵng như n iaên/ mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa, thời gian trôi qua r. cách đo đếm thời gian trong tâm trạng buồn chán cũng được nguyễn du nói đến: sầu đong càng lắc càng đầy/ ba thu dọn lại ghêt d. mối sầu trải dài mênh mông đến không cùng. dùng biện pháp so sánh để diễn tả cụ thể tâm trạng của chinh phụ để thấy nỗi buồn mênh mông.

    nỗi cô đơn bủa vây, người chinh phụ gắng gượng, tìm mọi cách để trốn chạy nỗi cô đơn. she nàng đốt hương để tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn of her, nhưng hồn đà mê mải, người chinh phụ càng chìm đắm hơn trong nềni mu. she nàng lấy gương soi, ể tìm thú vui trong việc chỉnh trang nhan sắc, nhưng khi soi gương lại phải ối mặt với sự cô ơn, lẻ loi, hơnaẻ nàn ranton. khiến of her nước mắt of her ngày càng chan chứa, nỗi đau khổ of her lại càng ngập đầy hơn, she nàng thấm thía nỗi cô đơn, tuổi thanh xđu mun tàn. nàng gượng đánh đàn nhưng khi chạm đến nàng lại tự ý thức về tình cảnh của mình, nàng thấy tủi thân trước những biểu tượng đôi lứa, ẩn chứa trong các nhạc cụ : Đàn sắt, đàn cầm: gảy hòa âm với nhau được ví cảnh vợ chồng hòa thuận. dây uyên: dây đàn uyên ương – biểu tượng cho lứa đôi gắn bó, hòa hợp. phím đàn loan phượng – biểu tượng của lứa đôi gắn bó. tất cả các nhạc cụ để có đôi có lứa, chỉ có mình mình cô đơn, lẻ bong. thậm chí nỗi cô ơn đã khiến nàng lo lắng, sợ hãi chơi đàn dây sẽ bị ứt, phÍm đàn bị chùng, đó là những biểu hiện khĻnứ cầm can m. she nàng tìm đến những nhạc cụ nhưng she lại không chạy trốn được nỗi cô đơn. chinh phụ cố gắng tìm quên bằng cách tìm ến những thú vui những càng tìm quên lại càng ối diện với bi kch của mình, càng đau khổ hơn bao giờ hẝ.

    nàng tìm đến thiên nhiên, nhưng thiên nhiên lại cho thấy khoảng cách vời vợi giữa nàng và chồng. non yên – nơi chiến trận ngoài biên ải xa xôi, khoảng cách xa vời khôn thấu. nàng tìm cách ể vượt qua khoảng cách, gửi lại tất cả những nhớ nhung cho chồng bằng ngọn gió đông, nhưng đy chỉ là giải pháp tưởng. Nàng lại phải ối mặt với thực tại, Thía với bi kịch của mình: cảnh xung quanh hiện hữu trước mắt of her, sương khuya lạnh lẽo, tiếng trùng rả rích trong đêm. cảnh tượng thê lương, ảm đạm, đang bủa vây lấy người chinh phụ, nàng sống trong đau đớn, nhớ thương. Đoạn trích đã cho thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình. tâm lí người chinh phụ được miêu tả ở nhiều cung bậc khác nhau thông qua hành động và ngoại cảnh. thể thơ song thất lục bát cùng hệ thống từ láy giàu giá trị gợi hình, gợi cảm đã diễn tả thế giới nội tâm phong phú của nhân>

    qua trích đoạn, Đặng trần côn đã diễn tả thành công những cung bậc, sắc thái khác nhau của người chinh phụ, nồi cô đơn, bu. qua đó diễn tả khát khao hạnh phúc lứa đôi, đây là net mới trong chủ nghĩa nhân đạo của ông. Đồng thời cũng là lời tố cáo mạnh mẽ, đanh thép chiến tranh phong kiến ​​​​phi nghĩa đã chia lìa hạnh phúc lứa đôi.

    phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 5

    tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm chinh phụ ngâm của Đặng trần côn. Đoạn trích không chỉ thể hiện được tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính mà còn có nhiều net đặc sắc vềt thn. với ngòi bút sâu sắc và khéo léo tác giả đã phản ánh một hiện thực xã hội về chiến tranh, nó không chỉ ảnh hưởng tới người trực tiếp tham gia chiến đấu mà nó còn ảnh hưởng tới người thân của họ mà cụ thể là người vợ.

    trước hết đoạn trích thể hiện nỗi cô ơn tủi phận, nỗi thương nhớ buồn thương mong muốn gửi tới chàng tấm lòng vàng phữ phữ. những hành ộng, cử chỉ, trạng thati tâm trạng ược tăng tiến dần thể hiện nỗi cô ơn buồn tủi chuyển dần thành nỗi bi ai, buồn rầu, tuyệt vọng:

    “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

    ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

    ngoài rèm thước chẳng mách tin,

    strong rèm dường đã có đèn biết chăng?

    Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,

    long thiếp riêng bi thiết mà thôi.

    buồn rầu nói chẳng nên lời,

    hoa đèn kia với bong người khá thương!”

    hành động dạo hiên vắng cho thấy người phụ nữ đang cô đơn, quanh quẩn với thềm với chiếc rèm và cây đèn hoa nọ. she nàng không thể làm gì và she cũng không thiết làm gì. she nàng dạo từng bước một, như gieo mình buông thả mặc cho bước chân đi tới đu, cũng không mảy may ến ộ dài rộa chiếc bẃc bậc. thiếu vắng chàng. she hết dạo thì she lại ngồi, trong lòng de ella nỗi băn khoăn, nhớ nhung cứ dằng dặc. she nàng ngồi trong chiếc rèm rồi chờ with thước báo tin de ella chồng nhưng she chỉ tuyệt vọng. she nàng tự hỏi đèn thường xuyên thức cùng nàng mong ngóng tin chồng thì liệu đèn she có biết được nỗi lòng của nàng. Đèn chỉ là vật vô tri vô giác làm sao she có thể hiểu thấu được lòng nàng. tâm trạng nàng thay đổi từ thẫn thờ đến trông mong, bi thiết và buồn rầu tuyệt vọng.

    nàng chờ đợi trông mong rồi thức cả năm canh dài, mỗi khắc trôi qua dài như một năm, mối sầu được thế càng giăng k i trong lòph. she nàng ngắm nhìn cảnh vật mà she tự thương lấy bản thân mình. BUồN Là thế nàng gượng cả ốt hương, vì càng ốt thì nàng hồn nàng càng như mê mệt, nàng gượng cả soi gương vì her sợ nhìn thy chynh mình lại nước mắt thươt. she muốn đánh đàn để vơi đi nỗi nhớ, để bày tỏ lòng mình de ella với trời đất nhưng she lại kinh ngại dây tỗ hồng, loan phưỹ > ng

    “hương gượng đốt, hồn đà mê mải,

    gương gượng soi, lệ lại chứa chan.

    sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

    dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

    Trước Muôn vàn nỗi nhớ người chinh pHụ MUốN GửI ếN chồng mình tấm lòng thủy chung are sắt, gửi cả những nỗi nhớ niềm thương sự lo lắng tới chàng:

    “lòng này gửi gió đông có tiện,

    nghìn vàng xin gửi đến non yên

    non yên dù chẳng tới miền,

    nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.”

    nàng nhờ gió đông gửi đến chàng cho tiện nhưng liệu chàng có thể nhận được chăng. trời cao với chẳng ai khôn thấu, lòng nàng buồn rầu liệu ai hiểu được chăng. Không chỉ người buồn mà cảnh vật cũng buồn, những hình ảnh thiên nhiên ược nhìn qua with mắt của người thiếu phụn rầu vì vương nhớ cũng mang màu t

    “gà eo óc gáy sương năm trống,

    hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

    khắc giờ đằng đẵng như niên,

    mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.”

    Ở đây tác giả đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, nói thiên nhiên để thể hiện tâm trạng của người chinh phụ.

    như vậy, nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh người và cảnh đẹp nhưng buồn. bức tranh ấy có hình ảnh của những bông hòe ủ rủ bốn bên, mềm mại những yếu ớt, có những hạt mưa phùn rƺi trên v th. người with gái như đang chuyển động từ dạo bước rồi ngồi rồi lại mong ngóng trông xa. người thiếu phụ ấy vẫn còn trẻ nhưng she lại đang đối mặt với nguy cơ trở thành một người phụ nữ góa chồng. she nàng cô đơn một phần thì she thương nhớ lo lắng đến hơn mười phần.

    phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 6

    trong xã hội phong kiến ​​​​ngày xưa có rất nhiều các tác phẩm nói về nỗi khổ tâm của người phụ nữ có chồng phải ời xa h gia đn. thậm chí có những khi đó là những cuộc chiến tranh phi nghĩa. nỗi khổ của họ là những nỗi đau đớn, dằn vặt mà không thể nói ra được thành lời, chỉ có thể giữ tâm trạng trong cô. và trong các tác phẩm văn học của thế kỉ xviii nói riêng, phong kiến ​​nói chung, chúng ta không thể không nhắc tới tác phẩm “chinh phụ ngâm khuc” Điể.

    “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

    ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen

    ngoài rèm thước chẳng bao tin

    ¿trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”

    mở ầu là bốn câu thơ song thất lục bát làm cho người ọc phải suy ngẫm, như trhoang thoảng đâu đây nét buồn mang mác, như nỗi lòng lo â â â â chiến trận. mới ngày nào vợ chồng còn sánh bước bên nhau, yêu thương sâu ậm mà nay trong căn phòng, ngoài hiên nhà chỉ còn bóng dáng lẻ loi của ngưứ trong bời vứn bời. Nàng ngày ngày ngóng trông tin người chồng nơi xa, trông chờ tiếng kêu của những with chim thước từi nơi chiến trường bay về, mang người chồng của nàng bình an n n trận trận. Ấy vậy mà she nàng trông mãi mà she không thấy tin lành từ phương xa. Đêm đêm, she nàng vẫn một mình bên ngọn đèn, thế nhưng, đèn dẫu sao vẫn còn ngọn lửa tỏa ánh sáng ấm áp, còn nàng, lòng Ɲang lẻa n. liệu ánh đèn ấm áp kia có hiểu:

    “khắc giờ đằng đẵng như niên

    mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

    tiếp theo đó là hai câu thơ lục bát, đều là những câu thơ mang ý nghĩa so sánh. trong trái tim của người chinh phụ thì giờ đây, mỗi phút mỗi giây đối với nàng thật dài, như là cả một thế kỉ. cũng giống như nhà thơ xuân quỳnh đã từng viết:

    “những ngày không gặp nhau

    biển bạc đầu thương nhớ”

    tình yêu của nàng, nỗi nhớ nhung của nàng xa thăm thẳm, tựa như đại dương mênh mông không nhìn thấy bến bờ. và cùng với nó, thời gian chờ đời càng dài, lòng nàng lại càng “tựa miền biển xa”.

    “hương gượng đốt hồn đà mê mải

    gương gượng soi lệ lại châu chan

    sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    dây uyên kinh đứt phím loan ngại ngùng”

    chỉ bốn câu thơ nhưng lại có tới ba dòng “gượng”. nàng gượng soi gương, gượng đốt hương trong căn phòng rồi lại gắng gượng gảy từng phím đàn. thế nhưng nàng lại nhận ra, dù nàng có cố gắng làm cho mình đẹp, cố gắng đốt hương thơm cho căn phòng hay gảy nên khúc nhạc quen thuộc của nàng thì cũng không còn ai ở bên cạnh để lắng nghe nỗi lòng của nàng, thưởng thức bề ngoài xinh đẹp của nàng cùng tiếng đàn trầm bổng nữa rồi. what oi! Đó có lẽ là những điều đau khổ và tuyệt vọng nhất của người phụ nữ. Để rồi từng phím đàn không còn được mượt mà, đằm thắm như ngày xưa nữa. chỉ còn lại những” phím loan ngại ngùng” như tình yêu của đôi uyên ương đã bị xa cách nghìn khơi.

    “lòng này gửi gió đông có tiện

    nghìn vàng xin gửi đến non yên

    non yên dù chẳng tới miền

    nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”

    nếu như ở đoạn ầu, nàng chờ tin lành từ những chú chim tước từ pHương xa báo tin, thì nay nàng đành phải gửi tình cảm của mình choc ngọn gió đôite kia. liệu rằng, cơn gió ấy có thể đi đến bên chàng, nói cho chàng biết những điều de ella tâm sự, nỗi niềm thương yêu của nàng hay không. nỗi lòng của nàng giờ đây đã cao tựa như đường lên bầu trời mất rồi, liệu bao giờ she chàng mới có thể trở vềng bên nàđ>

    “trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

    nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong

    cảnh buồn người tha thiết lòng

    cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

    bốn câu thơ cuối, nhịp thơ đã chậm đi rất nhiều, như thấm vào lòng người ọc, như tiếng vọng ai oán, ượm vàn cánhừng c. như câu thơ: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Giờ đây, người chinh phụ đã không còn niềm vui nào nữa, dường như mọi vật xung quanh cũng ảnh hưởng bởi tâm tư và tình cảm của nàng vậy, như vào cuộc chiến tranh phi nghĩa.

    tóm lại, bài thơ “chinh phụ ngâm khúc” đã nói lên tình cảm da diết của người vợ dành cho người chồng, ca ngợi tình yờay chung chung th᧰ay. NHưNG CũNG ồNG thời lên anger tranh phi nghĩa đã làm bao gia đình phải tan nát, làm vợ pHải xa chồng, with phải xa cha, cha mẹ xa, … sống, niềm khao khát bảo vện hạnh hạnh Đó cũng là các lí do mà “chinh phụ ngâm khúc” đã tạo dấu ấn rất riêng biệt trong nên vă học của thế kỉ 18 mà vẫn còn có giá trị to lớn cho t.

    phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 7

    tác phẩm chinh phụ ngâm của Đặng trần côn lấy bối cảnh những cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra vào cuối thế kỉ xviii. bằng việc khắc họa hình ảnh nhớ thương, nỗi khổ đau của người chinh phụ khi chồng ra trận ở miền biên ải xa xôi, tác giả đã bày cất tiếng nói đồng cảm của mình với những người phụ nữ trong xã hội cũ đồng thời lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa. tác phẩm được nhiều dịch giả nổi tiếng yêu quý dịch sang bản diễn nôm nhưng bản dịch hay nhất có lẽ là bản dĻĻth cịa. Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh pHụ ược trích trong tac phẩm gồm 25 câu thơ từ câu 193 ến câu 216 đ` nỗi cô ơn lẻ loi của người vợ Ăng những nág.

    “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

    ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen

    ngoài rèm thước chẳng mách tin

    strong rèm dường đã có đèn biết chăng

    Đèn có biết dường bằng chẳng biết

    hạnh phúc là điều lớn lao mà ai cũng ao ước có được. Đặc biệt là đối với những người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​xưa thì hạnh phúc đến không phải là dễ dàng, bở miqu hậy. người chinh phụ trong tác phẩm phải chấp nhận xa chồng, càng xa chồng nàng càng cô đơn, buồn tẻ. nỗi cô đơn ngập tràn cả khuê phòng, căn gác, tràn ngập cả không gian, thời gian. trước hiên nhà, những bước đi chậm rãi, nặng nề và nhàm chán của người chinh phụ càng lột tả nỗi cô đơn, chánng hưn. hành động de ella buông rèm xuống, kéo rèm lên như lặp lại tô đậm thêm nỗi cô đơn trong khuê các. càng cô đơn, càng thương nhớ, trông chờ một tiếng lành từ chim thước từ xa nhưng chẳng có, nàng đành ngậm ngùi bên chiếc huya đn>k

    “Đèn có biết dường bằng chẳng biết

    long thiếp riêng bi thiết mà thôi”

    tìm đến đèn để tâm giao cho vơi bớt nỗi ưu sầu, mà đèn nào có biết. cuối cùng, ánh đèn dẫu có sáng tỏa đấy thôi nhưng nào soi rọi được tâm hồn người chinh phụ, nào thấu được ƻn cm can kġ. Ánh dèn, dẫu sau nó cũng là một vật vô tri, vô giác, nào có thể lặng nghe người chinh phụ giãi bày, thở than. Ánh đèn nào có thể thay được người chồng nơi biên ải, có thể cùng nàng chia sẻ nỗi ngọt bùi, đắng cay. có chăng, ánh đèn ngày một hiu hắt như chính lòng người chinh phụ ngày một nặng nề, trĩu những nỗi u hoài khôn thấu. nàng buồn bã trong khuê phòng với ánh đèn dầu hiu hắt mà xót thương cho số phận mình, tủi hổ cho cảnh lẻ loi, đơn chiếc vì chia ly của m. nỗi bi thiết của lòng de ella nàng cất lên trong từng tiếng thơ ai oán, vừa như trách móc, vừa như xót xa cho thân phận de ella chính mình:

    “Đèn có biết dường bằng chẳng biết

    lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi

    buồn rầu nói chẳng nên lời

    hoa đèn kia với bong người khá thương”

    nỗi uất ức Trong nàng như trỗi dậy, lòng người chinh phụ buồn tủi, ớn đau, nỗi lòng mình nàng “riêng bi thiếị ዱ đt”, mìng chh nàng hoa hoa đèn in bong ng nỗi sầu trong đêm thâu. Đèn dần tàn, thời gian vẫn vậy cứ trôi đi, một mình, một bóng, gặm nhấm nỗi cô ộc, sầu tủi, nỗi chán chường vì lẻn cì loi.

    “gà eo óc gáy sương năm trống

    hòe phất phơ rủ bóng bốn bên

    khắc giờ đằng đẵng như niên

    mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

    tiếng thở dài trong đêm thâu bởi hạnh phúc ấm êm bị chiến tranh phi nghĩa tước đoạt thật xót xa. phải chăng lòng người buồn tủi, nỗi sầu thương nhuốm lên cả vị thời gian, màu không gian. tiếng gà “eo óc” đếm thời gian trong đêm lạnh, bóng hòe “phất phơ rủ bóng” ngẩn ngơ bốn bề, tất cả đều đượm buồn thương. Thiên nhiên có Thanh, có sắc mà chẳng có lấy chút niềm vui dù là nhỏ bé, như chính trai tim người thiếu pHụ đang ộiội xuân thì, khát khao hạnh phúc lứa ơi ội ội ội ội ơ xuân th. ngồi buồn đếm vị thời gian trôi, mỗi khắc thời gian tựa như một năm dài. hình ảnh so sánh kết hợp với từ láy gợi hình” khắc giờ đằng đẵng như niên” càng tô đậm nỗi nhớ thương, đờ.

    “hương gượng đốt hồn đà mê mải

    gương gượng soi lệ lại châu chan

    sắt cầm gượng gảy ngón đàn

    dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

    trong nỗi buồn tủi, sầu muộn, cô ộc ến cùng cực ấy, người chinh phụ cố vực dậy tinh thần mình bằng việc tìm ẝngữn nthúi v. nhưng trớ trêu thay, mọi thứ dường như đều trở nên gượng gạo, bất lực trước tâm trạng chinh phụ. hướng gượng đốt thì hương mê mải, gượng soi ngắm dung nhan thì she không ngăn được dòng lệ nhớ thương. she tay gõ lên phím đàn mà lòng quặn thắt, sợ dây đứt, phím chùng lại lắng lo về những điều xảy ra sắp đến. mọi thứ dường như đều trở nên vô nghĩa, người chinh phụ càng làm, nỗi đau càng xoáy sâu trong tâm khảm de ella, nỗi buồn càng day. gu dẩ

    “lòng này gửi gió đông có tiện

    nghìn vàng xin gửi đến non yên

    non yên dù chẳng tới miền

    nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

    càng cô đơn, tuyệt vọng, nỗi nhung nhớ lại càng dâng trào, mãnh liệt. người chinh phụ nhớ thương chồng tha thiết nhưng đành bất lực vì khoảng cách quá xa xôi. “non yên” một hình ảnh ẩn dụ cho sự xa xôi, cách trở của người chinh phụ và kẻ chinh phụ. vì nỗi nhớ thương da diết, she không biết làm gì hơn, nàng đành gửi nỗi nhớ theo gió đông đến “non yên”. Mong rằng, những nhớ thương ấy có thể là niềm ộng viên, ủi an cũng là nỗi mong mỏi chồng nơi xa ược an toàn, ợi thngày ợi thngày từ lay “thă thă thă thăm” thăm “thă “ường lên bằng trời” đã ặc tả nỗi nhớ khôn nguôi, mông và cao rộng ến tận c c c, cùng ng. qua đó she bộc lộ được tình yêu tha thiết, thủy chung son sắt của người with gái khi she yêu.

    “cảnh buồn người thiết tha long

    cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

    Đúng như ai đó đã từng viết:

    “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

    người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

    trong những dòng thơ cuối, bút pháp tả cảnh ngụ tình một lần nữa được tác giả sử dụng đầy tinh tế. cảnh buồn với sương ượm cành, Thanh âm của tiếng côn trùng river rắt, mưa pHùn mênh mang như chynh lòng người thiếu pHụ lúc này: buồn ưu, cay ắng, ơNg, ơn.

    đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã chạm ến trái tim bao người ọc bởi những peldura ộng tình cảm ời thường. Đó là sự ồng cảm với tâm trạng của người chinh phụ, là sự trân trọng vẻ ẹp một tâm hồn của người phụ nữ khi yêu và sự căc trước thihn tranh tàn á ì ad. người chinh phụ.

    phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 8

    khác với giai đoạn ầu của văn học trung ại say sưa trong cảm hứng ca ngợi hùng tâm tráng chí của người anh hùng, ca ngợi nhìn ì ế. Mà nhà nước phong kiến ​​bắt ầu rơi vào khủng hoảng trầm trọng với sự diễn ra lín miên của các cuộc chiến tranh nội bộ, cướp đi sự bình yên cảm hứng nhân đạo, thay cho tiếng nói tha thiết về quyền sống của with người. trong số đó phải kể đến “chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng trần côn, được Đoàn thị Điểm dịch lại.

    tiễn người khuất sau “ngàn dâu xanh ngắt một màu”, người chinh phụ trở vềi bốn bức tường nơi khuê pHòng chật hẹp, Trong Trong Lòng nỗnhớ thương người chinh n. nỗi nhớ, nỗi trống trải khiến những bước chân như gieo xuống trong vô ịnh: “dạO hiên vắng thầm gieo từng bước”, she hết ứng lại ngồi, ra ngẩn ngơ. TấM RèM CũNG Rủ THAC “đòi phen”, từng ộng tac lặp đi lặp lại mà không crủ đích, nó là tiếng gọi củt tâm tư đang bị xao với biết bưt, bềc, tôc, bềc, bềc, bềc, bềc, bềc, bềc, bềc, bềc, bềc, bềc, , bềt, bềt, bềt, bềt, bềt, bềc, bềt, bềt, bềt, bềt, bềt, bềt, bềt, bềt, bềt, bềt, bềt, bềt. mà không tự ý thức được việc mình làm.

    hành ộng của vô thức đã tô ậm hoàn cảnh thực tại chinh phụ: Tuổi xuân bị khóa chặt trong sự tù tung tran. người ở nơi xa đầy nguy hiểm gian khó không hẹn ngày trở về, người ở đây vò võ chờ mong, khắc khoải đến mỏi mòn. vén rèm lên rồi rủ rèm xuống chỉ để trông tin thước báo về, vậy mà “thước chẳng mách tin”. câu thơ vang lên như một lời trách móc, trách đã hy vọng trông chờ mà tiếng chim báo vẫn bặt vô âm tínn khiến sự chờ ợi khắc khoải thnkhến ến . hết trông chờ vào tiếng chim ngoài rèm, người lại hướng sự hi vọng vào “đèn” “trong rèm” đã chứng kiến ​​​​nàng vò bồn chồn khắc kho no.

    một câu hỏi gieo ra như gieo hy vọng dẫu chỉ là mong manh: “ trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” NHưNG NGAY LậP TứC, HY VọNG đã Bị DậP TắT BởI ” thmng ế, thmng ế, thmng ế, thmng ế, thmng ế, thi thmng. riêng bi thiết mà thôi.” nỗi thất vọng ngập tràn đè nặng lên tâm tưởng của người chinh phụ, mang lại nỗi cô sầu nặng nề, sâu sắc: “. tù túng, héo hon. bóng chinh phụ như bóng nàng vũ nương ngày nào chờ chồng suốt mấy mùa qua, nhưng vũ nương còn có bé ản làm niềm vui, niềm cún ghy.

    trong 8 câu tiếp theo, ta thấy người chinh phụ đang cố vùng vẫy thoát ra khỏi nỗi buồn bao trùm cả không gian, thời gian, cả tâm hồn. she nàng đã tìm đến yếu tố ngoại cảnh làm cứu cánh. nhưng ngoại cảnh chỉ là tiếng gà “eo Óc” gáy, là “hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”, càng gợi sâu hơn vào nỗi lòng nhức nhối, nhỗi corra khuỗi”. cuối cùng chỉ còn lại người chinh phụ với nỗi nhớ, nỗi sầu triền miên “ đằng đẵng” theo thời gian, “ dằng dặc theo gian th’i. tuy đã “gượng” ốt hương, “gượng” soi gương, “gượng” gảy ngón đàn mà ến nỗi sợ “hồn đà mê mải”, sợ “lại chan” trở vềi bi k kịch với nỗi côi ơn mình.trong đau buồn, cô ơn, nàng người chinh phụ khao khát gửi nỗi nhớ thương da diết thó ì ìng ìng ìng ìng ìng ìng. thing.

    “lòng này gửi gió đông có tiện

    nghìn càng xin gửi đến non yên.”

    đó là tất cả sự toàn tâm toàn ý, tình cảm thủy chung, tròn ầy vẹn nguyên nhất ược bồi ắp bấy lâu của chinh ều ược gửi ến “non” ể ể ể ể ể ắ ắ ắ ắ ắ. nỗi long minh, để thể hiện tình cảm, khao khát của mình đối với tình yêu. non yên, là một địa danh, có tên cụ thể nhưng không ai biết nó ở đâu, cách đây bao xa. pHải chăng đó chỉ là một hình ảnh tượng trưng cho sự xa xôi cach trở giữa hai with người, cho sự vô vọng của người chinh phụ, cho sự vô vọng của được hồi đáp.

    “non yên dù chẳng tới miền

    nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.”

    khoảng cách càng xa xôi, nỗi nhớ càng ậm sâu, da diết, ến trời thăm thẳm xa vời cũng không thểu sự cao vời tràn ầy của ƻa củn củn. Yes. khi suy tưởng đã nguôi ngoai, chinh phụ quay trở về với thực tại, với những cảnh vật gần mình nhất:

    “sương như búa bổ mòn gốc liễu

    tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô

    giọt sương phủ bụi chim gù

    sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi.”

    đêm sâu, trời lạnh, mọi cảnh vật vốn trơ trọi ến khô khốc giờ lại ứng cạnh nhau, soi chi ếu vào nhau khiến cho cho tranh . “Cảnh buồn người thiết tha lòng” there are như nguyễn du từng nói: “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, vậy cảnh ở đy đl nhuốm màu buồn lên hồn ng ng -Han chính ng ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh.nhưng chynh sức mạnh ghê gớm nội tại tâm hồn khiến người chinh pHụ lại một lần nữa vươn dậy, vươn tới không gian thmáng ạt. và she nàng thấy:

    “lá màn lay ngọn gió xuyên,

    bong hoa theo bong nguyệt lên trước rèm

    hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,

    nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,

    nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng…”

    khoảnh khắc bắt gặp hình ảnh hoa nguyệt ấy có lẽ cũng là khoảnh khắc người chinh phụ say sưa với quá khứ ềm của mờg vớn the,. các từ chỉ hành ộng liên tiếp nhau “lay, xuyên, thoo, dãi, in, lồng, thắm” càng tô ậm thêm khát khao ược hạnh phúc, ược qu. . nhưng, đau lòng thay, thực tế là: “trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.”

    dù cho là hình ảnh hoa nguyệt trùng phùng nhưng chúng vẫn cách xa nhau, là hai thực thể hoàn toàn khác nhau, không thể hòa nhập. dù là quấn quít bên nhau nhưng đã lùi vào qua vãng, vào miền sâu thẳm của vô vọng rồi. cùng với lúc niềm khát khao dâng đến tận cùng, nỗi đau cũng tràn đầy, khôn nguôi như xé lòng, chẳng thể cất thành lời.

    chỉ là một đoạn trích nhỏ trong “ chinh phụ ngâm” nhưng “ tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện tinh thần cản của của. Âm hưởng chủ đạo là nỗi buồn sầu sâu lắng. trên nền âm hưởng ấy, có đôi khi rạo rực những khát khao cháy bỏng, có đôi khi da diết tình cảm thủy chung, nhớ mong. nhưng dù là cung bậc nào đều thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ qua hình ảnh người chinh phụ. Đặc biệt là tiếng nói tố cáo đanh thép chiến tranh phi nghĩa đã gây nên những thương tổn sâu sắc trong tâm hồn con người, những vết thương không bao giờ lành miệng, những trống vắng khó có thể bù đắp được.

    đoạn trích đã thể hiện ược ầy ủ ủ tinh thần của cả tac pHẩm, tưng của tac giả và cả bongo dáng của thời ại lịch sử, của giai đoạn học c c c.

    audio phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong chinh phụ ngâm

    video phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong chinh phụ ngâm

    bài văn mẫu phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong chinh phụ ngâm vừa được vndoc.com gửi tới bạn đọc. chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến ​​thức của bài hồc r? bài viết được tổng hợp gồm có dàn ý và các bài văn mẫu phân thích về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong chinh phụ ngâm. Hello Vọng Bài Viết Sẽ Giúp Các Bạn Học Tốt Hơn Môn Ngữ Văn 10. ể ể Giúp Bạn ọcc Có thêm nhiều tài liệu họp hơn nữa, vndoc xin giới Thi thêm tới ca ềp hền n. soạn bài lớp 10, học tốt ngữ văn 10, tài liệu học tập lớp 10 mà vndoc tổng hợp và đăng tải để đạt kết quẍc trop.

    Để học tốt môn ngữ văn 10 và tác phẩm chinh phụ ngâm, mời các bạn tham khảo:

    • soạn bài lớp 10: tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
    • soạn văn 10 bài: tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
    • soạn bài lớp 10
    • soạn văn 10 (ngắn nhất)
    • văn mẫu lớp 10

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *