Phân tích bài thơ Hầu trời của Tản Đà

Dưới đây là danh sách Phân tích bài thơ hầu trời hay nhất được tổng hợp bởi chúng tôi

tài liệu hướng dẫn pHân tích bài thơ hầu trời của tản đà do ọc tài liệu tổng hợp và biên soạn bao gồm những gợi ý phân tích ề, luận điểm.

tham khảo ngay…

me. hướng dẫn phân tích đề bài văn phân tích hầu trời (tản Đà)

Đề bài: phân tích bài thơ hầu trời của tản Đà.

1. xác định yêu cầu đề bài

– yêu cầu về nội dung: phân tích nội dung và nghệ thuật của bài thơ hầu trời

– phạm vi tư liệu dẫn chứng: các từ ngữ, chi tiết, hình ảnh, câu thơ… trong văn bản hầu trời của tản Đà

– phương pháp lập luận chính: phân tích

2. hệ thống luận điểm bài thơ hầu trời

luận điểm 1: giới thiệu câu chuyện, lí do và thời điểm nhân vật trữ tình hầu trời

luận điểm 2: diễn biến buổi hầu trời

luận điểm 3: lời trần tình của tác giả về cảnh ngộ ở trần gian, về nghề văn của mình

luận điểm 4: cảm nghĩ của tác giả khi về lại trần gian

3. kiến thức cần củng cố trước khi làm bài

a) kiến ​​​​thức cơ bản về tác giả tản Đà

– tản Đà (1889 – 1939) tên khai sinh là nguyễn khắc hiếu, quê ở hà tây, nằm bên bờ sông Đà, gần chân núi tản viên.

– SIN RA Và lớn lên Trong Thời BUổI GIAO THờI, HọC đã tàn mà tây học cũng mới bắt ầu nên with người ông kểc vấn, lối sống, sự nghi vĂn chương “n. p>

– học hán học từ nhỏ nhưng sau hai khóa thi hương ông đã bỏ thi chuyển sang sáng tác bằng chữ quốc ngữ

– vào giữa những năm 20 của thế kỉ xx, cai tên tản đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn và là người hai thế hệ (nho học và tây học) như học: trung đại và hiện đại.

– từ 1915 ến 1926 Là những năm thang ắc ý nhất của tản đà: “khối tình with i” ược xuất bản, sau đó cuốn “giấc mộng with”, một số vở tởng, vi. ..

– ngày 7 – 6 – 1939, tản Đà mất sau một thời gian chống chọi với bệnh gan, hưởng dương 50 tuổi.

– Phong cach của tản đà ược gói gọn trong ba chữ: sầu – mộng – ngông, thơ văn ông chính là gạch nối giữa hai thời ại vĂn học trung ại và hiện ại của của củ

– Các tác phẩm chynh: khối tình with i, II (thơ, 1916 – 1918), khối tình bản chính, khối tình bản phụ 1916, 1932), thơ tản Đà (1925), còn chơi (thơ và văn xuôi, 1921), giấc mộng lớn (tự truyện – 1928)…

b) kiến ​​​​thức chung về tác phẩm hầu trời

– hoàn cảnh xuất xứ tác phẩm: bài thơ hầu trời ược en trong tập “còn chơi” xuất bản năm 1921 trong ho sin. net trong văn chương thời đại, xã hội thực dân nửa phong kiến ​​​​tù hãm, u uất, đầy rẫy cảnh ngang trái, xót đau.

– tóm tắt nội dung bài thơ: nội dung bài thơ là câu chuyện kể về nghệ sĩ nguyễn khắc hiếu lên hầu trời, đọc thƝhe vth cho ờc . trời và chư tiên tấm tắc khen hay và hỏi chuyện. tác giả đã đem những chi tiết thực về thơ và cuộc ời mình, ặc biệt là cảnh nghèo khổ của người sáng tác văn chương trới choi h. trời cảm động, thấu hiểu tình cảnh, nỗi lòng của người thi sĩ.

– giá trị nội dung: bộc lộ cái tôi cá nhân, một cái tôi ngông, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình; và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời.

– Đặc sắc nghệ thuật: thể thơ trường thiên tự do; ngôn ngữ tự nhiên, gần gũi nhưng có sự chọn lọc tinh tế; cách kể chuyện hóm hỉnh, sống động

– ý nghĩa nhan ề “hầu trời”: thể hiện khát vọng muốn khẳng ịnh chynh mình giữa cuộc ời và vừa thể hiện lãng mạn, bay bổng vừa cai ngông của tảa tả.

(chi tiết xem thêm nội dung soạn bài hầu trời của tản Đà đã được nghiên cứu và tìm hiểu trên lớp)

ii. lập dàn ý chi tiết phân tích bài thơ hầu trời

1. mở bài phân tích hầu trời

– giới thiệu về tác giả tản Đà và bài thơ hầu trời

+ tản đà (1889 – 1939) tên thật là nguyễn khắc hiếu, quê làng khê thượng, xã sơn đà (ba vì, hà tây), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kch nổi tiếi tiếi tiếi tiếi tiếI tiế ổc việt nam đầu thế kỷ 20.

+ hầu trời trích từ tập “còn chơi” thể hiện cái tôi ngông của tác giả cũng như nỗi ngậm ngùi cho cảnh ngộ bản thânănĻ ri và nói. /p>

– dẫn dắt vào vấn đề.

2. than bài phân tích hầu trời

a) luận điểm 1: giới thiệu câu chuyện, lí do và thời điểm nhân vật trữ tình hầu trời

* tình huống:

– trong đêm: tiếng ngâm thơ vang cả song ngân hà -> trời mất ngủ => cho mời nhà thơ hầu trời

– tác giả đặt vấn đề cho vẻ khách quan: chẳng biết câu chuyện tôi sắp kể chẳng biết có hay không?

– tác giả vẫn khẳng ịnh câu chuyện có vẻ là thật bằng việc dùng bốn câu khẳng ịnh “thật hồn …” >

-> cách vào ề của tản đà dùng cách nói phủ ịnh: không mơ màng, chẳng phải hoảng hốt, vừa tạo cảm giác đy là cột câu chuyện không cóm

=> cách vào đề thật độc đáo và có duyên, tạo không khí li kì, hấp dẫn, kích thích sự tò mò của người đọc.

b) luận điểm 2: diễn biến buổi hầu trời

* thi sĩ đọc thơ cho trời và chư tiên nghe

– không khí ở nhà trời với cách đón tiếp:

+ để ghế cho ngồi

+ pha nước cho uống

+ chư tien im lặng hai bên

-> không khí rất phù hợp với buổi đọc thơ.

– this one does:

+ cao hứng đọc hết văn vần sang văn xuôi, hết văn thuyết lí lại sang văn chơi

+ rất đắc ý nên càng đọc càng có cảm xúc nên đọc rất hay: “văn dài hơi tốt ran cung mây”

– Chư tiên nghe thơ rất tán thưởng, hâm mộ, trời không tiếc lời tán dương: “tâm như nở dạ, cơ lè lưỡi”, “hằng nga, chức nữ chau đi mpir lắng tai ứng” mỗi bai cùng vỗ tay”…

-> cái tôi của tản Đà ngông nghênh, độc đáo, cá tính, lãng mạn.

– thi sĩ ý thức rõ về tài năng thơ văn của mình:

+ tìm tri kỉ ở tận cõi trời -> khao khát được khẳng định tài năng trước cuộc đời.

+ tư tưởng thoát li mang màu sắc lãng mạn

* thi sĩ giới thiệu về mình

– họ – tên, quê song Đà, núi tản nước nam việt -> ý thức cá nhân, dân tộc đậm net

– thân thế: một vị trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông

– thiên chức: truyền bá thiên lương, làm hưng thịnh ở hạ giới -> cao cả, tốt đẹp

=> Ý thức trách nhiệm và khát khao được gánh vác việc đời

c) luận điểm 3: lời trần tình của tác giả về cảnh ngộ ở trần gian, về nghề văn của mình

– ược trời hỏi thăm về tình hình văn chương dưới hạ giới thi sĩ liền trình bày tình cảnh khốn khổ của kẻ Theo đuổi nghề v� văn trong xã hội thực

+ không tấc đất cắm dùi

+ văn chương bị rẻ rúng

+ làm chẳng đủ ăn

+ bị o ép đủ chiều

-> nghề văn cũng là một nghề kiếm sống nhưng bèo bọt, cuộc sống cơ cực, nghèo khó

=> giọng thơ chua chát, xót xa

d) luận điểm 4: cảm nghĩ của tác giả khi về lại trần gian

– trách nhiệm và khát vọng của thi nhân:

+ nhiệm vụ trời giao: truyền bá thiên lương.

=> tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc sống. Ông vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn.

+ thi nhân khát khao được gánh vác việc đời => một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.

=> trong thơ tản Đà cảm hứng lãng mạn và cảm hứng hiện thực đan xen khăng khít với nhau.

3. kết bai phân tích hầu trời

– khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ

– nêu nhận xét, cảm nhận chung của em

– mở rộng vấn đề bằng suy nghĩ và liên tưởng của mỗi cá nhân.

ngoài ra, các em cũng có thể tham khảo thêm mẫu dàn ý phân tích hầu trời đầy đủ từ chung đến riêng do Đọc tài liệu ợn vún.

iii. danh sách top 5 bài văn phân tích hầu trời hay được đánh giá cao

nhằm giúp các em nắm rõ hơn cach làm cũng như mởng vốn từ ngữ trước khi làm bài, ọc tài liệu đã sưu tầm gửi ến các em tham khảo #5 mẫn ttt ttt ttt ttt ttt ttt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tt tth dưới đây. cùng tham khảo nhé!

1. phân tích bài hầu trời mẫu số 1

tản Đà là một nhà thơ kiệt xuất thuộc thế kỉ cuối cùng của nền hán học việt nam. mặc dù vậy tản Đà được xem là gạch nối của thơ ca nước ta giữa hai thế kỉ. tuy xuất thân từ nềp nho phong cũ nhưng ông lại có tâm hồn lãng mạn, Sáng tạo ra những cu thơ mà thy nó ​​không xa lạm tan với nền thơhạ đ đ, Th ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ảnh, ngôn ngữ và nhất là tâm tình. ta có thể hiểu thêm về thơ và những đóng góp của ông cho văn học việt nam qua bài thơ “hầu trời” bài thơ thể hiện cái tôi cá nhâc.

cả bài thơ đó là một câu chuyện ược lồng vào thơ, qua đó chi chung ta thấy ược tac giả là một người có tíh cach táo bao, hơi ngông, biểu hihn nhan “ầ ầ ầ ầ ầ ầ tản đà thể hiện cái tôi cá nhân, cái tôi lãng mạn và đó cũng chynh là khía cạnh tâm hồn của ông, một cái tôi “ngông” đó chính là tủ.

như chúng ta đã biết thơ chynh là người, bài thơ là một giấc mộng trong rất nhiều giấc mộng của tản đà, gic mộng lên trờc ƍ. tâm hồn tản Đà và cá tinh của ông. Ể làm rõ ược cái hay, cái ẹp của bài thơ, chúng ta c cùng nhau tìm hiểu về cái tôi của nhà thơ và ặc sắc nghệ thuật ược thể thể n.

sự hiện diện của cái tôi lãng mạn ược thể hiện ngay từ giấc mộng ược lên trời ọc thơ, giới thiệu thơ văn cờàc vác triờg choi tinh. qua đó thể hiện sự khát vọng muốn ược thể hiện mình, thể hiện tài năng of him, hơn thế nữa, tac pHẩm của ông không bị trời phạt mà ược mọi người khen ngợi khen ngợi ngợi hết. Điều đó nói lên rằng, trời biết xem trọng tài năng, gia trị thơ ca:

“Đêm qua chẳng biết có hay không,

chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.

hey hồn! that phách! that that that!

thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

nguyên lúc canh ba nằm một mình,

vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.

nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,

uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.

chơi văn ngâm chán lại chơi trăng

ra sân cùng bong đi tung tăng

trên trời bỗng thấy hai cô xuống

miệng cười tủm tỉm cùng nói rằng:

– “trời nghe hạ giới ai ngâm nga,

tiếng ngâm vang cả song ngân hà!

làm trời mất ngủ, trời đương mắng

có hay lên đọc, trời nghe qua”.

rồi thì ông được trư tiên và trời khen ngợi làm ông càng hào hứng để đọc, lúc đầu ông cứ nghĩ lên đọc để mình có dịp thể hiện tài năng cho trời biết, nhưng rồi không ngờ mọi người lại thích và đồng tinh:

“Đọc hết văn vần lại văn xuôi

hết văn thuyết lý lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.”

Đoạn thơ này tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê “hết”, “lại” thể hiện giọng thơ phấn khởi, nhiệt tình và hợ ng c.

“những áng văn con in cả rồi

hai quyển “khối tình” văn thuyết lý

hai “khối tình with” là văn chơi

“thần tiền”, “giấc mộng” văn tiểu thuyết

“Đài gương”, “lên sáu” văn vị đời

quyển “Đàn bà tàu” lối văn dịch

Đến quyển “lên tám” nay là mười

nhờ trời văn con còn bán được

chửa biết con in ra mấy mươi?”

tác giả sửng biện phap liệt kê, thể hi ược tài nĂng tài hoa của mình, biểu hiện là ông kểt hết quyển Sách này

cai tôi lãng mạn của ông ược thể hiện rất rõ ở giấc mơ của ông, giấc mơ ược lên trời của người thi sĩi nơi trần gian, muốn kển nghe vềc cuộc sộc sộc sộc sộc sộc sộc sộc sộc sộc sộc sộc sộc sộc s Sốc sộc sộc sộc sộc sư gể ng ể gian, muốn muống sưc sưc sộc sộc sộc sộc sư gể ng ể gian, muốn muốn muống sưc sưc sộc sộc sộc sư ng ng n. hơn.

“bẩm trời, cảnh with thực nghèo khó

trần gian thước đất cũng không có

nhờ trời năm xưa học ít nhiều

vốn liếng còn một bụng văn đó.

giấy người mực người thuê người in

mướn cửa hàng người bán phường phố.

văn chương hạ giới rẻ như bèo

kiếm được đồng lãi thực rất khó.

kiếm được thời ít, tieu thời nhiều

làm mãi quanh năm chẳng đủ tieu.

lo ăn lo mặc hết ngày tháng

học ngày một kém tuổi ngày cao

sức trong non yếu ngoài chen rấp

một cây che chống bốn năm chiều.

trời lại sai with việc nặng quá

biết làm có được mà dám theo”.

tản đà đã tâm sự vềc sống nghèo khó của người thi sĩi dưới trần gian, bên cạnh việc pHôs diễn tài năNg, tản đà còn gắi gắm cảm sự cnhnh là ượ Mình ượC Mọi NGườI CHấP NHậN, Cùng ồng cảm và chia sẻ cùng ông về văn thơ cũng như tâm sự ời thường mà ông và mọi người đang cảm thấy bất bất bất bất bất lực, bí bí. tác giả lên trời ể ể phô thơ, phô diễn tài năng và kể về cuộc sống của mình, ược mọi người trân trọng giá trị mình, trợn tịn cọn.

trong giấc mộng lên trời ấy ta thấy riqu Cái tôi của tản đà, khát vọng về tự do, khát vọng về cõi tri âm và rộng hiện khao khát ược khẳng ịnh tài tài nă thể hiện ược cái tôi nghệ sĩ, bay bổng nhưng cái tôi c cón cán cá -cá ì cá ì cá ì ì ìc ì ìnc ì ìnc. vẫn bắt rễ với cuộc đời này. thể hiện ông là một with người thật sự có trách nhiệm với đời với văn chương.

bên cạnh cai tôi lãng mạn thì cai tôi “ngông” cũng ược tản đà thể hiện rõ rõ rõ trong bài thơ này, qua những hành ộng và lời này củng, đ đ ể ể ượ ượ ượ ể ể ể ể , ượ ượ ượ ượ. mọi người công nhận tài năng của mình. Chynh tản đà tự khen mình nhưng đó không phải là cai khen vô cớ, vô lý mà điều đó ược thể hi hi qa việc thơ của ông ôc trời và trư ti ồng tình, hếi ợi.

“văn dài hơi tốt ran cung mây!

trời nghe, trời cũng lấy làm hay,

tâm như nở dạ, cơ lè lưỡi

hằng nga, chúc nữ chau đôi mày”

thơ ông được trời khen hay:

“văn đã giàu thay, lại lắm lối

trời nghe trời cũng bật buồn cười!

chư tien ao ước tranh nhau dặn:

– “¡anh gánh lên đây bán chợ trời!”

trời lại phê cho: “văn thật tuyệt!

văn trần được thế chắc có ít!

nhời văn chuốt đẹp như sao bang!

khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

em như gio thoảng! tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

chẳng hay văn sĩ tên họ gì?

người ở phương nào, ta chưa biết”.

đy là những câu thơ trời khen tac giả, nhưng sự thật là chynh tac giả khen mình, tac giả sử dụng biện phan Sánh ể khen ng vẻ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ tự khen minh.

tản đà cho rằng việc sáng tac thơ ca của ông là ông đang gánh vac trach nhiệm của nhân loại, qua đó cho thấy ược ý thức trach nhiệm của nhà thơ ối ố của ông, ông đã ý thức được giá trị thơ văn của mình trong cuộc đời này để cuộc đời càng trở nên đẹp và có Ľ hơnh. bởi ông biết rằng văn chương thời đó thì rẻ như bèo, cuộc sống của những người thi sĩ lại vô cùng nghèo khó nhưng ông đã dũng cảm dùng văn chương của mình để kiếm sống và làm đẹp cho đời, thể hiện một cái tôi bản lĩnh.

cái ngông chính là cá tính của with người được biểu hiện qua lời nói, hành động, cử chỉ và thái độ sống. với giọng điệu và ngôn ngữ rất tự nhiên, rất phong túng với một loạt cảm thn kiểu trầm trồ, thán phục, tự ề ềi tài năng của mình, ông xem m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m áh ề ề truyền bá những cái hay, cái ẹp cho ời, tự ý thức sâu sắc về bản thân, về tài năng, phẩm chất, giá trị tài năng đích thực của mình.

tản đà mạnh dạn thể hiện tài nĂng bản ngã: cai tôi ca nhân, một cai tôi phóng túg, tự ý thức về tài nĂng, giá trịích thực của mình và khao khat khat ngông của tác giả chính là vẻ đẹp thực sự của một with người có tài năng và bản lĩnh cứng cỏi. có thể nói, có tài năng như thế ông xứng đáng nhận được cuộc sống sung túc hơn nhưng ông lại chấp nhận dám sống bằng tài năng, do vậy trong cuộc đời của ông ông sống một cuộc sống vô cùng nghèo khổ.

qua câu chuyện “hầu trời” tác giả đã thể bản ngã, cái tôi cá nhân, hiếm có, đáng trân trọng, sáng tạo nghệ thuật ới mẻ vàc. “ hầu trời ” Chính là minh chứng cho sự ra ời và phat triển văn học, thơ tản đà là gạch nối giữa hai thế kỉ văc hiện ại và trung của cái tôi.

(nguồn: vanmau.up)

2. phân tích bài hầu trời mẫu số 2

tản Đà được coi là “người nằm vắt minh qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt ới món. những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của tản Đà đối với văn học việt nam giai đoạn giao thời. Ông là ại diện tiêu biểu của văc học việt nam giai đoạn này, giai đoạn vĂn học dân tộccco những bước chuyển mình, bắt ầu cho giai đn ện ện ện ện ện ện ện ện ện ện ện hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. bài thơ thể hiện đậm net cá tính sáng tác của tản Đà.

MạCH thơ ược triển khai theo lôgíc một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục: nằm m ến trời, tiên xuống hỏi rồi ưa lên gặp trời, trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời ọc thơ, giới thiệu về mình rồi ọc thơ và giãi bày bày trần giới. nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.

chuyện hầu trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thời thể hiện ý thức của cái tôi cá nhân đầy cá tính của mình. nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh:

Đêm qua chẳng biết có hay không,

thật được lên tiên – sướng lạ lùng.

lí do được trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin: nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi tr. và “tiếng ngâm vang cả song ngân hà” đã làm trời mất ngủ. thế là được lên trời. cuộc hội kiến ​​với trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu trời.

nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp trời để giới thiệu về mình. giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo: gặp trời, ngâm thơ cho trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng định tài năng của mình. khẳng định một cách rất tự nhiên:

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.

văn dài, hơi tốt ran cung mây!…

tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.

sau khi giới thiệu cc tac pHẩm, có pHân chia rõ ràng từng loại Theo quan điểm của bản thn (văn tht li, văn chơi, văn tiểu thuyết, victory, cùng với những thay, lại lắm lối” (đa dạng về thể loại, giọng điệu).

trời lại phê cho: “văn thật tuyệt

văn trần được thế chắc có ít!…

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. trong thời đại của tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự tôt, tự tự. hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình:

– “bẩm quả có tên nguyễn khắc hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”

qua cuộc ối thoại tưởng tượng với trời, nhà thơ còn khẳng ịnh nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói rii rihng và của ngƩn lĻla nó “

trời rằng: “không phải là trời đày,

trời định sai con một việc này

là việc “thiên lương” của nhân loại,

cho with xuống thuật cùng đời hay.”

tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chươan, căv

cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề văn. tản đà ược coi là người ặt nền mong cho thơ mới, không chỉi bởi thơ ông mang hơi thởn ại của thời ại với cai tôi ca nhân sừng sững sững giữa trang trang mà n ầ ầ ầ ầ ầ ầ ầ bán phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. khi giãi bày cảnh ngộ với trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. tản Đà cũng đã dùng lời trời để tự an ủi mình.

với hầu trời, tản Đà đã mang đến cho văn học việt nam đầu thế kỉ xx một không khí mới. dưới hình thức một bài thơ – câu chuyện tưởng tượng vui và đầy hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái tôi cá nhân cứiƇa ng s. nhà thơ vừa tự tin khẳng ịnh tài nĂng của mình vừa nói lên quan điểm làm văn chương, đó là viết vĂn pHục vụl thiêương viết văn there are làm cho ời ẹ

sáng tạo ộc đáo về mặt nghệ thuật của tản đà là đã ưa ngôn ngữ ời thường nôm na, dễ hiểu, manure dg dị mà vẫn gẫn rẫ. ngôn ngữ thơ ở hầu trời đã có sự xâm nhập của giọng điệu văn xuôi và ngôn ngữ bình dân. không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc được phát triển rất tự nhiên và cái tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ m hin.thn. Điểm ộc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu trời ểể tự khẳng ịnh màn tìn vài quán niqung. Đó là một kiểu ngông rất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu. bài thơ cũng đã phác hoạ một chân dung thi sĩ tản đà với phong cách ngông ộc đáo, đó là cái ngông của một nhà nho tài tử ở ượt ượn ượn. >

3. phân tích bài hầu trời mẫu số 3

tản Đà dấu gạch nối, bản lề khép mở giữa hai giai đoạn văn học việt nam. ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, phong phú trên nhiều thể loại. tác phẩm của ông thể hiện cái tôi vừa lãng mạn, bay bổng vừa ngông nghênh. chính những yếu tố đã tạo nên dấu ấn riêng biệt cho thơ văn tản Đà. “hầu trời” có thể coi là một trong những tác phẩm hay nhất, kết tinh giá trị nội dung, nghệ thuật của tàn Đà.

cách tản Đà mở đầu tác phẩm của mình hết sức đặc biệt:

“Đêm qua chẳng biết có hay không,

chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

hey hồn! that phách! that that that!

thật được lên tiên sướng lạ lùng.”

câu thơ đầu tiên là nỗi băn khoăn hết sức chân thật, liệu đêm qua có là thực, hay chỉ là hư. hỏi ấy rồi ể câu thơ 2,3,4 ông đã tự trải chine chính những băn khoe HồN, Thật PHÁCH, THậT THN THể, THậT ượC Lên TIên “ể NHấN MạNH NHữNG CUNG BậC CảM XÚC Mà đêm qua chính ông đã ược Trải nghiệm, đó là n” sướng lạng “. Đây chính là cách tản Đà dìu dắt người đọc vào thế giới mộng tưởng, vào giấc mơ đêm qua của ông.

trong đêm trăng thanh gió mát, giữa lúc canh ba yên ắng, tĩnh mịch, tản đà nằm buồn uống nước và ngâm văn thì bỗng thấy có hai cô tiđn xu xng laón. chuyện dường như hoàn toàn hư cấu, khó lòng có thể tin ược nhng bằng cách giải thích dí dỏm, hài hước, tản đà đ`hiến cho lí do đở chở cở cở. “trời nghe hạ giới ai ngân nga/ tiếng ngân vang cả song ngân hà/ làm trời mất ngủ, trời đương mắng/ có hay lên đọc, trời nghe qua”.

trước sự đón tiếp nồng hậu, nhiệt tình của thiên giới, thi sĩ hăng say thể hiện bản thân:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

hết văn thuyết lí lại văn chơi”

và ông tự lên tiếng khẳng định, tự khen tài năng văn chương của bản thân “văn dài hơi tốt”, “văn đã giàu thay lại lắm”. ông khẳng định tài năng của bản thân không chỉ ở phần nội dung, nghệ thuật mà văn chương còn đồ sộ về số lưối. trước tài năng của tản Đà ai nấy đều cảm thấy vui sướng, hạnh phúc: trời “lấy làm hay”, “bật buồn cười”. các vị chư tiên “nở dạ” (sung sướng), “lè lưỡi” (thán phục), “chau mày” (suy ngẫm), “lắng tai” (chăm chú), “cùng vỗ tay” (tán dương), ao ước mong mỏi sở hữu những bài thơ bài văn ấy. và họ tranh nhau dặn:

– “anh gánh lên đây bán chợ trời”

những lời tán dương, ngợi khen của các vị chư tiên lại một lần nữa khẳng định tài năng của tản Đà:

“nhời văn chuốt đẹp như sao băng

khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

êm như gio thoảng, tinh như sương

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.”

hàng loạt hình ảnh so sánh ẹp ẽ nhất, tinh khiết nhất: sao băng, mây chuyển, tinh như sương, ầm như mưa sa, lạnh như tuyết, đã di tản Đà. Đồng thời cho thấy niềm sây mê ngưỡng mộ của họ đối với thi nhân. niềm đam mê văn chương đã xóa nhòa khoảng cách giữa một người trần mắt thịt với những người của nhà trời. DườNG NHư ếN VớI NGHệ Thuật, Chính Cái Hay, chỉ còn quan hệ giữa tác giả và độc giả.

đoạn thơ đã chười ọc pHần nào thấy ược with người của tản đà, ông là một người tự tự tin, kiêu hãnh với tài nĂng của bản thhng ýnhnhc ịc ịc ịc ịc ịc ịc ịc ịc ịc ịc nhưng đồng thời cuộc vượt thoát lên chốn tiên giới này cũng cho thấy sự cô đơn, lạ lõng của ông với cuộc đời of him. ông khao khát tìm được tri âm để có thể thấu hiểu tất thảy những tâm tư, tình cảm của mình. Đây đồng thời cũng là khát vọng chung của những người nghệ sĩ đương thời.

sau khi đem tài nĂng thể hiện cho mọi người, tản đà ồng thời cũng đem những tâm sự rất thực chia sẻ với trời c fourth “. Chiều: Thuê giấy mực, in, lại thuê cửa hàng, hao công tốn của những văn chương h -lạ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ. ngùi, nghi ngại về sứ mệnh của kẻ cầm but.

Để rồi sau đó, trời đưa ra những lời động viên hết sức chân thành: “thôi con cứ về mà làm ăn/ lòng thông chớ ngơi chi ng tuy”. lời động viên cũng chính là lời tự an ủi chính mình và các văn sĩ cùng thời. Đoạn thơ này lại cho thấy cái “ngông” trong with người tản đàm tự tin, kiêu hãnh về giá trị của bản thn ồng thời ông cũng có ý ccệi crám t.

bằng thể thất ngôn trường thiên, với ngôn ngữ trong sáng, giọng điệu tự nhiên tản Đà đã mạnh dạn thể hiện cái. Đó là cai tôi: ngông ngạo, phony túg, tự ý thức sâu sắc về tài nĂng, giá trịí đích thực của mình, khao khát ược khẳng ịnh g g g g g g g g g g g g g g of ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC C ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC

4. bài văn phân tích hầu trời mẫu số 4

tản Đà (1889 – 1939) tên thật là nguyễn khắc hiếu, quê ở sơn tây thuộc ba vì, hà nội ngày nay. sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, là “người của hai thế kỉ”, ông học chữ hán từ nhỏ nhưng sau chuyển sang sáng tác văn thơ bắng kung. Với phong cach sáng tac ầy lãng mạn, bay bổng vừa phony khoáng, ngông nghênh lại vừa cảm thương ưu ái – thơ văng ược coi ạt gạch n gi gi ữi ại ại ại ại ại ại ại ại ại ại ại ạ tác phẩm “hầu trời” trong tập “còn chơi” (1921) là một sáng tác cho ta biết được nhiều điều về thơ và with người tản>Đ

bài thơ ra ời Trong Hoàn Cảnh Khuynh Hướng Lãng mạn khá ậm nét Trong văn chương thời ại, xã hội thực dân nửa phong kiến ​​tù hãm, u uất, ầy rẫy cảy cảnh n, xón. bài thơ được tản Đà viết diễn biến như một câu chuyện có chi tiết và sự kiện đầy hấp dẫn.

Đêm qua chẳng biết có hay không

chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

wow! what a phách!

thật được lên tiên sướng lạ lùng

điệp từ “thật” nhấn mạnh cảm xúc của thi nhân, những câu cảm that bộc lộ cảm xúc bàng hoàng, câu khẳng ịnh dường như lật lại v wha ề ề ề ề ề cách giới thiệu ấy đã gợi cho người đọc về một tứ thơ lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái hồn cốt trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thật. cách vào chuyện đầy độc đáo và có duyên ấy làm cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên lôi cuốn.

rồi nhà thơ kể về hoàn cảnh bắt đầu câu chuyện đầy li kì của mình:

nguyên lúc canh ba nằm một mình

vắt chân dưới bong ngọn đèn xanh

nằm buồn ngồi dậy đun nước uống

uống xong ấm nước nằm ngâm văn

vậy là không gian mở đầu đã rất đầy đủ, thời gian – canh ba; không gian – đêm khuya; hoạt ộng – nằm một mình, uống nước ngâm thơ … rất ầy ủ ể ọ ọc giả tưởng tượng ra một buổi đêm hết sỷh qu᩺vắc vắ. Đó là cái nền hấp dẫn để bắt đầu một câu chuyện lên tiên của nhà thơ. vẫn những lời kể rất tự nhiên, nôm na, lý do lên trời cũng rất độc đáo mà hợp lí.

trời nghe hạ giới ai ngâm nga

tiếng ngâm vang cả song ngân hà

làm trời mất ngủ trời đương mắng

có hay lên đọc trời nghe qua

mượn lời của nhà trời để nói về tiếng ngâm của mình “vang cả song ngân hà”. Ở đây she đã thấy lộ rõ ​​cái tôi cá nhân đầy chất lãng mạn bay bổng pha chút ngông trong thi nhân. Điều này càng rõ ràng khi thi nhân đọc thơ và nói về các tác phẩm của mình:

Đọc hết văn vần lại văn xuôi

hết văn thuyết lý lại văn chơi

thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc. thi nhân cũng kể tường tận về các tác phẩm của mình:

hai quyển khối tình văn lý thuyết

hai khối tình còn là văn chơi

thần tiên giấc mộng văn tiểu thuyết

giọng đọc của thi nhân rất đa dạng, hóm hỉnh và ngông ngênh. Đoạn thơ đã cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình, she cũng là người táo bạo dám đường hoàng bộc ltôi. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để thể hiện tài năng of her. Đây cũng là khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ.

sự độc đáo ở đoạn thơ còn thể hiện ở việc thi nhân tự khen thơ mình nhưng lại để cho trời và chư tiên khen ngợi:

chư tien ao ước tranh nhau dặn:

“anh ghánh lên đây bán chợ trời”

trời lại phê cho “văn thật tuyệt”

văn trần được thế chắc có ít

người ở phương nào ta chưa biết.”

trời khen rất nhiệt thành: “văn thật tuyệt, văn chuốt như sao băng …” chư tiên thì xúc ộng, hâm mộ và tán thưởng: “tâm nở lở là lạ, cƻy là lạ, m. lối ngông rất đáng yêu của thi sĩ. cả đoạn thơ đậm chất lãng mạn. ỒNG thời ở đây ta cũng thấy rõ tưng thoot li của nhà thơ – muốn chốn thoot khỏi chốn trần tục, văn thơ của ông chỉ xứng cho người trời nghe, người ời No.

Ở đoạn thơ tiếp theo nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái tôi của mình gắn liền với tên tuổi thật của mình:

con tên khắc hiếu họ nguyễn

quê ở Á châu về địa cầu

song Đà núi tản nước việt nam

trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để thể hiện cái tôi của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài, biết trân trọng khẳng định tài năng của mình. trong thời đại cuả tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như là cách thể hiện sự tự hào, tựân tôn. nhà thơ còn khẳng định phong cách ngông của mình một cách hóm hỉnh:

“bẩm quả có tên nguyễn khắc hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông”

trong cuộc đối thoại với tưởng tượng với nhà trời nhà thơ còn khẳng định trách nhiệm và nghĩa vụ cao cả của mình lình “”. phải chăng đó cũng là lời khẳng định về thiên chức của những người cầm bút. Đây là tình huống được tác giả xây dựng đầy hợp lí để có cơ hội giãi bày về cái nghề của mình. Thi nhân kể về cuộc sống – đó là một cuộc sống nghèo khổ, tum thiếu, thân pHận nhà văn bị rẻ rúr, ở trần gian không tìm ược tri âm pHải ln cõn cõn trỏn.

bẩm trời cảnh with thực nghèo khó

trần gian thước đất cũng không có

văn chương hạ giới rẻ như bèo

kiếm được đồng lãi thực rất khó

nhà thơ tản đà ược coi là người ặt nền mong cho thơ hiện ại không chỉi bởi hơi thở mới mẻ trong thơ ông, cai tôi hiên ngang trong tong Áng văn thơ củ văn chương ra ban phố phường”.

qua đoạn thơ ấy ta thấy hi ện lên một bức tranh ầy chân thực và cảm ộng về cup sống của người nghệ sĩ trong xã hội bấy giờ, một cuộc sống cơc cực cơc cực , làm chẳng đủ ăn… cả đoạn văn là cảm hứng hiện thực bao trùm.

Ở đây nhà thơ cũng ý thức rất rõ về trách nhiệm của mình là truyền bá thiên lương. Điều đó giúp ta chứng tỏ tản Đà lãng mạn chứ không thoát li hoàn toàn. Ông vẫn ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ với đời là góp phần đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn. Đó là sự khẳng định mình trước cuộc đời, khao khát được gánh vác việc đời.

với hầu trời tàn Đà đã đem lại cho văn học việt nam đầu thế kỉ một luồng không khí mới. qua một câu truyện tưởng tượng đầy hào hứng. ta đã thấy một cái tôi ngông nghênh, hào hoa và cái tôi cô đơn bế tắc trước thời vận. thi sĩ cũng đã tự tin khẳng định tài năng nói lên quan điểm văn chương thực hiện thiên lương của mình. viết văn hay làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn là xứ mạng mà trời đã giao cho nhà thơ.

với cach kể truyện hom hỉnh, có duyên, lôi cuốn người ọc, ngôn ngữ thơ tinh tế, gợi cảm, cảm xúc tự nhiên pHong tum Trong thể thơ thất ngôn trường Thiên khá tự tự tự tự ca kì diệu.

tản Đà – một with người xứng đáng để người đời tôn kính với những gì ông đã đóng góp cho cuộc đời và văn học.

văn chương thời nôm na

thú chơi có sơn hà

ba vì ở trước mặt

hắc giang bên cạnh nhà.

(nguồn: dương Đạt)

5. bài văn phân tích hầu trời mẫu số 5

tản đà (1889 – 1939) tên khai sinh là nguyễn khắc hiếu, ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời Hán học đã tàn và tây học cũng mới bắt ầu và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ” (hoài thanh). vào những năm 20 của thế kỉ xx, tên tuổi tản đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn, một số tonc phẩm tiểu củà “a ông là2”; “giấc mộng lớn” (tự truyện – 1928); “Còn chơi” (thơ và văn xuôi – 1921) … thơ tản đà thể hi “cai tôi” lãng mạn, bay bổng vậa phony khoáng lại vừa cảm thương, chynh vì vì vì vì đnpir vị trí ầ nam”. một bài thơ thể hiện khá rõ nét phong cach này của tản đà là bài “ hầu trời” . tôi” cá nhân ngông nghênh, phóng túng và khao khát được khẳng định giá trị bản thân trước cuộc đời của tản Đà.

bài thơ “hầu trời” gây ấn tượng sâu sắc với người ọc bằng cach vào ề ề, các dẫn dắt khá bất ngờ và thú vị, cutn Hút người ọc vào c chuy ện ện ện

“Đêm qua chẳng biết có hay không

chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng

hey hồn! that phách! that that that

thật được lên tiên – sướng lạ lung”

chính tác giả là chủ thể của giấc mơ cũng không dám khẳng định là giấc mơ đó có hay không, thực hay hư ảo. nhưng ở các câu thơ tiếp theo với việc dùng ngữ điệu mãnh mẽ như để khẳng định yếu tố thực của giấc mơ. từ “thật” được lặp lại bốn lần cũng như để nhấn mạnh sự thật của các chi tiết, hình ảnh trong giấc mơ.

Ở những khổ thơ tiếp theo, tác giả kể về lí do được lên “hầu trời” của mình:

“nguyên lúc canh ba nằm một mình

vắt chân dưới bong ngọn đèn xanh

nằm buồn, ngồi dậy đun ấm nước

uống xong ấm nước, ngồi ngâm văn.

….

….

vào trông thấy trời, sụp xuống lạy

trời sai tien nữ dắt lôi dậy

ghế bành như tuyết vân như mây

truyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy”.

câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà giống như một câu chuyện có thật vì có đủ tình huống, không gian, thời gian diễn ra sự v l chín hín t. tác giả giải thích lí do của buổi “hầu trời” là do “tiếng ngâm vang cả song ngân hà” khiến trời mất ngủ. trời bèn sai tiên nữ xuống gọi thi sĩ lên đọc văn cho trời nghe. lí do của buổi “hầu trời” mà tác giả ưa ra như một khẳng ịnh rằng: cái may mắn ược lên hầu trời gắn liền với nhền hƃthỡ phƩÚt.

khi đã đưa ra lí do, tác giả kể tiếp diễn biến của buổi “hầu trời”. câu chuyện diễn ra rất tự nhiên và hợp lí. theo lệnh của trời, thi sĩ đọc văn và ngâm văn của mình cho trời và các chư tiên nghe.

“truyền cho văn sĩ đọc văn nghe

dạ bẩm lạy trời with xin đọc.”

Đúng với niềm đam mê của mình, thi sĩ đọc với tất cả sự nhiệt tình và phấn khích. có lẽ chưa bao giờ thi sĩ lại cảm thấy hứng thú và thăng hoa đến như thế này nên she đọc liền một mạch:

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi

hết văn thuyết lí lại văn chơi

Đương cơn đắc ý đọc đã thích

chè trời nhấp giọng càng tốt hơi”.

thái độ của người nghe rất chăm chú và ai cũng tán thưởng, bộc lộ sự hâm mộ qua net mặt, cử chỉ, điệu bộ: “tâm lưƻ nh”; “hằng nga, chức nữ chau đôi mày”; “thành song, tiểu ngọc lắng tai đứng” và khi hết mỗi bài thì tất cả cùng đồng loạt vỗ tay. Thi sĩ còn kể ra hàng loạt các tập thơ của mình như: “khối tình”, “đài gương”, “lên sáu”… nhận ược sự ngưỡng mộ, thi sĩ ược cac chư tiên dặn: “anh gánh gánh lên đ trời”.

Đoạn thơ tiếp theo thể hiện rõ ý thức về “cái tôi” cá nhân của tác giả rất cao:

“trời lại phê cho: “văn thật tuyệt!

văn trần được thế chắc có ít

nhời văn chau chuốt đẹp như sao bang!

khí văn hùng mạnh như mây chuyển!

Êm như gio thoảng, tinh như sương!

Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

“cái tôi” được thể hiện ở việc tác giả đã cố ý mượn lời của trời để ca ngợi thơ văn của mình. hiện tượng này từ trước ến nay trong lịch sử văng chưa từng thấy, nó không những chứng tỏ tản đà rất có ý thức về tài nĂng văn chương vượt trội củi củi củi củ khẳng định chính tản Đà là người khơi nguồn cho một cuộc cách mạng về thơ ca, đúng với cái tên “người của hai thế kỉ than” mọi hoč. Cái Hay, Cari ẹP Trong Thơ văn tản đà ược chính tac giả đem so sánh với vẻ ẹp tuyệt vời của các hiện tượng, sự vật trong vũ trụ như: sao băng, mây, gió, sương, tuyết… giả tỏ ra rất tự hào, kiêu hãnh về tài năng văn chương của mình. Đây chính là cái “ngông” của thi sĩ, tự khẳng định một cách rất “ngông”, rất tản Đà.

theo yêu cầu của trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:

“- dạ, bẩm lạy trời with xin thưa

con tên khắc hiếu họ là nguyễn

quê ở Á châu về địa cầu

song Đà núi tản nước nam việt”

trời ngờ ngợ một lúc lâu rồi sai thiên tào kiểm tra lại. thiên tào tra sổ rồi bẩm bao:

“ – bẩm quả có tên nguyễn khắc hiếu

Đày xuống hạ giới vì tội ngông”.

lúc ấy trời mới phán rằng đó không phải là trời đày mà là nhờ làm việc “thiên lương” của nhân loại. thấy trời phán vậy, thi sĩ liền trình bày một mạch nỗi khổ của bản thân và những khó khăn của nghề kiếm sống bằbúng ngòi

“- bẩm trời, cảnh with thực nghèo khó

trần gian thước đất cũng không có

trời lại sai with việc nặng quá

biết làm có được mà dám theo”

đoạn thơ này là một bức tranh hiện thực ược vẽ bằng Bút phap tả chân thực, tỉ mỉ và rất cụ thể, pHản ang chynh xác ời sống c cùc cực củng lg lg l ìng ìng ìtng ìnt nghnn ìtngs ìnt nghnn ìtngs ìnt nghnn ìtngs ìnt nghnn ìtng ìtng ìng ìng ìng ìng ìng ìng ìng ìng lệng ìng ìng ìng ìng lệng. văn chương thời ấy. cảm xúc ở đoạn thơ khi thi sĩ đọ thơ cho trời nghe hứng khởi bao nhiêu thì đoạn này lại ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu. giấc mơ “hầu trời” như sự biểu hiện tha thiết, mãnh liệt của khát khao được thể hiện tài năng của thi sĩ. dường như trời cũng thấu hiểu được tình cảnh của thi sĩ nên khuyên nhủ:

“rằng: with không nói trời đã biết

trời dẫu ngồi cao, trời thấu hết

thôi with cứ về mà làm ăn

lòng thông chớ ngại chi sương tuyết”

tiếng gà gáy xao xác, tiếng người dậy báo hiệu đã hết đêm. cuộc chia tay giữa thi sĩ với trời và các chư tiên diễn ra trong niềm xúc động:

“hai hàng lụy biệt giọt sương rơi

trông xuống trần gian vạn dặm khơi

thiên tien ở lại, trích tien xuống

theo đường không khí về trần ai”

thi sĩ đã tỉnh khỏi giấc mộng nhưng những sự việc diễn ra vẫn còn đầy ấn tượng khiến thi sĩ phải thốt ra nhtip> s

“một năm ba trăm sáu mươi đêm

sao được mỗi đếm lên hầu trời”.

câu chuyện “hầu trời” đã phản anga khá rõ tính cach của tản đà, ông đã mạnh dạn tự biểu hiện “cai tôi” ca nhân, một “cai tôi” tài năng, dám đàng hoàng công khai cái tài văn chương hơn người của mình. bài thơ “hầu trời” là một bài thơ hay và độc đáo, tiêu biểu cho tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thƺà> t

-/-

trên đây, ọc tài liệu đã tổng hợp một số gợi ý cơ bản cũng như mẫu dàn ý chi tiết cho bài phân tích bài thƺ hầu c trà hello vọng, cùng với nhữ tham khảo ở cuối bài viết các em sẽ có thêm những ý tưởng mới, vốn từ ngữ mới cho btài vi. chúc các em học tốt !

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *