Văn mẫu lớp 12: Phân tích 20 câu đầu trong bài thơ Việt Bắc (2 Dàn ý 8 mẫu) Việt Bắc của Tố Hữu

Duới đây là các thông tin và kiến thức về Phân tích 20 câu đầu bài thơ việt bắc hay nhất và đầy đủ nhất

văn mẫu lớp 12: phân tích 20 câu đầu trong bài thơ việt bắc của tố hữu mang đến 8 bài văn mẫu đạt điểm cao kèm theo. 8 Bài văn phân tích 20 câu ầu việt bắc dưới đy các em nên tham khảo ể ể tích lũy kinh nghiệm, học hỏi cach viết, từt hợp với n Ăng lực Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng Sáng

phân tích 20 câu đầu bài việt bắc để lại nhiều ấn tượng trong lòng độc giả. Đó không chỉ là một cuộc chia ly đầy nước mắt nặng ân tình giữa quân và dân mà còn là sự phân li cuộc sống cũ sang cuội m. Để hiểu rõ hơn về 20 câu đầu việt bắc, mời các bạn cùng theo dõi 8 bài văn mẫu dưới đây nhé.

dàn ý phân tích 20 câu đầu trong bài thơ việt bắc

dàn ý số 1

i. mở bài:

– giới thiệu tác giả, tác phẩm.

– giới thiệu đoạn trích.

ii. thanks bài:

– giới thiệu hoàn cảnh sáng tác.

– giới thiệu vị trí đoạn trích.

* phân tích:

– tám câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến bịn rịn trong buổi chia tay:

  • Bốn Câu Trên, Sử DụNG điệp cấu Trúc “Mình Về Mình Co NHớ” là lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉm nệm về “mười lăm n nghĩa tình.
  • cách xưng hô “mình – ta” như lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau khiến cuộc chia tay trở nên thân mật, giản dị. cách xưng hô còn gợi nhớ ến những câu ối đÁ trong điệu hát giao duyên khiến những câu thơ nói về cách mạng không khô khan mà trởn ằn, sm khan mà trởn ằn, sm khan mà trởn ằn
  • Bốn câu thơ tiếp là nỗi lòng lưu luyến của cả người ở lại và ra đi thể hiện qua những từ ngữ diễn tả tâm trạng trực tiếp: “da diết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”; không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi: “áo chàm”, “cầm tay nhau”.
  • – mười hai câu tiếp theo, với việc sử dụng điệp từ “nhớ”, là lời nhắn nhủ dưới hình thức câu hỏi:

  • nhớ đến những ân tình trong khó khăn gian khổ: “miếng cơm chấm muối” nhưng vẫn “đậm đà lòng son”.
  • nhớ đến quang thời gian hoạt động cách mạng: kháng nhật, việt minh, tân trào, hồng thái,…
  • Đại từ xưng hô “mình” thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa kẻ ở, người đi. nó giống như cách xưng hô tâm tình, thủ thỉ chân thành.
  • iii. kết bài:

    – khái quát lại vấn đề.

    dàn ý số 2

    1. mở bài

    – giới thiệu khái quát về tác giả tố hữu: là một nhà thơ lớn, một nhà thơ trữ tình chynh trị, thơng luôn phản ững na thng. /p>

    – giới thiệu bài thơ việt bắc: hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính của bài thơ.

    2, wow

    *Ý nghĩa nhan đề

    – việt bắc là một địa danh – là cái nôi của cách mạng việt nam tiền khởi nghĩa, là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến chống.

    – việt bắc là nơi lưu giữ nhiều kỉ niệm giữa cán bộ cách mạng và đồng bào nơi đây.

    * lời của người ở lại (20 câu thơ đầu)

    – tám câu thơ đầu là tâm trạng lưu luyến bịn rịn trong buổi chia tay:

    • Bốn Câu Trên, Sử DụNG điệp cấu Trúc “Mình về mình CO NHớ” Là lời ướm hỏi, khơi gợi lại những kỉm về “mười lăm n nghĩa tình.
    • cách xưng hô “mình – ta” như lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau khiến cuộc chia tay trở nên thân mật, giản dị. cách xưng hô còn gợi nhớ ến những câu ối đÁ trong điệu hát giao duyên khiến những câu thơ nói về cách mạng không khô khan mà trởn ằn, sm khan mà trởn ằn, sm khan mà trởn ằn
    • Bốn câu thơ tiếp là nỗi lòng lưu luyến của cả người ở lại và ra đi thể hiện qua những từ ngữ diễn tả tâm trạng trực tiếp: “da diết”, “bâng khuâng”, “bồn chồn”; không khí buổi chia tay thân tình, gần gũi: “áo chàm”, “cầm tay nhau”.
    • – mười hai câu tiếp theo, với việc sử dụng điệp từ “nhớ”, là lời nhắn nhủ dưới hình thức câu hỏi:

    • nhớ đến những ân tình trong khó khăn gian khổ: “miếng cơm chấm muối” nhưng vẫn “đậm đà lòng son”.
    • nhớ đến quang thời gian hoạt động cách mạng: kháng nhật, việt minh, tân trào, hồng thái, …
    • Đại từ xưng hô “mình” thể hiện sự gắn bó, thân thiết giữa kẻ ở, người đi. nó giống như cách xưng hô tâm tình, thủ thỉ chân thành.
    • * lời của người ra đi

      – bốn câu thơ tiếp khẳng ịnh nghĩa tình thy chung, mặn mà, “ta với mình, mình với ta”: thể hi hi sự gắn bó, thấu hiểu nhau giữ người đi, kẻ ở. <. <.

      – người đi bày tỏ nỗi nhớ ến thiên nhiên việt bắc: “trăng lên ầu núi, nắng chiều lưng nương”, “bản khói c cuar xuân, ảen, đ>

      – nhớ đến with người việt bắc:

      • những with người dù gian khó, vất vả những vẫn có tâm lòng thủy chung, cùng chia sẻ mọi “ắng cay ngọt bùi .sui đắp cùng.”
      • nhớ hình ảnh những con người mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của người lao động: “người mẹ”, “cô em gái”.
      • – nhớ hình ảnh quân dân việt bắc đoàn kết đánh giặc: “ta cùng đánh tây”, “cả chiến khu một lòng”; khí thế hào hùng của quân dân ta trong các trận đánh

        – nhớ những chiến công, những niềm vui thắng trận: “tin vui thắng trận trăm miền … núi hồng”

        – nhận xét: nhịp thơ dồn dập như âm hưởng bước hành quân, hình ảnh kì vĩ… tất cả tạo nên một bức tranh sử tho hoành trang ểể ca ngợi sức mạnh củc.

        * niềm tự hào, niềm tin gửi gắm việt bắc cm (16 câu thơ cuối)

        – nhớ hình ảnh tươi sáng nơi nguồn cội của cuộc cách mạng: ngọn cờ ỏ thắm, rực rỡ sao vàng, có trung ương ảh có.c ảng, v có chíngh

        – Đoạn thơ thể hiện niềm tin vào sức mạnh, khả năng lãnh đạo của Đảng trong các cuộc cách mạng, niềm tự hào vào bphữc chip

        3. kết bài

        – khái quát giá trị nghệ thuật: sửng thể dân tộc: thể thơ lục bát ể nói về tình cảm cach mạng, lối ối đáp, sửng ạng ại từng x mạc, giàu sức gợi…

        phân tích 20 câu đầu bài việt bắc – mẫu 1

        “việt bắc” là bài thơ lục bát dài 150 câu thơ của tố hữu ược sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngày thủ đô hà ội ợc hog

        “việt bắc” là bản hùng ca và tình ca của cách mạng và kháng chiến. Đoạn thơ sau đây dài 20 câu thơ nằm trong phần đầu bài “việt bắc”:

        mình về mình có nhớ ta…tân trào, hồng thái, mái đình, cây đa.

        đoạn thơ ghi lại tình cảm của ta khi ưa tiễn mình: mình đi… mình về… có thể hiểu ta là cô gái việt bắc, là Ỻc d cữ cữ mình là người cán bộ kháng chiến, là anh bộ đội cụ hồ. chữ ta được vây bọc, được quấn quýt trong vòng tay yêu thương của mười hai chữ mình.

        bốn câu thơ mở bài cất lên nghe tha thiết bồi hồi; cảm xúc được nén lại trong lòng bỗng ùa dậy và trào lên. ta hỏi minh, there is ta đang hỏi lòng ta trong buổi phân li ấy:

        mình về mình có nhớ tamình lăm năm ấy thiết tha mặn nồngmình về mình có nhớ khôngnhìn cây nhớ núi, nhìn sông nguớn?

        tình nghĩa giữa ta với mình không phải làyy một ngày hai mà đã giao hòa gắn kết “thiết tha, mặn nồng” Trong suốt mười lăm nĂm trời, khn nghn ế ế ). cây, núi, sông, nguồn việt bắc “mình có nhớ không?”. câu hỏi tu từ mở ra một trời thương nhớ.

        tố hữu đã học tập và vận dụng sáng tạo ca dao dân ca, gợi nhớ trong lòng người ọc hai tiếng mình, ta trong những bài hat giao duyên của trai gái gáng làng quó n. – ta về ta nhớ hàm răng mình cười”. chất trữ tình đằm thắm ấy đã tạo nên một net đẹp trong đoạn thơ, cũng như cả bài thơ.

        bốn câu thơ tiếp theo gợi tả không gian, thời gian và tâm trạng nghệ thuật của người ra đi, của kẻ ở lại. tiếng hát tha thiết của ai cất lên bên cồn, nơi mé rừng, nơi bờ suối? hình ảnh hoán dụ “áo chàm” làm nổi bật đối tượng đưa tiễn và màu sắc việt bắc. “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi… cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” gợi lên nhiều thương nhớ rưng rưng. các từ láy: “tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn” là tâm trạng của mình, của ta:

        tiếng ai tha thiết bên cồnbâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân licầm tay nhau biết nói gì hôm noy…

        mười hai câu thơ tiếp theo, các cặp từ ngữ: “mình đi” và “mình về” được giao hoán đến ba lần đầy ấn tượng. Điệp ngữ “có nhớ” được láy lại đến năm lần, chốt lại ở các châu lục, tạo nên cảm xúc bâng khuâng, bồn, tha

        mình đi, có nhớ những ngàymưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùmình về, có nhớ chiến khumiếng cơm chấm muối, mối th>u n?

        những gian khổ, thiếu thốn, khó khăn khi cách mạng còn trứng nước, những ngày bác hồ mới về nước “nhóm lửa” tại pằg bác. “Mưa nguồn suối lũ những mây c cùng mù” nơi chiến khu giữa vòng vây của giặc phap, giặc nhật đã trở thrành kỉ nệm sâu sắc trong lòng kẻ ở người vềi về. “Miếng cơm chấm muối” thuở ấy đã làm cho tình ồng chi nặng vai” khắc sâu vào xương tủy:

        you can sẽ chết! thằng giặc pháp hung tànbăm xương thịt mày, tao mới hả.

        (dọn về làng – nông quốc chấn)

        mình về xuôi, mình đi xa để lại bao nhớ thương cho ta, cho người ở lại, cho cảnh vật cỏ cây, núi rừng chiến khu. rừng núi, trám bùi, măng mai được nhân hoá, mang theo bao nỗi nhớ, bao nỗi buồn thương. cảnh vật như hoà lệ, các chữ “rụng”, chữ “già” gợi lên nhiều bơ vơ, man mác, bâng khuâng:

        mình về, rừng núi nhớ aitrám bùi để rụng, măng mai để già.

        làm sao có thể quên được nghĩa tình việt bắc trong những tháng ngày gian lao và anh dũng ấy:

        mình đi, có nhớ những nhàhắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

        tố hữu đã sáng tạo nên những hình ảnh tượng trưng, ​​tương phản (lau xám / lòng are) ể ca ngợi ồng bào các dân tệt bc vi tuy nghèo khó, thiếu thốn nhưn nhưng tì vẫn thuỷ chung son sắt, vẫn đậm đà. Đây là những vần thơ đẹp nhất, cảm động nhất nói về nỗi nhớ, lòng biết ơn và lòng tự hào đối với việt b.

        việt bắc là “ầu nguồn”, là “cái nôi” của cách mạng và kháng chiến, là căn cứ ịa của việt minh thời kháng nhật, là tân trào, nơi ội việt n ntn ntn ntnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnêtnênl. kích (tháng 12-1944), là mái đình hồng thái, nơi họp quốc dân đại hội (tháng 8-1945). Việt bắc là chiến khu bất khả xâm pHạm, là thủ đô gó ngàn: “noui giăng thành lũy sắt dày – rừng che bội ội, rừng vây quân”, nên cón giờ có cr tể ểi ội ộ có thể ể ội, rừng vây quân”, nên con giờ có thể ể ội, r.

        mình về, có nhớ núi nonnhớ khi kháng nhật, thuở còn việt minhmình đi, mình có nhớ mìnhtân trào, hồng thái, mái đình, cây đa.

        mười lăm năm ấy ai quênquê hương cách mạng dựng nên cộng hòa

        một nét đặc sắc của đoạn thơ là tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối xứng rất tài tình. các câu bát được tạo thành hai vế đối nhau (tiểu đối) làm cho ngôn ngữ thơ hài hòa, mang vẻ đẹp cổ điển:

        nhìn cây nhớ noui, // nhìn sông nhớ nguồn? bâng khuâng trong dạ, // bồn chồn bước đimưa nguồn suối lũ, // những mây cùng mùmiếng cơm chấm muối, // rụng,// măng mai để giàhắt hiu lau xám, // đậm đà lòng sonnhớ khi kháng nhật, // thuở còn việt minhtân trào, hồng thái, // mái đình, câ.

        đa.

        Đoạn thơ trên đây cũng như cả bài thơ, có trường hợp chữ mình xuất hiện đến ba lần trong một câu thơ. thật không dễ phân biệt rạch ròi chủ thể trữ tình trong ba chữ mình đó. phải chăng mình cũng là ta, ta cũng là mình, hai tâm hồn đã nương tựa vào nhau:

        – minh đi, minh có nhớ minh

        – minh đi, minh lại nhớ minh.

        “việt bắc” là đỉnh cao của thơ tố hữu, cũng là thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến. Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho vẻ đẹp đặc sắc đó.

        ngôn ngữ thơ vừa thấm đẫm trữ tình ca dao, dân ca, vừa mang vẻ đẹp của thi ca cổ điển dân tộc. tình nghĩa thủy chung của ta với mình, lòng biết ơn, niềm tự hào ối với chiến khu việt bắc và ồng bào các dân tộc việt bắc đã tạn thn thnh nh nh nh.

        sau hơn nửa thế kỉ, đọc “việt bắc” của tố hữu, ta càng xúc động, bồi hồi về điệp ngữ “có nhớ”. “việt bắc” là bài ca tình nghĩa thủy chung. bài ca ấy, bài học ấy cho tuổi trẻ chúng ta thời đổi mới ngày nay niềm tin yêu và sức mạnh để bước vào đời và biết đp.

        phân tích 20 câu đầu bài việt bắc – mẫu 2

        tô hoài coi tố hữu xứng đáng là “ngôi sao sáng nhất trong bầu trời thơ ca cách mạng việt nam thế kỷ 20”. Với nguyễn ðĂng mạnh thì tố hữu ược mệnh danh là “nhà thơ của lẽ sống cach mạng”, “nhà thơ của tổc quốc việt” th nam “, lớ thơ của tổc quốc việt” th nam ” là một trong những nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất của nền thi ca hiện ại. “việt bắc” là bài thơ lục bát ỉnh cao ể ời sự nghiệp của ông. của nhà thơ một cách sâu sắc nhất.

        thật vậy, “việt bắc” như một cuốn biên niên sử bằng thơ. THANG 7/1954 CUộC KHANG CHIếN CHốNG THựC DâN PHAPP THắNG LợI Hòa BìnH ượC LậP LạI, MIềN BắC NướC TA HONN TOÀN GIảI PHONG, MộT SHR SửI MớI Mở tháng 10/1954, cơ quan trung ương của Đảng và nhà nước chuyển từ căn cứ địa về thủ đô. strong thời điểm lịch sử ấy, bài thơ “việt bắc” đã ra đời. “việt bắc” không còn là tình cảm riêng của tố hữu mà còn tiêu biểu cho tình cảm của người kháng chiến miền xuôi ối với cál chiến, v. ới cál chiến, v. ới cál chiến

        Đoạn thơ mở đầu bằng những ca từ ngọt ngào mà sâu lắng:

        “mình về mình có nhớ tamười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngmình về mình có nhớ khôngnhìn cây nhớ núi, nhìn sông nh>

        câu thơ mở ra canh chia tay từ biệt bịn rịn giữa người dân việt bắc với cán bộ về xuôi. Đó là một thứ tình cảm keo sơn gắn bó đã “mười lăm năm”. Đây là một khoảng thời gian dài để thắt chặt tình cảm giữa hai bên thật gắn bó làm sao? với hình thức kết cấu hỏi đáp quen thuộc vừa giản dị lại chân thành là một hình thức rất quen thuộc trong cao dao dân ca. nhưng ở khung cảnh chia tay bịn rịn này, dường như nhà thơ chỉ mượn hình thức ca dao để nói về nỗi lòng của mình. người dân việt bắccc tâm trạng xao xuyến không biết cán bộ chiến sĩ về miền xuôico nhới tới họ không, nhớ tới khoảng thời gian “thiết tha mặn nồng”, nhớ tới việt va Đại từ nhân xưng “mình – ta” quen thuộc trong ca dao là ngôn từ là cách xưng hô biểu đạt hợp lý nhất tình cảm chia xa mà đã gấn lbó. bốn câu thơ màc tới bốn chữ mình, bốn chữ nhớt chữ ta hòa quyện lấy nhau không tách rời như hình với bong khiến cho ạo lý ân tình tthy thung ấy thêm are sắt.

        tiếp theo là tiếng lòng của người ra đi hồi đáp lại người ở lại:

        “tiếng ai tha thiết bên cồnbâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân lycầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

        nỗi lòng của người ở lại khiến cho người ra đi không khỏi “bâng khuâng”, “bồn chồn”. họ như không muốn bước đi. thật khó để diễn tả được tâm trạng của người trong cuộc lúc này. “bâng khuâng” là tâm trạng chất chứa những nhớ thương bao trùm cả không gian với bao nhiêu kỉ niệm, không dừng lại mộàt kỉ nioệ còn “bồn chồn” cũng là từ chỉ tâm trạng nhớ thương, nhưng đó là tâm trạng không thể kìm nén bên trong mà biểu qua ba b. bi-ngoài như ném mặt bồn mong ợ ợi. Ở đây cái tâm trạng ấy lại hiện ra trong bước đi của người về xuôi thành “bồn chồn bước đi”. Đoàn thị Điểm trong “chinh phụ ngâm khúc” cũng từng nói về cái bồn chồn ấy:

        “bước đi một bước dây dây lại dừng”

        hình ảnh “chiếc áo chàm” vừa gợi hình, gợi tả. nó là hình ảnh hoán dụ mang nhiều tầng ý nghĩa. Áo chàm vừa chỉ người việt bắc, cũng như ẩn ý cả việt bắc đang tiễn người cách mạng về miền xuôi. câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” đầy tính chất biểu cảm. “biết nói gì hôm nay…” không phải là không có gì để nói. không nói được vì xúc động nghẹn ngào không thốt được nên lời. những lời không nói ấy có lẽ đã nằm hết trong ba chữ “cầm tay nhau”. “cầm tay” là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết. “cầm tay” là đã đủ nói lên bao cảm xúc trong lòng rồi.

        tố hữu để cho người ở lại lên tiếng. chỉ có 12 câu nhưng đều xoáy vào những kỷ niệm của những ngày cách mạng rất gian nan nhưng sâu nặng nghĩa tình:

        mình đi, có nhớ những ngàymưa nguồn suối lũ, những mây c cùng mù? mình về, có nhớ chiến khumiếng cơm chấm muối, mối thùng vai? mình v v vh v, rừng ụng ụng ăng n. Giàmình đi, with nhớng nhàhắt hu lau xám, ậm đà lòng sonmình về, còn nhớ nonnhớ khi kháng nhật, thuở còn việt minhmình đi, mình Cóco nh mìnht

        Đó là những kỉ niệm mà mỗi người không thể nào quên được. “miếng cơm chấm muối” là hình ảnh chân thực rút ra từ thực tế cuộc sống khó khăn nghèo nàn thiếu thốn cả về vấnt lth tin t th tuy nhiên, sống trong hoàn cảnh thiếu thốn ấy nhưng mối thù nước nhà vẫn không bao giờ dập tắt. hai hình ảnh ấy đối xứng đặt cùng một câu thơ tạo nên một mối tình đoàn kết gắn bó để chiến thắng quân thù. người ở lại tiếp tục kể cho người ra đi, nhắc nhở họ về những năm tháng “trám bùi để rụng”, “măng mai để già”. với thủ pháp đối lập “hắt hiu lau xám” với “đậm đà lòng son” diễn tả sâu sắc nỗi nhớ của người ở lại. người ở lại kể về cuộc kháng chiến thuở việt minh đã cùng nhau chiến đấu. và các địa danh gắn liền với việt bắc là không thể thiếu được. tố hữu đã nhắc về những địa danh lịch sử nổi tiếng ở việt bắc với những sự kiện quan trọng gắn liền với nó. cây đa tân trào là nơi ội việt nam tuyên truyền giải phony quân làm lễ xuất phát còn Mái đình hồng tái nơi Bác hồ chủ trì cuuộc họp quyt ịnh làm cac. tố hữu đã đặt hai địa danh này ở cùng một câu thơ nhấn mạnh tầm quan trọng cũng như ý nghĩa lịch sử của nó. Trong một đoạn thơ ngắn mà đãc ến 8 chữ “mình” và 7 chữ “nhớ”, trong đó cóc crữ 3 chữ “mình” luyến lay ị ị ị ị ị ị nh. đi vào lịch sử lại càng thể hiện tình nghĩa sâu nặng của người ở lại kể với người ra đi.

        tóm lại, chỉi với 20 câu thơ ầu, tố hữu đã khắc họa ược cuộc nói chuyện tâm tình thủ bằng hình thức ối đáp quen thuộc caa ữe âc. với 20 câu thơ ấy, những kỉ niệm đẹp giữa họ hiện lên vừa cụ thể, chân thực lại giàu tình cảm. Giọng thơ tâm tình thủ thỉ như nhắc nhở, níu kéo, như tâm sự giãi bày. “việt bắc” xứng đáng là bài thơ đỉnh cao để đời sự nghiệp thơ ca của ông.

        phân tích 20 câu đầu bài việt bắc – mẫu 3

        tố hữu là một trong những nhà thơ lớn nhất, tiêu biểu nhất của nền thi ca hiện đại. “ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng, nhà thơ của lý tưởng cộng sản”. tập thơ “việt bắc”, là ỉnh cao của thơ tố hữu ồng thời cũng là thành tựu hàng ầu của thơ ca kHáng chiến chống phap, Trong đó Bài Thơ “VII ệC” ượC “ượ Đó là khúc hát ân tình của người kháng chiến đối với quê hương, đất nước với nhân dân cách mạng được thể hiện bằng một nghệ thuật vừa cổ điển vừa hiện đại mà cốt lõi là truyền thống ân nghĩa đạo lý thủy chung của dân tộc .

        Được coi là người sinh ra để thơ hoá những vấn đề chính trị, thơ tố hữu luôn bám sát các sự kiện cách mạng. men theo năm tháng những bài thơ của tố hữu, ta có thể tái hiện lại những chặng đường hào hùng của cách mạng việt nam. thơ ông quả là “cuốn bien niên sử bằng thơ” như có nhà nghiên cứu đã đánh giá. “việt bắc” không phải là ngoại lệ.

        that 7/1954 Cuộc Kháng Chiến chống thực dân phap thắng lợi hoà bình ược lập lại, miền bắc nước ta hoàn toàn giải phong, một trag sử mới mở ất nướt nướt nướt nước. tháng 10/1954, cơ quan trung ương của Đảng và nhà nước chuyển từ căn cứ địa về thủ đô. strong thời điểm lịch sử ấy, bài thơ “việt bắc” đã ra đời. “việt bắc” không còn là tình cảm riêng của tố hữu mà còn tiêu biểu cho tình cảm của người kháng chiến miền xuôi ối với cál chiến, v. ới cál chiến, v. ới cál chiến MộT Sự Kiện Chính Trị đã Chuyển Hoá Thành Thơ Ca Theo Cách “Tâm Tâm Tình Hoá, Là MộT ặC TRưNG CủA LốI THơ TRữ TVìNH CHÍNH TRị TốU. no.

        Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ ngọt ngào:

        mình về mình có nhớ tamười năm năm ấy thiết tha mặn nồng.

        câu thơ mở ra cảnh giã biệt, một hoàn cảnh đặc biệt để bộc lộ cảm xúc trữ tình dạt dào. cảnh giã biệt vẫn quen thuộc trong thơ ca dân gian và cổ điển truyền thống đã ược tố hữu khéo vận dụng ểể diễgt ả ả tâm tr. cuộc chia tay lớn của can bộng, chynh phủ với vệt bắc ược thu vào cuộc chia tay của một đôi trai gai: người ở lại rừng noui chiến khu là cô gái ệt. Chuyện Chung đã Hóa Thành Chuyện Riêng, Chuyện Cách Mạng Của Dân NướC TRở Thành Chuyện Tình Yêu Của Lứa đôi, Cuộc Chia Tay ầy Bịn

        “mười lăm năm” “thiết tha mặn nồng” được tố hữu thể hiện bằng một thể thơ giàu tính dân tộc. thể lục bát, cach kết cấu ối đáp, sửng ại từ nhân xưng “mình”, “ta” quen thuộc trong thơ ca dân gian, co khả năn “biểu hiện một cach thuận tiện, phù hợp với đ đồng người việt” “rung lên cái sợi tơ lòng chung của những tấm lòng việt”. tất cả những yếu tố đó đã diễn tả thật xúc ộng tình cảm quyến luyến thiết tha trong một cuộc chia tay ặc biệt: chưa xa đã nhớ, ểể chia mà không xa, c.

        mình về mình có nhớ ta” đã là chuyện chung thuỷ, riêng tư. nhưng đến:

        “mình về mình có nhớ khôngnhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

        thì không còn là chuyện của tình yêu lứa đôi mà đã là chuyện ân nghĩa thủy chung của đạo lý dân tộc. câu thơ lục bát điệp hai lần từ “mình” nghe như lối tâm tình thương mến mà day dứt. băn khoăn lớn nhất của ta và mình trong cuộc chia tay là ân tình thủy chung. cái độc đáo ở chỗ: một câu hỏi về thời gian, một câu hỏi về không gian. chỉ một khổ thơ đã gói gọn một thời cách mạng, một trời cách mạng. tác giả đã chọn tình yêu một đôi trai gái làm một góc nhìn để bao quát toàn cảnh việt bắc với “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” từ thuở cách mạng còn trứng nước đến khi trưởng thành vững vàng đó là điểm nhìn nghệ thuật rất tố hữu- người thi sĩ luôn khơi nguồn cảm hứng từ những sự kiện lớn của cách mạng.

        tiếp theo câu hỏi của người ở là tiếng lòng của người đi:

        tiếng ai tha thiết bên cồnbâng khuâng trong dạ bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân licầm tay nhau biết nói gì hôm nay

        người đi đã nghe câu hỏi, lòng tràn đầy bâng khuâng “bồn chồn” một tình cảm thương nhớ “thiết tha”. Tâm trạng lúc chia tay ược diễn tả thật ắt qua sự luyến lay của ngôn từ và cả ở nhạc điệu của câu thơ:

        “Áo chàm đưa/ buổi phân lycầm tay nhau/ biết nói gì / hôm nay”

        cái xao xuyến bồi hồi của lòng người đã cồn cào nổi sóng trên câu thơ thể hiện cách thuần tình chút ngập ngừng chứa chan tình thương mến, tạo ra một khoảng lặng đầy biểu cảm để chuỗi câu hỏi tiếp theo vang lên dồn dập, tha thiết hơn.

        mười hai câu lục bát còn lại là lời của người ở, cấu tạo bằng sáu câu hỏi như khơi sâu vào kỷ niệm. Mỗi Câu Hỏi ều Gợi Lại những gìêu biểu nhất của việt bắc qua những hình ảnh chọn lọc gợi cảm: mưa nguồn, suối lũ, mây Mây, những hình ả “hắt hiu lau xÁm ậm đà lòng son” những câu thơ có khả năng diễn biến những khái niệm trừu tượng thành hình ảnh ầy cảm ᙑnggiác sản ụnggiác s nghệ thuật nhân hoá cũng tạo nên sự sống động cho hình ảnh thơ:

        “mình về rừng núi nhớ aitrám bùi để rụng, măng mai để già”

        tình cảm của người ở ối với người đi xem ra ược thể hiện sâu kín hơn cả trong câu thơ này, chỉ 14 chữ mà chứa ựng biết bao quyn luyến nhớng: núi rừng cũng mong nhớ đến thẫn thờ. như một thông lệ trong cuộc chia tay giữa những người thiết, người ta thường ẩy thời gian về quá khứ ể ể chưa xa đệã bih. Để trên nền xúc cảm này, dòng hồi tưởng những kỉ niệm thân thương ùa về mãnh liệt.

        “mình đi, mình có nhớ mìnhtân trào, hồng thái, mái đình, cây đa”

        nhìn thoáng qua, tổ chức các câu thơ đều lặp lại ở phép láy đầu 6 câu: mình đi, mình về. “Đi”, “về” vốn ngược chiều trái hướng, xong ở đây lại đồng nhất một phương .

        pHải chăng niềm tin giản dị mà rất thực của cả người đi và người ở đã thổi vào câu chữ, làm nên chút chút chub ngợp bối rối của ngôn từ, thể hi hi hi để hẹn về. việt bắc đã trở thành quê hương thứ hai của người cán bộ kháng chiến.

        những kỷ niệm ược gợi nhớ ều là những kỷm của cuộc sống chung, tình cannh bộ với nh ân dân chia ngọt sẻ bùi, chung gian lao, mối thùu khôôôôdor kỉm niệm niệm ” lưu ọng lại trong lòng người ọc. Cái làm nên chất thơ của bài “việt bắc” cũng như của đoạn thơ này chính là nhạc điệu. Chineh Sâu vào tâm tư. những yếu tố làm nên chất nhạc kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu lục bát rất chuẩn về thanu luật mà còn ở nghệ thuật tiểu ối ượ xúc ộng nỗi lòng sâu kín bồi hồi của người đi kẻ ở, mà còn tạo ra sự tương xứng vều trúc, vẻ ẹp nhịp nhịp nh.

        mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù

        miếng cơm / mối thù

        tram / măng

        hắt / son

        nhớ / minh

        tan / đa

        những hình ảnh thơ đã thực sự cất lên chất thơ nhờ nhạc điệu ầy quyến luyến, trầm bổng, ngân nga qua những câu thơ Song đôi lối ối ối xứI x Đặc biệt câu hỏi cuối đoạn thơ có thể tách riêng ra bởi sự thâm thúy, hàm súc:

        “mình đi mình có nhớ mìnhtân trào hồng thái mái đình cây đa”

        ại từ “mình”, “ta” vốn ược sử dụng trong ối đáp thơ ca dân gian nay ược tố hữu sử dụng ầy biến ảo: khi mình là ta, khi “ta” là “mình”, cai ngầm ảo . hai ta là một đã rõ. nhưng ở đây một câu lục mà tới ba lần lặp lại chữ mình: “mình đi, mình có” là chỉ người về, “nhớ mình” là chỰ. câu hỏi đầy ý nhị mà sâu kín: mình quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó. cũng như ở phần sau, tố hữu lại nhấn theo lối bồi thần trong câu thơ trả lời khẳng định sắt son.

        “mình đi mình lại nhớ mìnhnguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”

        nhà thơ đã khai thác rất đắt chữ “mình” trong tiếng việt. “mình” vừa là bản thân vừa là ta, “mình” cũng là người thân thiết có thể xem như chính mình vậy. Ại từ nhân xưng ược sử dụng vừa thống nhất vừa biến hoá khiến “việt bắc” cất lên như tiếng lòng ồng vọng bản hòa âm tâm hồn của ka k ở người đng vọng bản hòa âm tâm hồn của ka k ở người đng vọng bản hòa âm tâm hồn của ka kở người đng vọng bản hòa âm tâm hồn của ka kở người đng vọng bản hòa âm tâm hồn của ka k ở ngưi.i.

        sự ổi trong tổ chức câu thơ: “Mái đình hồng thati, cây đa tân trào” ược viết thành: “tân trào hồng track ồng ồng ồng ồng ồng ồng ồng ồng ồng ồng ồng ” toàn về ý nghĩa -việt bắc quê hương cách mạng. nỗi nhớ về chiến khu việt bắc “tân trào, hồng thái”, đã chuyển hoá thành nỗi nhớ quê hương “mái đình Cây đA “NHữNG HìnH ảNH ảin đi Vào T

        “việt bắc” là bài ca tâm tình, ngọt ngào đằm thắm rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách thơ của tố hữu. vẫn là tiếng nói của tình cảm tình yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng vâp.ố

        trong câu chuyện với một nhà nghiên cứu vĂn học người phap tố hữu tâm sự rằng: “Mình phải lòng ất nước và nhân dân của mình. và đã nói về ấ Cho nên tình yêu biến thành tình nghĩa “việt bắc” đã trở thành tiếng hat ân tình chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc Trong một thời ểm ểm ểm.

        phân tích 20 câu đầu bài việt bắc – mẫu 4

        Đoạn thơ là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của việt bắc. Đoạn thơ tiêu biểu sắc thái phong cách tố hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao. dân gian, để cập đến with người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng việt bắc, tac giả ca ngợi pHẩm chất cach mạng cao ẹp của quân dân ta, khẳng ịnh nghĩa thủy chung are sắt của người can bộn sĩ ối v ớ

        bốn câu đầu là lời việt bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:

        mình về mình có nhớ tamười lăm năm ấy thiết tha mặn nồngmình về mình có nhớ khôngnhìn cây nhớ núi, nhìn nguh?

        các từ xưng hô “mình – ta” mộc mạc, gần gũi gợi liên tưởng ca dao: “mình về ta chẳng cho về – ta nắm dải áo, ta đề bài thơ”. “Mười lăm năm” là chi tiết thực chỉ ộ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng nhật và tiếp theo là pHong trào việt minh, ồng thời cũng là chi tiết gợi cảm – ni -lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lên lê Câu thơ mang dáng dấp một câu kiều – mười lăm năm bằng thời gian kim – kiều xa cach thương nhớ mong ợi hướng về nhau (những là rày ước mai ao – mười lĂm nấy nh). cảm xúc đậm đà chất dân gian, đậm đà chất kiều. Âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồng ấm, tình cảm do vậy dạt dào thiết tha. việt bắc hỏi người về: “mình về mình có nhớ không – nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”. câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn việt bắc- cội nguồn cách m.

        bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:

        tiếng ai tha thiết bên cồnbâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân licầm tay nhau biết nói gì hôm nay.

        “bâng khuâng”, “bồn chồn” là hai từ lay gợi cảm, diễn tả tảng thati tâm lý tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong … lẫn lộn cùng một. Việt bắc cưu mang người can bộ chiến sĩ, mười lăm năm gian khổco nhau, mười lăm năm ầy những kỷ ni ệm chiến ấu, giờ pHải chia tay rời xa ếế luch nhiệm vụ ộ ộ). biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bang khuâng khó.

        “Áo chàm đưa buổi phân li” là một ấn dụ. màu áo chàm, màu áo xanh đen là đặc trưng của người miền núi việt bắc. tac giả hướng nỗi nhớ việt bắc qua hình ảnh cụ thể-‘áo chàm ”, chiếc áo, màu áo bình dị, ơn sơ, mộc của vùng quê nghèo thượng du ồi nh nh vào sự p>

        câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay …” ầ and tính chất biểu cảm – không pHải không có điều ểể giãi mà chynh vìc có quó nhiều điều muốn nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó n. nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó đn -bi -bi ền -bi ềng. ba dấu chấm lửng đặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc để tình cảm ngân dài, sâu lắng…

        12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của việt bắc:

        mình đi, có nhớ những ngàymưa nguồn suối lũ, những mây cùng mùmình về, có nhớn khumiếng cơm chấm muối, mối thùặn? Mình về, rừng nhớ những nhàhắt hu lau xám, ậm đà lòng sonmình về, with nhớ no nonnhớ khi kháng nhật, Thuở còn việt minhmình đi, mình CC NHớ Mìnhtân Trào, Hồhy đHy đ

        Điệp từ “nhớ” lặp đi lặp lại mang nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, là lời nhắc nhớ. hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của việt bắc. tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gửi lại niềm thương theo cách:

        thuyền về có nhớ bến chăngbến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

        việt bắc nhắc người can bộ chiến sĩ ừng quên những năm that gian lao vất vả, hoạt ộng chiến ấu trong đu kiện trag bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu ốu kiện kiện trang bị trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu ốu kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu ốu kiện trang bị tiếp tế còn threg

        mình về có nhớ chiến khumiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

        “miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thế hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước đè nặng vai dân tộc ta.

        cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt:

        mình về, rừng núi nhớ aitrám bùi để rụng, măng mai để già.

        hình ảnh ‘trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng – “trám rụng, măng già” không ai thu hái. nỗi bùi ngùi như thúc vào lòng kẻ ở lại.

        tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. việt bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ. xin đừng quên thời kì “kháng nhật, thuở còn việt minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên chăm lo giữ gìn sự nghiệm cách

        mình đi, mình có nhớ mìnhtân trào, hồng thái, mái đình cây đa.

        Đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của việt bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc thái phong cách tố hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao. dân gian, để cập đến with người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng việt bắc, tac giả ca ngợi pHẩm chất cach mạng cao ẹp của quân dân ta, khẳng ịnh nghĩa thủy chung are sắt của người can bộn sĩ ối v ớ

        phân tích 20 câu đầu bài việt bắc – mẫu 5

        mỗi khổ thơ là đều nhấn mạnh nỗi nhớ thương và sự gắn bó sâu nặng của đồng bào chiến khu việt bắc với cángch bộ và có lẽ, 20 câu thơ đầu để lại nhiều ấn tượng và khởi nguồn cho câu chuyện tình quân dân thắm thiết ấy:

        “- mình về mình có nhớ ta? mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.mình về mình có nhớ khôngnhìn cây nhớ núi, nhung nhớn? chàm ưa buổi phân lycầm tay nhau biết nói gì hôm nay…- mình đi, có nhớ những ngàymưa nguồn suối lũ, những mâameng? No. Aitram Bùi ể Rụng, Măng Mai ể Già.Mình đi, Co NHớNG NHàHắT HIU LAU XAM, ậM đà Lòng Son Thai, mai đình cây đa?”

        hai 20 câu thơ trên chính 3 khổ thơ đầu, miêu tả khung cảnh và tâm trạng con người trong những giây phút đầu tiên của buổi phân li. với 4 câu thơ đầu, tác giả đã cho thấy thời gian gắn bó 15 năm của đồng bào và các chiến sĩ.

        “- mình về mình có nhớ ta?mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.mình về mình có nhớ khôngnhìn cây nhớớ núi, sônuh?”

        lúc này đây, tác giả sử dụng cách xưng hô “mình”, “ta” thể hiện sự thân thiết gắn bó như anh em. Đây cũng là cách nói quen thuộc của đồng bào dân tộc thiểu số. họ thường xưng hô như vậy với những người anh em bạn hữu thân thiết. lúc này với họ, các chiến sĩ cách mạng không chỉ là người mang đến tự do hạnh phúc mà còn là như những người thân, khúc ruột. 15 năm đối với một đời người là cũng đủ dài để nhận thấy những điều quan trọng với bản thân. hơn nữa, 15 năm gắn bó của đồng bào với chiến sĩ còn thiết tha mặn nồng. bởi họ đã cùng nhau vượt qua bao gian lao, vất vả, vào sinh ra tử để giúp kháng chiến thành công. cuộc sống trong gian khổ bao giờ cũng để lại cho những người trải qua những nỗi nhớ sâu sắc không bao giờ quên. bốn câu thơ nhưng đã có tới tận 3 câu hỏi tu từ. là những câu hỏi chỉ để hỏi mà không cần câu giải đáp. bởi lẽ, đó là những câu nói để thể hiện nỗi nhớ nhung của cả người ở lẫn người về. người về thành thị rồi, chỉ nhìn cây cũng sẽ nhớ núi và nhìn dòng sông thôi cũng sẽ nhớ nguồn suối nơi thượn nguy. sự lặp lại của đại từ “mình” khiến cho câu thơ trở nên dâng trào cảm xúc. dường như tâm trạng lúc này của người ở và người đi như hòa làm một, đều bịn rịn, lưu luyến và không nỡ phân li.

        nếu như bốn câu thơ ầu, tác giả khơi mào dẫt đi vào nỗi nhớ bởi liu do sau 15 nĂm gắn bó thì ến những câu thơ tiếp Theo, nhà thơ tố hữu đ và thể xác của người ở và người đi.

        “tiếng ai tha thiết bên cồnbâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân lycầm tay nhau biết nói gì hôm no…”

        lúc này, tác giả cũng như các chiến sĩ không chỉ nhìn thấy núi thấy nguồn mà còn nghe thấy tiếng hát, tiếng nói tha thiết của bà con dân. những âm thanh quen thuộc của cuộc sống đã gắn bó 15 năm qua. những thanh âm ấy khiến cho những người đi càng trở nên bâng khuâng trong lòng, bước chân thì dùng dằng không muốn đi, cứ bồn chồn. sự bồn chồn ở đây còn thể hiện sự lo lắng cho bà with đồng bào trước cuộc sống mới, khi không có các chiến sĩ ở đây. Áo chàm là một trong những trang phục truyền thống của người dân vùng núi tây bắc, cụ thể là khu chiến khu việt bắc. hình ảnh áo chàm được tác giả ẩn dụ ý nói về những người dân nơi đây dù nhớ nhung nhưng vẫn tới buổi trang. Đặc biệt câu cuối diễn tả việc người ở người đi cứ cầm tay nhau bịn rịn không rời mà chẳng biết nói gì. câu nói ấy không chỉ diễn tả tả tâm trạng đang rối bời của hai bên mà còn là sự thấu hiểu của người ở và người về. họ đã gắn bó với nhau ủ lâu ể thấu hiểu và chỉn cầm tay thôi, không cần nói cũng hiểu ối phương đang nghĥy gìth, c thật là một mối ân tình s >

        phân tích 20 câu ầu bài thơ việt bắc, mỗi lúc ộc giả càng cảm nhận tâm trạng lưu luyến không rời của cán bộ cách mảo vớo vớo 12 câu thơ tiếp theo là một loạt những hình ảnh về ký ức bên nhau của “mình” va “ta”. vẫn là những câu hỏi tu từ không cần lời đáp nhưng cả người nghe và người nói vẫn hiểu và cảm thấy thấm thía nhớ nhung.

        nhung.

        “- mình đi, có nhớ những ngàymưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?………………………………mình đi, mình có nhớ mìnhtân trào, hồni tháđy c? ”

        Trong Giây Phút Phân Li, Một đi Không Trở Lại ấy, Trước Mắt Nhà Thơ Tố Hữu Bỗng Hiện Lên NHữNG THANG NGày Cùng Bà With Dân Bản Vượt qua Mưa Lũ, Vượt qua Mây. tác giả vừa đóng vai người ở để hỏi nhưng cũng là cách để tự hỏi mình, tự giãi bày lòng mình. Đó là mình về mình sẽ chẳng thể nào quên món miếng cơm chấm muối với mối thù giặc nặng vai. bữa ăn thiếu thốn thốn nhưng đã không ngăn được tinh thần chiến đấu của quân và dân ta lúc bấy giờ. mình về, không chỉ mình nhớ mà with người và núi rừng ở đây cũng nhớ da diết. rừng núi sẽ nhớ đến nỗi tram bùi rụng không ai nhặt, măng mai để già rồi mà chẳng ai hai. rừng núi cũng buồn rầu đến nỗi chẳng biết làm gì. không những rừng núi và ngay cả nhà sàn, cây đa cũng sẽ nhớ nhung tha thiết. bởi tất cả những điều đó là ký ức đắng cay ngọt bùi mà mình và ta cùng đã trải qua. Đó là những giây phút khổ ải nhưng đầy sự đồng lòng, cùng chung lý tưởng. Đó là một khoảng thời gian hiếm có mà không phải ai, không phải lúc nào cũng có thể trải qua.

        thông qua những câu thơ trên, tac giả cũng thể hi sựn trăn trở rằng khi can bộ về xuôi, sống nơi thị thành ủ ầy liệu Có nhớ ến thu ầ ầ ầ liệu rằng, có nhớ đến nơi núi rừng hiu hắt với những con người chân thật nhưng đậm nghĩa ân tình. Liên tục là những câu hỏi dồn dập, diễn tả tâm trạng mỗi lúc một xốn xang, bối rối và lưu luyến day dứt của người ở lẫn người đi. dường như, cảnh chia tay mỗi lúc một phải đến lúc phải kết thúc nên tâm trạng con người cũng trở nên thật gấp gáp v, vộ muốn nói, muốn làm thật nhiều điều với nhau mà thời gian cứ trôi nhanh quá.

        20 câu đầu bài thơ việt bắc, thể hiện rõ tài năng sử dụng ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, câu hỏti tƧ c. Với Cách Dùng những điệp ngữ điệp từ, những từ lay gợi thanh, gợi hình, tc giả đã cho ộc giả thấy riqu bức tranh BUổI chia li ầy nước mắt và ầy and lưnến. Đó là buổi phân li chan chứa ân sâu nghĩa nặng, không lãng mạn như cảnh chia li của những người yêu nhau, nhưng sâu sắc hơn cảt m. Nó vượt lên trên cả tình yêu đôi lứa, đó là tình yêu của những with người ồng cam cộng khổ, những tâm hồn ồng điệu vì một lý tưởng cao ẹp. <

        qua trình phân tích 20 câu đầu bài thơ việt bắc, mang tới cho độc giả xúc cảm lưu luyến bịn rịn của một buổi chia tay lịch s. Đó không chỉ là một cuộc chia ly đầy nước mắt nặng ân tình giữa quân và dân mà còn là sự phân li cuộc sống cũ sang cuội m. những câu thơ lục bát mộc mạc, chân thành dễ nhớ dễ hiểu nhưng để lại trong lòng độc giả những xúc cảm không thể qunà>

        phân tích 20 câu đầu trong bài thơ việt bắc – mẫu 6

        nhắc đến thơ ca cách mạng, không thể không nhắc đến cái tên tố hữu. Ông như một ngọn đuốc rực rỡ, sáng chói trong bầu trời thơ ca cách mạng việt nam. việt bắc chính là một trong những bài thơ gắn với tên tuổi của tố hữu. cả bài thơ như một khúc nhạc tâm tình, nhẹ nhàng, mộc mạc mà sâu lắng về tình cảm nhân dân – chiến sĩ. trong đó, hai mươi câu thơ đầu như một khúc dạo tình tứ, đưa con người trở về với những kỉ niệm không thể nào quên.

        bốn câu đầu là lời việt bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:

        “mình về mình có nhớ tamười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng…”

        Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ. cach xưng hô “mình – ta” tac giả đã sửng từ ngữn tả trong tình yêu lứa đôi … mộc mạc, thân gần, … “mười lăm năm” “Thiết tha mặn nồng” một thể thơ giàu tính dân tộc. thể lục bát, cach kết cấu ối đáp, sửng ại từ nhân xưng “mình”, “ta” quen thuộc trong thơ ca dân gian, co khả năn “biểu hiện một cach thuận tiện, phù hợp với đ đồng người việt”. tất cả những yếu tố đó đã diễn tả thật xúc ộng tình cảm quyến luyến thiết tha trong một cuộc chia tay tay ặc biệt: chà âm điệu ngọt ngào, giọng thơ nồNg ấM, tì d việt bắc hỏi về:

        “mình về mình có nhớ khôngnhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

        câu hỏi chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn việt bắc – cội nguồn củangcá. và cũng chứng tỏ rằng người việt bắc sống gần gũi với thiên nhiên, với những gì rất cụ thể.

        bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:

        “tiếng ai tha thiết bên cồnbâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước điÁo chàm đưa buổi phân licầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

        “bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ lay gợi cảm, diễn tả trạng thati tâm lý tình cảm buồn vui, luyến tiếc, nhớ thương, chờ mong … lẫn lộn cùng một lúc. MườI LăM NăM VIệT BắC CưU MANG NGườI CÁN Bộ Chiến sĩ, Mười Lăm NĂm Gian Khổ Co Nhau, MườI LăM NăM ầY NHữNG Kỷ NiệM CHIếN ấU, GI ờI CHIA TAY TAY Rả đ ụ ụ ụ ụ ụ ụ ụ ụ ụ ụ ụ ụ ụ ụ biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó t.

        “Áo chàm ưa buổi phân li” là một ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen ặc trưng của người miền núi vi ệt bắc – tác giả hướng nới nhớ vi ệt bắ ìh áh àhìh àhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìhìh àt. Chiếc Áo, Màu áo Bình dị, ơn sơ, mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du ồi ni nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã gop phần khhông nhỏ vào sự nghiệp khá.

        câu thơ “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay … ba dấu chấm lửng ặt cuối câu là một dấu lặng trên khuôn nhạc ể tình cảm ngắn dài, sâu lắng …

        mười hai câu lục bát còn lại là lời của người ở, cấu tạo bằng sáu câu hỏi như khơi sâu vào kỷ niệm. Mỗi câu hỏi ều gợi lại những gìêu biểu nhất của việt bắc qua những hình ảnh chọn lọc gợi cảm: mưa nguồn, suối lũ, mây mù, những hình ảnh những ngày …. tân trào, hồng thati, Mái đình cây đa “điệp từ” nhớ “lập đi lập lại nhiều sắc thati ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở. hàng loạt những câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của việt bắc.

        tình cảm lưu luyến của người ưa tiễn, gửi đi nỗi nhớ mong, gài lại niềm thương nhớ the theo cach “thuyền về cc nhớ bến chăng gian lao vất vả, hoạt động chiến đấu trong điều kiện trang bị tiếp tế còn thô sơ, thiếu thốn.

        “mình về có nhớ chiến khumiếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”

        “miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. và cách nói “mối thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè nặng vai dân tộc ta. cảm xúc thương nhớ xa vắng thả vào không gian rừng núi, gợi nỗi niềm dào dạt:

        “mình về, rừng núi nhớ aitrám bùi để rụng, măng mai để già”

        tình cảm của người ở ối với người đi xem ra ược thể hiện sâu kín hơn cả trong câu thơ này, chỉ 14 chữ mà chứa ựng biết bao quyn luyến nhớng: núi rừng cũng mong nhớ đến thẫn thờ. nỗi bùi ngùi nhớ bức bối như thúc vào lòng kẻ ở lại.

        tiễn người về sau chiến thắng và chính trên cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng.

        việt bắc vẫn “một dạ khăng khăng đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ sĿn. xin đừng quên thời kỳ “kháng nhật thuở còn việt minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên để chăm lo giữ gìn sỡp nghi

        “mình đi, mình có nhớ mìnhtân trào, hồng thái, mái đình cây đa”

        phân tích 20 câu đầu trong bài thơ việt bắc – mẫu 7

        “việt bắc” được coi là đỉnh cao của thơ ca kháng chiến chống pháp, nhưng trước hết là một trong những đỉnh cao của thơ t. bởi nó không chỉ thể hiện những tình cảm lớn lao của nhà thơ ối với kháng chiến, cach mạng mà nó còn kết tinh Trong đó những ặc sắc Trong thế gi ngh ệt củt củt. Đó là những ặc trưng về chất trữ tình chính trịa thơ tố hữu, là ặc trưng về tính dân tộc, về màu sắc dân gian Trong ngôn ngữ thơ của tốu. vì thế bài thơ vừa đem ến cho người ọc những nhận thức sâu sắc về niềm tự hào ối với cuộc kháng chiến thn thánh của chÚng ta, lại vừa đem ếem ếm ạm ạm m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m .ha ẽm m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m m mm. có thể thấy những đặc sắc này ngay từ những dòng thơ mở đầu của “việt bắc”.

        “mình về mình có nhớ ta

        ………………………………………. …

        tân trào, hồng thái, mái đình, cây đa”

        từ thuở “từ ấy” cho đến “một tiếng đờn” sau này. nói như thế là nói về “việt bắc”, bài thơ đã tạo nên một trong những đỉnh cao vời vợi của thơ tố hữu. bởi vì bài thơ đã ra ời từ một sự kiện chynh trịt sức lớn lao trong ời sống của dân tộc, sự kiện các cơ quan của trung ương ảng, ĩ ương ảng, củnh phín phác cá cá. sau khi hoà bình lập lại đã giã từ việt bắc để về xuôi, về tiếp quản thủ đô. tố hữu muốn thông qua “việt bắc” ể dựng lại bức tranh tổng quát của cuộc kHáng chiến 9 nĂm rất đáng tự hào của dân tộc ta trên chiến khu việt bắc, lại vừi vừi vừi vừi vừ với các cơ quan kháng chiến. nhưng tố hữu đã không làm bản tổng kết về cuộc kháng chiến, không làm bản thông báo về kiện chynh trị kia mà đã tình hoá ản tấng c. người ta đã có lý khi nói thơ tốu là thứ thơ “ốt cháy trai tim ể ể trở thành trí trí Tuệ”, nGhĩ là từ cảm xúc ménh liệt của trai tim mà thức nhận những chân lýng. p>

        với ý tưởng trữ tình hoá sự kiện chính trịng như ời sống chính trị của ất nước, viết “việt bắc”, tố hữu đã sáng tạo nên một cấu từ rất ột ộ cuộc chia tay giữa người ở và người về xuôi để từ những khúc hát đối đáp ấy khơi gợi những kỉ niệm về những ngày kháng chiến gian khổ mà vẻ vang, rồi từ những kỉ niệm kia mà dựng lại quá trình trưởng thành của cuộc kháng chiến, dựng lên hình ảnh của nhân dân, của những người chiến sĩ, hình ảnh của bác, của Đảng. vì thế ngay từ những câu thơ mở đầu ta đã thấy cuộc trò chuyện tâm tình, những câu hát đối đáp giữa “mình” và “ta” tha mth cì tố hữu đã sử dụng những cặp từ ối đáp rất quen thuộc trong ca dao, dân ca ể cuộc chia tay trở nên ằm thắm nhưu ôi của . những chữ “mình”, “ta” từ câu thơ mở ầu cho tới những dòng thơ cuối cùng luôn luôn khơi gợi những tình cảm mặn nồng, khôông bao giờ phai nhạt gi ữn vando.

        Trong Cuộc tiễn ưa ầy lưu luyến, bịn rịn của việt bắc ối với người về xuôi, khúc hat chia tay đã ược bắt ầu cất lên từ chính lòng người ởc. tố hữu như muốn nói lòng người việt bắc thuỷ chung với cách mạng biết nhường nào. Ngay từ câu thơ mở ầu, trong 6 tiếng đã cr tới 2 tiếng “mình” thương .. sự trởi trởi lại tiếng gọi ối với “mình” như ể ể nói lòng ng ng ười ệi ưi ưi ưi ưi ưi ưi ưi ư cũng như xoáy sâu vào ký ức của người về xuôi những kỉ niệm chan chứa nghĩa tình. cũng ngay từ câu thơ mở đầu, những chữ “mình”, “ta” đã như quấn quýt lấy nhau như sự gắn bó không muốn chia xa giữa ngưỰà. Âm điệu của câu thơ chủ yếu ược tạo bởi thanh bằng: “mình về mình có nhớ ta”, với một chữ “ta” ở cuối làm cho tìmh cỰ friend

        kết cấu của 2 câu thơ mở ầu là kết cấu của một câu hỏi tos từ, câu hỏi khơi gợi những kỉ niệm thiết tha mặn nồng, câu hỏi bao trùm cả không củy ủy. câu hỏi thường có tác dụng khơi sâu vào lý trí của người nghe nhưng ở đây câu hỏi lại khơi gợi những kỉ niệm đầy xúc động của 15 năm cách mạng đã gắn bó với việt bắc để làm nên một việt nam dân chủ cộng hoà, bởi tố hữu đã sử dụng một thứ ngôn ngữ chan chứa cảm xúc. những chữ “mười lăm năm ấy” gợi ta nhớ tới “cái thuở ban ầu” của tình yêu đã từng ược nói tới trong câu thơl:ưp l c

        “cái thuở ban đầu lưu luyến ấy – nghìn năm hồ dễ đã ai quên”

        người về làm sao có thể quên được 15 năm ấy của mối tình đầu giữa cách mạng và việt bắc. C process với sự khơi gợi những tình cảm trong sáng, ẹp ẽ, những tình cảm “nghìn nĂm hồ dễ đã ai quên”, câu thơ còn ược tiếp tục bởi nhng chữ “. của khchiến mà nồng nàn, mà tha thiết và trữ tình biết bao.

        vẫn là một câu hỏi mà người ở lại hướng tới người về xuôi, vẫn là một cach xưng hô hết sức tình tứ “mình” với “ta”, nhưng ở 2 Gian của cuộc chia tay, không gian của những kỉ ni ệm qua suốt 15 năm ấy, không gian của cả ất nước, bao trùm cả miềnnngược lẫn miều ới ồng, v ồng. cả ất trời trong khung cảnh chia tay. ờ ấtng ấtng ấtng ấtng ấtng ấtng ấtng ất.

        cai ặc sắc của câu thơ không chỉ thể hi qa kết cấu của câu hỏi, qua từ ngữ xưng hô tình tứ mà còn qua những hình ảnh như ược viii ra tế thể thể Thú thu. Đọc câu thơ:

        “mình về mình có nhớ ta- mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng – mình về mình có nhớ không – nhìn cây nhớ núi, nhìn gun s

        ta ngỡ như câu ca dao:

        “qua đình ngả nón trông đình – Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu – qua cầu ngả nón trông cầu- cầu bao nhiêu ạu byu>”

        thơ tố hữu viết về những vấn đề chtrị mà vẫn thấm cái hồn của ca dao, dân ca. 4 câu thơ như bài ca dao vậy, chất trữ tình gắn liền với những băn khon, trăn trởa của người ở lại, của việt bắc vông cùng thuỷ chung với cach mạng. tố hữu đã chọn được cách nói để khơi nguồn cho cảm xúc xuyên suốt “việt bắc” hết sức đặc sắc. mạch thơ trong những câu mở đầu này cứ thế mà tuôn chảy dào dạt.

        nằm trong mạch hat ối đáp, bài thơ đã dành đUng 4 dòng thơ diễn tả tâm trạng người về xuôi, tạo nên sự cân ối với 4 dòng thơ mở ầ ầ ầ ầ ầ ầ ầ ầ sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng sềng. bắc, tương xứng với sự thuỷ chung của việt bắc. ở 4 dòng thơ này như có sự nhớ thương đápa nhớ thương, tha thiết đápápac đii với thiết tha, cai bịn rịn không nỡi chân đápác eg mặn ng của người. nằm trong mạch cảm xúc như của tiếng hát giữa đôi lứa yêu nhau, tố hữu buông một câu thơ rất tình tứ:

        “tiếng ai tha thiết bên cồn”

        chỉ một chữ “ai” thôi đủ làm say đắm lòng người. chữ “ai” đâu phải để hỏi vì muốn biết ai; Chữ “ai” đu cũng còn là ại từ phiếm chỉ ể ể chỉ chung, chỉ một ối tượng không xác ịnh bởi ở đ đy cả “ta” lẫn “mình” đang lên tiếng hat cho cuộc chiaộc. chữ “ai” chỉ là một cách nói để làm tăng thêm tình cảm yêu thương, để câu nói trở nên tình tứ mà thôi. người về xuôi trong nỗi niềm xúc ộng như mở rộng tâm hồn, mở rộng nỗi lòng của mình ể đón nhận cái thay thay t. Đó là trạng thái “bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. những chữ “bâng khuâng”, “bồn chồn” diễn tả rất chính xác trạng thái tình cảm của người về xuôi. bâng khuâng chính là nỗi niềm thương nhớ đối với cảnh, đối với người, đối với cuộc sống đã trở thành kỷ niệm của những ngày kháng chiến, những kỉ niệm còn vương vấn, còn dâng đầy trong tâm trí người về xuôi. bước chân về xuôi mà lòng dường như vẫn còn vấn vương với việt bắc. còn “bồn chồn” là một từ đã tâm trạng Hóa bước đi của người về xuôi, những bước đi không nỡi rời mảnh ất and yêu thương qua 15 nĂm ấy.

        với câu thơ thứ 3 ở khổ thơ này, tố hữu đã bất ngờ làm hiện ra ý nghĩa lịch sử của cuộc chia tay. Bởi với những dòng thơ mở ầu trước đó, tiếng hat ối đáp như chỉ của “mình” với “ta”, của đôi lứa yêu nhau, ột nhiên cuộc chia tay ấy trở thành thành cuộc chia khchiến từ một hình ảnh hoán dụ:

        “áo chàm đưa buổi phân ly”

        cả việt bắc như “ngẩn ngơ” trong cuộc chia tay lịch sử ấy. hình ảnh “áo chàm” dùng để chỉ hình ảnh của việt bắc trong thủ pháp hoán dụ. cái “ngẩn ngơ” của việt bắc hiện ra ở những chữ “đưa buổi phân ly”. trong khi đó, câu thơ

        “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

        không chỉ thể hiện cai lặng đi trong giây phút xúc ộng của người về xuôi mà còn diễn tả cai ngập ngừng, bịn rịn, lưu luyến trong bước chân của củ câu thơ lục bát vốn có kết cấu của những nhịp chẵn đều đặn, mang cái dìu dặt của khúc hát chia tay, đã chuyển ịp l3/>

        “cầm tay nhau / biết nói gì / hôm nay”

        nhịp điệu ấy gợi ta nhớ tới cảnh chia tay trong câu thơ

        “bước đi một bước, giây giây lại dừng”

        sự thay đổi nhịp điệu của câu thơ còn làm cho đoạn thơ có sự đổi mới đối với cảm xúc của người đọc. câu thơ làm cho người đọc không rơi vào cái tiết tấu quá đều đặn qua suốt 8 dòng thơ mà trở nên mòn, chán.

        sự tiếp nối của 12 dòng thơ nằm trong mạch cấu trúc của hoài niệm như một sự xuất hiện tất yếu, bởi sau những băn kho của việt bắc ối với với tì đi, là sự khẳng định niềm thuỷ chung của cách mạng đối với việt bắc. tiếng hát ấy đã làm cảm ộng người ở lại khiến bao nhiêu kỉ niệm, bao nhiêu hồi ức ầy nghĩa tình đã tr. 12 dòng thơ tiếp nối nhau tạo thành một dòng chảy của những kỉ niệm cuồn cuộn, nồng nàn, tha thiết. mỗi cặp 6-8 lại khơi gợi một kỷ niệm về những tháng ngày sâu nặng nghĩa tình của việt bắc. và những câu 6 tiếp nối nhau đều là những câu hỏi như một sự khơi gợi nỗi nhớ đối với người về xuôi. mỗi câu 6 lại hướng tới “mình”, những chữ “mình” tiếp nối nhau như một điệp khúc của tình cảm. và đặc biệt ở những câu 6, chữ “mình” tha thiết bao giờ cũng gắn với chữ “đi” đầy nhớ thương (ở đây vứ đi cũl ). chữ “mình”, chữ “đi” bao giờ cũng kèm với chữ “nhớ”, mới thấy người ở lại lưu luyến kể về xuôi biết bao

        “mình đi có nhớ những ngày – mình đi mình có nhớ mình”

        sửng chữ “mình”, một ại từ xưng hô tiềm ẩn bao tình cảm thân thương, tố hữu cũng cho thấy cai biá hoa hoạt trong cach nói năNg, Trong sự c chom nhận thác. ở đây “mình” là mình nhưng cũng lại là “ta”. mình và ta tuy 2 mà 1. cho nên người ở lại mới nói với người về xuôi:

        “mình đi mình có nhớ mình”

        đy là đoạn thơ khơi gợi những kỉ nệm của một thời cach mạng ể ựng nên cộng hoà, vì thế mỗi câu 8 trong cặp lục bát là mỗi câu nhắ m ộ m ộ m ộ m ộ ngày gian khổ xây dựng pHong trào trong hình ảnh “mưa buồn suối lũ những mây cùng mù”, về những ngày “miếng cơm muối, mối thù nặng goes minh và những ngày tưng bừng bừng bừng bừng bừng bừng chu Hồng thati, Cây đa tân trào “. Cái ặC sắc trong câu 8 này là ở chỗ tiết tấu rất giàu nhạc điệu của nghệ thuật ối. đây, NGHệ thuật ối làm cho nhạc điệu của đoạn thơ trở nên rắt và tạo nên những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc ối với từng kỉ niệm.

        đó là lối ối giữa các vế câu với nhau như: “miếng cơm chấm muối /mối thù nặng vai” ể làm nổi bật sự ồng tâm nhất tí giữa nhân và cach mạng. khó khăn lại càng làm chồng chất mối thù đối với thực dân phát xít. Đó cũng là sự tương phản giữa cuộc sống gian khổ và lòng người qua những hình ảnh đối chọi nhau

        “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

        Đó là những vế đối làm nổi bật nỗi buồn của việt bắc đối với cuộc chia tay

        “trám bùi để rụng, măng mai để già”

        nghệ thuật đối vốn rất quen thuộc trong ca dao, tục ngữ, nhưng với tố hữu, nghệ thuật đối đã có những stạo. ở đây không chỉ có sự tương phản mà còn có sự bổ sung của các vế đối. ở đây có lối ối giữa các vế trong một câu nhưng lại cũng co những tiểu ối, lối ối ngay trong một vế câu như “mưa nguồn / suối lũi” rồi ” lồng chéo tạo nên các vế ối như trong trường hợp “tân trào, hồng thái, mái đình, cây đa” vốn nằm những cụm từ đng ống ống ồ ồn đn đnh đnh đnh đnh đnh đnh đn đnh đn đnh đnhn đnh đnh đnh đnhn đnh đn đn đnh đn đnh đn đn đng, đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng ống ống ống. đa tân trào”. Đoạn thơ vì thế rất giàu nhạc điệu, một thứ nhạc điệu được tạo nên từ tiết tấu của câu thơ.

        thơ tố hữu với “việt bắc”, ặc trưng trữ tình không chỉ hiện ra từ những câu thơ lục bát vốn mang âm điệu thiết hr. vì thế khúc hat mở ầu cho “việt bắc”, khúc hat vềc cuộc chia tay lớn gắn liền với ời sống chínnh trịa của dân tộc, khúc hoài niệm vềng that ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng người việt nam ở thời điểm tràn đầy sung sướng và hạnh phúc kia. với đoạn thơ mở đầu này, ta cũng đã thấy “việt bắc” của tố hữu rất giàu chất dân tộc, chất dân gian, giàu tínhp>

        phân tích 20 câu đầu trong bài thơ việt bắc – mẫu 8

        sau hiệp định giơ-ne-vơ 1954, miền bắc nước ta được giải phóng. khoảng tháng 10 năm ấy, các cơ quan trung ương của Đảng và nhà nước rời việt bắc chuyển về hà nội. niềm lưu luyến giữa nhân dân việt bắc và những người can bộ cach mạng là nguồn cảm hứng ể tố tố hữu sáng tac bài thơt bắc gồm 150 câu lục Bát, là một khúc .

        Đoạn mở đầu 20 câu thơ đã thể hiện tình cảm gắn bó giữa kẻ ở người về, tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chínp> tr

        cuộc chia tay:

        lời người ở lạimình về mình Co nhớ ta, mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.Mình về mình CC NHớ Không, Nhìn Cy nhớ num, nhìn sông nhớ ngurồn?

        với kết cấu theo lối hát giao duyên, đoạn thơ tả cuộc chia tay giữa người ở việt bắc và người cách mạng. nghĩa tình kẻ ở người về được biểu hiện đằm thắm qua các đại từ mình, ta gợi bao lưu luyến trong buổi chia tay.

        những lời nhắn nhủ của người ở lại với những từ lay gợi cảm qua cach hỏi mình CC NHớ, Mình CC NHớ Không vag lên như day dứt không nguôi. mười lăm năm ấy gợi thời gian, cây, núi, sông, nguồn gợi không gian. thời gian của một thời kì hoạt động cách mạng và kháng chiến chống pháp, không gian của một vùng căn cứ địa cách mạng. trạng ngữ thiết tha mặn nồng thể hiện ân tình đầy hương vị mặn mà nồng thắm của bao nhiêu kỉ niệm mến yêu. Điệp từ nhớ gợi nỗi nhớ triền miên…

        tiếng ai tha thiết bên cồn,bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi.Áo chàm đưa buổi phân li,cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

        Đây là tiếng lòng của người về. người về nghe câu hỏi, lòng bồi hồi nên bước chân bồn chồn. Áo chàm bình dị, chân tình. câu thơ bỏ lửng với nhịp thơ ngập ngừng cầm tay nhau – biết nói gì – hôm nay diễn tả sự vấn vương vì xúc động nên không gi

        người ở lại:

        mười hai câu thơ tiếp theo là lời việt bắc. Giọng thơ vừa hỏi han vừa gợi trở lại theo thời gian, lan toả trong không gian. nhớ về những kỉ niệm xa xưa từ thuở đầu cách mạng, trong kháng chiến chống pháp.

        những không gian, ịa điểm cứ hiện dần từ mờ xa, mưa nguồn, suối lũ, mây mù, ược xác ịnh như một điểm chốt vững vàng chiến khu, rồi dấy dấy dấy lên m thuở việt minh, khai sinh những địa danh lịch sử như những cái nôi đón đỡ tân trào, hồng thái, mái đình, cây đa.

        những chi tiết về cuộc sống và tình người: bát cơm chấm muối, quả tram bùi, măng mai, mai nhà lau xá hiu… cứ dần dần tái hiện, nhắc nhở mối thù w ấg tấn tấ , gangh, gang, gang. they are không bao giờ phai nhạt.

        nGhệ Thuật nhân hoá, ẩn dụ rừng no ặu ặu … gợi lên hình ảnh một người đang bâng khuâng sững sời với cảm giác hụt ​​hẫng của cuộc chia li, dè chừng sự lãng quên nên thiết thha nhắc sâu rộng nhất…, sâu trong tình người, rộng trong thời gian, không gian. Đây là tình cảm những with người cách mạng trong không gian, thời gian của cách mạng.

        Đoạn thơ thể hiện những tình cảm lớn có ý nghĩa thời đại. Đó là tình đoàn kết, nghĩa thủy chung giữa nhân dân và cách mạng, từ phong trào việt minh đến thời kì kháng chiến chống pháp ở chiến chi>

        Đoạn thơ cũng thể hiện chất thơ trữ tình chính trị, đậm đà tính dân tộc của tố hữu. phong cách đó đã ảnh hưởng quan trọng đối với thơ ca cách mạng việt nam hiện đại.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *