Văn mẫu lớp 11: Phân tích 2 khổ thơ cuối bài Tràng Giang của Huy Cận (12 Mẫu) Tràng giang của Huy Cận

Phân tích 2 khổ cuối bài tràng giang

Duới đây là các thông tin và kiến thức về Phân tích 2 khổ cuối bài tràng giang hot nhất được tổng hợp bởi M & Tôi

phân tích 2 khổ cuối bài tràng giang của huy cận gồm dàn ý và 12 mẫu dưới đy không chỉ giup các em lớp 11 có thêm những ý tưởng there cảnh ra đời, nội dung bài thơ. qua đó thấy được tâm trạng thi nhân qua 2 khổ thơ cuối.

tràng giang hai khổ cuối thể hiện nỗi buồn, cảm giác nhớ quê hương của nhà thơ khi đứng trước cảnh thiên nhiên. nỗi buồn của huy cận ược thể hiện rất sâu sắc và nổi bật, qua đó thể hiện khát vọng sự ẹp ẽẽ về quê hương ất nước của huy cận. vậy sau đây là dàn ý và 12 bài văn mẫu phân tích 2 khổ cuối bài tràng giang, mời các bạn cùng đón đọc tại đây nhé.

dàn ý bài phân tích 2 khổ thơ cuối bài tràng giang

dàn ý số 1

i. mở bài

giới thiệu tác giả, tác phẩm

“lời tuyệt vọng là lời ca hay nhấttiếng nấc kia chứa tuyệt bút muôn đời”

(verytxes)

những cảnh ẹp nhất lại mang nỗi sầu buồn khôn xiết, những câu thơ Buồn nhất lại chạm ến tâm hồn with người một cach thấm thhia nhất. nói về nhà thơ của nỗi buồn, có lẽ không ai vượt qua được huy cận. nói về bài thơ buồn nhất của thơ mới, của thơ ca không thể không có “tràng giang”.

ii. thân bài: cảm nhận 2 khổ cuối của bài tràng giang

1. khai quát

– giới thiệu hoàn cảnh sáng tác

– nội dung, nhan đề

  • lê duy từng nhận xét:
  • “là tràng giang – khổ nào cũng dập dềnh sóng nước

    là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.”

    + “tràng giang” trước hết là bức tranh về “trời rộng sông dài”, là cái mênh mông của sông nước muôn đời của quê hương đất nưc.t ngay tên nhan đề bài thơ: hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ kính từ xưa vọng về. “tràng giang” chứ không phải “trường giang” bởi vần “ang” mới gợi sự mênh mang vô tận, lan ra bờ bãi ngút ngàn. nhưng sẽ cảnh có cảnh đó nếu tình không trĩu nặng và ưu sầu đến thế. trong cảnh là tình, tình hòa vào cảnh để làm nên những phong cảnh tuyệt bút và tình cảm tuyệt mĩ.

    2. nêu cảm nhận

    a) cảm nhận khổ 3: nỗi cô đơn, sầu buồn về sự trôi nổi, lênh đênh vô định kiếp người

    – hai câu thơ: “mênh mông… niềm thân mật”

    – không có một chuyến đò, không có một chiếc cầu nhỏ nối giữa hai bờ. một loạt từ “không” xuất hiện lín tiếp đã phủ ịnh tất cả những gì là gắn kết, chỉ còn những trống trải vông: hai bờ b Én là những thế giới xa lạ. chỉ có “bờ lau tiếp bãi vàng” và những cánh bèo lênh đênh đang trôi dạt về đâu. Ấn tượng về sự tan tác, chia lìa lại càng được tô đậm bằng hình ảnh những cánh bèo trôi nổi.

    b) cảm nhận khổ cuối: nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp

    * 2 câu đầu:

    – nội dung của hai câu đầu trong khổ thơ cuối là không gian rộng lớn hùng vĩ, khoáng đạt vô cùng của buổi hoàng hôn.

    – thiên nhiên tạo vật bộc lộ những vẻ đẹp đến lạ lùng: những buổi chiều mùa hạ, mây trắng như những búp bông bung nở trên trời cao, ánh nắng buổi chiều trước khi vụt tắt thường rực sáng nên chiếu vào những núi, những mây chồng chất lên nhau khiến nó lung linh như những núi bạc. một vẻ khoáng đạt hoành trang, mĩ lệ.

    – So Sánh với câu thơ lí bạch: “cô pHàm viễn ảnh bích không tận/ duy kiến ​​trường giang thiên tế lưu”, câu thơ của bà huyễn ảnh bích không tận/ duy kiến ​​trường trường trường giang Thiê lưu”, câu thơ của bà huyện ảnh bích không tận : “giomàn mai”: “giomàn mai”. huy cận cũng coce nhiều lúc như ể ể tấm lòng ởc non xưa, ở chốn vũ trụ Thanh cao, song chính nỗi đa của ông nhói lên ở những cảnh ời hiệi tại tại

    * 2 câu kết:

    – hai từ “dợn dợn” gợi cảm giác đã đồng nhất những con sóng đang trào lên trên dòng trường giang với những con sóng gảtán trong gip.></n trong gip.

    – hai câu thơ gợi nhớ đến ý thơ của thôi hiệu: “nhật mộ hương quan hà xứ thị/ yên ba giang thượng sử nhân sầu”. nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê thì huy cận không cần chất xúc tác đó. rõ ràng nỗi buồn không phải từ ngoại cảnh vào mà là nỗi buồn nội tâm with ng tràn ra không dứt. người xưa xa quê mà nhớ quê còn huy cận đang đứng trước quê hương đất nước mà vẫn rưng rưng một nỗi nhớ nhà. vì sao vậy? Đó không chỉ là nhớ về 1 vùng quê mà đó là tâm trạng của 1 lớp thế hệ trẻ khi đất nước đang chìm trong nô lệ.

    – Trong Khi Thế Lữ, Chế Lan Viên chọn cach sống trong một cõi mộng với “tiếng Sáo Thiên thai”, với “tinh cầu giá lạnh trọi giữa vườn xa”, khi v v-v àng chươm ốm. xa hoa thì “tràng giang” của huy cận thực sự là “bài ca giang san đất nước, dọn đường cho lòng yêu giang sơn tổ quốc” (xuân diệu)

    3. Đánh giá

    – Bài thơ có sự kết hợp tuyệt diệu giữa cảnh và tình, hai mà như một, không chỉ gợi lên cảnh sông nước ất việt mà còn là nỗi ni ềm của ng cable

    – nghệ thuật: bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. hình ảnh thơ không gọt giũa, dụng công mà vẫn có sức gợi đến khôn cùng. chất Đường thi của thôi hiệu thuở trước giờ đã trở thành chất lãng mạn của huy cận ngày hôm nay rồi.

    iii. kết bài

    – tổng kết lại, nêu cảm nghĩ về 2 khổ cuối bài thơ tràng giang

    – với huy cận, “thơ không chỉ là thế giới của cái đẹp mà còn là cái đẹp độc đáo. nhà thơ đã gọi dậy được cái hồn buồn của Đông Á…đã khơi dậy lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầim trong than). Xét ến c cùng, “Cái Tiếc sớm, Cái Thương ngừa ấy chẳng qua là sự tra hình của lòng Ham ời, là cai tật dĩ nhiên của kẻ yêu sựng” (xuân diệu) mà thôi.

    dàn ý số 2

    i. mở bài: giới thiệu 2 khổ thơ cuối của bài thơ tràng giang

    ví dụ: một trong những nhà thơ mới nổi tiếng là nhà thơ huy cận, mỗi bài thơ mang một phong cách rất riêng. thơ của huy cận mang phong cách thơ hàm súc, triết lí và phục vụ cho cách mạng của nước ta. một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là tràng giang, bài thơ nằm trong tập thơ lửa thiêng. bài thơ thể hiện cảnh Thurs 1939, bài thơ được sáng tác khi tác giả nhìn bên bờ sông hồng dưới dòng nước mênh mông sóng nước. Đặc sắc nhất là khổ thơ cuối của bài thơ tràng giang. chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ thơ cuối của bài thơ để hiểu rõ về phong cách thơ của huy cận.

    ii. thân bài: phân tích hai khổ thơ cuối bài thơ tràng giang

    1. khổ 3

  • sự cônh đã ược ặc tả bằng cai không tồn tại (không gian mênh mông, trong đó không cor bất cứ dấu hiệu nào là của thế giới with ngường có cầng.
  • 2. khổ cuối

    – hai câu đầu: màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên

    • các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơ
    • hình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vô bờ
    • hình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặng
    • hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn chỉ cái tôi nhỏ nhoi, cô độc của tác giả
    • – hai câu cuối:

      • nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên
      • nỗi buồn của huy cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật
      • khát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho quê hương, đất nước
      • iii. kết bài: nêu cảm nhận của em về hai khổ thơ cuối của bài thơ tràng giang

        ví dụ: khổ thơ cuối bài thơ tràng giang thể hiện cảnh núi non hùng vĩ của sông nước. bên cạnh đó còn thể hiện cái tôi nhỏ nhoi của tác giả.

        xem thêm: dàn ý bài thơ tràng giang của huy cận

        cảm nhận 2 khổ cuối tràng giang

        huy cận là nhà thơ nổi bật của phong trào thơ mới và là một trong những cây đại thụ của thơ ca việt nam hiện đại. phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta sẽ thấy được cái đặc trưng đặc biệt của thơ huy cận. Ông thường được nhắc nhớ bởi hồn thơ của những nỗi sầu vạn cổ hay nhà thơ của những nỗi niềm khắck khong giani.

        bài thơ “tràng giang” là một trong những tac pHẩm xuất sắc của huy cận, ược in trong tập “lửa thiêng”, tập thơ ầu tay nhưng đây ển ượn ược cai hồng, đoạn bến chèm vào mùa nước nổi. thời điểm viết bài thơ huy cận đang là sinh viên của trường cao ẳng Canh nông. của số kiếp con người trước vũ trụ bao la, vô thủy, vô chung.

        “bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;mênh mông không một chuyến đò ngang.không cầu gợi chút niềm thân mật,lặng lẽ bờ xanh tiếngp bpã> v

        lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa.lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

        “tràng giang” là một từ hán việt mang sắc thái cổ kính, trang trọng và gợi cho ta nhớ đến dòng sông li biệt từng gặp trong thơ lí bạch. bên cạnh đó, vần “ang” trong hai từ khi đọc lên như vang vọng và gợi không gian mênh mông xa vắng, cái trải dài của bãi bờ sông nước. vì vậy, ngay từ nhan đề, huy cận đã mở ra một cửa ngõ nhìn vào cái vô biên. hai chữ “trường giang” ngắn gọn nhưng đã khái quát và phần nào đã làm rõ tư tưởng, thông điệp của nhà thơ muốn gửi gắth trong.

        “bông khuâng trời rộng nhớ sông dài”. chỉ một câu thơ nhưng huy cận đã gói trọn cảm hứng chủ đạo của cả tác phẩm. Đó là nỗi bâng khuâng, lòng thương nhớ của một con người bé nhỏ trước cảnh trời rộng sông dài.

        ọc toàn bài thơ, ta thấy ở khổ thứ nhà nhà thơ hướng cai nhìn cảnh về những with song lĂn tmặt sông, dừng trên ếc thuyền nhỏ lẻ loi, rồt; ở khổ thứ hai, huy cận đưa mắt ra xa hơn, rộng hơn với cái nhìn toàn cảnh mênh mông. và ến khổ thứ ba, huy cận lại nhìn về dòng sông, như ella đang ưa mắt tìm kiếm những điều thuộc, chút hơi ấm cho âm hồn. nhưng khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy thiên nhiên dường như chỉ hờng trước những mong mỏi ấy của nhà thơ, bởi xung quanh bốn bốn bốn bốn bốn bốn bốn bốn bốn bốn bốn bốn bốn bố chỉ vẻ ẻ ấy của nhà thơ, bởi xung quanh bốn bố. chỉ vẻ ẻu, </p.

        “bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,mênh mông không một chuyến đò ngang.không cầu gợi chút niềm thân mật,lặng lẽ bờ xanh tiếngp> vbp”.

        thay vì những thuyền, những cành củi khô hiện lên trong cái nhìn cận cảnh dòng sông ở khổ đầu; ở khổ thứ ba này hiện lên hình ảnh không kém phần buồn bã: những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. dòng sông vốn đã “buồn điệp điệp”, sự xuất hiện của những cánh bèo trôi nổi càng làm cho con nước thêm hiu quạnh. những cánh bèo dạt ấy là sự nối tiếp của hình ảnh “with thuyền xuôi mái” và “củi một cành khô” xuất hiện ở khổ thơu đ. và cũng từ đây, từ hình ảnh cánh bèo trôi dạt, cảm giác về kiếp người phù du vô định cũng được gợi ra. phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, câu thơ “bèo dạt về đâu, hàng nối hàng” được ngắt nhịp 2/2/1/2. cách ngắt nhịp này thể hiện ược sự dao ộng của sóng nước và cũng khắc họa trạng thái dập dềnh của những sóng đn dông bèo trê

        còn với hai chữ “về đu” huy cận muốn nói lên sự mất phương hướng, sự hoang mang và những dự cảm bất an về số pHận with người trong thế giới không cócco kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn kn K giữa cuộc đời trăm ngả, bộn bề sống nhưng cô đơn, with người không biết phải đi về đâu. huy cận không biết phải hỏi ai nên ella tự hỏi mình, nhưng ella không tìm thấy một lời giải đáp.

        ứng trước cảnh trời nước bao lao, nhà thơ mang tâm tình hướng ến sự giao cảm với with người, mong rằng sẽ bớt qu nhưng làm sao có cr thể thấy ược an ủi, khi “ không cầu gợi chút niềm thân mật. cái vẻ trống trải cô đơn của nhà thơ được tô đậm bổ hai từ phủ định “không” liên tiếp. Thực tế cây cầu there is with đò là những cảnh vật ta vẫn thường bắt gặp ở những niềm sông nước, bởi đó là pHương tiện đi lại, phng tiện Liên hệ, gặp giữa ủa ủa ủa. nhưng ở đây nhà thơ lại không hề thấy xuất hiện. không có cây cầu nối hai bờ sông nước để gần gũi, không có một chuyến đò để đón đưa khách qua sông. mọi thứ chỉ là vẻ hoang vắng, là màu vàng màu xanh của bãi bờ tiếp nối nhau:

        “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

        “lặng lẽ” là từ láy gợi tả vẻ im lặng của không gian, cùng với hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi” không gian đôi bờ tràng giang càng. Ọc câu thơ, người ọc có thể cảm nhận riqute dòng chảy lững lờ của con sông qua khúc này tới quãng khác, nhưng luôn giữ cám. dòng chảy của sông hồng lúc này thật khác với vẻ tươi vui, xanh biếc của sông hương chảy về thành phố huế trong tác phẩm ủ ng Ự của hoàng

        như vậy, khi phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang mà trước nhất ở khổ thứ ba, ta thấy hiện ra một thế giới mang vẻ hờc. và ở thế này, with người càng thêm thấm thía nỗi cô đơn hoang vắng tột cùng. cái cô đơn âu sầu ấy như thấm vào từng câu chữ, từng hình ảnh trong khổ thơ. nó phản chiếu nỗi cô đơn đã trở thành một căn bệnh của con người trong xã hội ở thế kỉ xx. căn bệnh đã xuất hiện nhiều trong văn học phương tây:

        mỗi người đứng cô đơn trên trái đấttim xuyên qua một tia nắng mặt trờivà chia lichiều đã tắt

        kết thúc bài thơ, huy cận vẽ nên cảnh hoàng hôn về trên vùng sông nước. nỗi cô ơn vẫn còn tiếp nối và trải ra c cùng những with sone, lênh đênh theo những with thuyền, Theo Cành củi lạc loài, thùn th đi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ếi ế p>

        “lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều salòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

        trong khổ thơ cuối bài “tràng giang”, ta thấy huy cận chia đôi khổ thơ làm hai phần rõ rệt. hai câu thơ trên gợi cảnh trời rộng bao la, hai câu cuối thì miêu tả cảnh sông dài. mà song hành c cùng với trời rộng, sông dài là nỗi cô ơn u sầu, là niềm nhớ, nỗi hoài hương da diết của thi nhân, ặc biốkh īt là bu.

        hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy huy cận thtt tài hoa khi vẽ nên một nét chấm phar ậm dấu ấn ường thi, pHác họa cảnh hoàng hôn vùng sông nước nước:

        “lớp lớp mây cao đùn núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

        những lớp mây nối tiếp nhau, đùn dồn tụ, ngưng kết thành những dãy núi trùng điệp. còn hoàng hôn như dát bạc lên những dãy núi, khiến chúng lấp lánh sáng ngời. Đọc câu thơ ta có thể hình dung ra khung cảnh thiên nhiên ấy thật kì vĩ, tráng lệ làm sao và gợi nhắc đến câu thơ Đường:

        “lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmmặt đất mây đùn cửa ải xa”.

        giữa vùng trời mênh mông, người thi sĩ vẽ thêm một cánh chim đơn côi, bé bỏng. cánh chim nhỏ như đang chở nặng bóng chiều tà đi về phía ánh dương rồi mất hút. ta không khỏi cảm thấy cánh chim ấy cũng đang mang nỗi sầu vũ trụ, mà nỗi sầu ấy nặng quá, chúng phải nghiêng đôi cánh nhỏ.

        chính sự kết hợp giữa các hình ảnh mây đùn đùn, trời mênh mông và cánh chim bé nhỏ đang mang đến dư vị cổ điển cho tác. qua đó, độc giả cũng thấy rõ niềm khắc khoải không gian của huy cận. một mình ứng trước vũ trụ bao la, ối diện với nỗi cô ơn, nhà thơ càng thía thía cái vô tận, vĩnh hằng của không gian, thời t. >

        Ở hai câu thơ cuối, nỗi cô đơn u hoài của huy cận còn tăng gấp bội khi ông dõi theo những con sóng đang gợn trôi trên dòng sông:

        lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

        lúc này điểm nhìn của nhà thơ đã dịch chuyển từ cao xuống thấp, từ trời mây noui, canh chim giữa không rồi dừng lại trước mặt nước dềp dềnh són. từ lay “dợn dợn” mang tinh gợi hình, vẽ ra những with song đang nhấp nhô trên mặt nước và khiến người nhìn rợn ngợp bởi những lớp sonng cứ n gối lên nhau. còn nhịp 4/3 của dòng thơ lại gợi trạng thái gặp gỡ của những with sóng. huy cận đứng và phóng tầm mắt dõi theo những con sóng cứ dập dềnh triền miên, nỗi hoài nhớ quê hương cuối cùng đã dâng lên,

        trong thơ cổ điển,hình ảnh khói sóng trên sông đã trở thành nguyên cớ, thành cái dễ gợi nhắc nỗi niềm hoài hươa. còn ở đây, huy cận đã không còn bị tác động bởi yếu tố ngoại cảnh, là khói hoàng hôn để nói về nỗi niềm da diết nhƛ quê. Như vậy, hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy, huy cận đã không lặp lại người xưa ở cai nguyên cớ nhớ nhưng vẫn khiếnngười ọc thấy b khu ớ.

        nhưng hơn hết, nỗi lòng đối với quê hương không chỉ là nỗi nhớ nhà mà sâu sắc hơn, là nỗi buồn. nỗi buồn của cả một thế hệ, một lớp người bởi cảnh nước mất nhà tan. vì vậy, đằng sau nỗi nhớ quê nhà da diết ấy còn ẩn chứa tình yêu đất nước thầm kín mà sâu sắc của huy cận.

        có thể nói, hai khổ thơ cuối bài “tràng giang” là nơi hội tụ những đặc sắc nghệ thuật, nội dung sâu sắc của cả bài thơ. Ở đây ta thấy được phong vị cổ điển kết hết hợp hài hòa với tinh thần sáng tác hiện đại, và sự hài hòa giữa cảm xhúc. chynh những sự cộng hưởng này đã khiến tâm trạng, cảm xúc, nỗi u sầu cô ơn và nỗi hoài vọng quê hương của huy cận càn d, mi trim da thê

        phân tích 2 khổ cuối tràng giang

        con người trước không gian rộng lớn bao la luôn có cảm giác nhỏ bé, rợn ngợp. Đứng trước không gian ấy, with người thường có nhiều chiêm nghiệm suy ngẫm về cuộc đời để rồi nhận ra sao ta cô đơn quá. Đó cũng chính là nỗi niềm của huy cận khi đứng trước không gian trùng điệp rộng lớn của tràng giang. sự cô đơn nhỏ bé ấy được thể hiện rõ trong hai khổ cuối của bài thơ.

        bài thơ tràng giang được viết vào mùa thu năm 1939 khi tác giả đang đứng ở bờ nam bến chèm sông hồng. nhìn cảnh sông nước rộng lớn và suy nghĩ về kiếp người chính là nội dung của bài thơ. Đặc biệt ở hai khổ cuối dường như không chỉ đơn thuần tả cảnh mà trong đó ta còn bắt gặp tâm trạng của thi nhân.

        tràng giang không những là tac pHẩm điển hìn hồn thơ huy cận mà còn tiêu biểu cho thơ ca lãng mạn (ặc biệt là pHong trào thơ mới) – 193925 Trong giai cảnh Chi cao rộng, có sông nước mênh mang và tất cả ều ti tiêu sơ, hoang vắng, chất chứa nỗi sầu nhân tình ế thái …

        nếu ở hai khổ thơ đầu là khung cảnh thiên nhiên sông nước rộng lớn ngợp trời:

        “nắng xuống trời lên sâu chót vótsông dài trời rộng bến cô liêu”

        thì đến khổ thơ thứ hai khung cảnh và điểm nhìn đã được jue hẹp hơn. cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài tràng giang sẽ thấy rất rõ nỗi sầu buồn trong tâm hồn của thi nhân.

        “bèo dạt về đâu hàng nối hàng;mênh mông không một chuyến đò ngangkhông cầu gợi chút niềm thân mật,lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

        không còn là trời rộng là sông lớn, từ cái nhìn bao quát đã trở thành cái nhìn cận cảnh. hình ảnh bèo quen thuộc xuất hiện. những cánh bèo nhỏ bé thường gọi sự nhỏ bé của kiếp người. cánh beo mong manh như chính kiếp người. nếu cánh bèo không thể tự di chuyển mà bị dòng nước xô đẩy thì with người cũng thế. so với cuộc đời rộng lớn mênh mông thì con người chỉ là những hạt cát nhỏ bé trôi nổi giữa dòng đời.

        trong câu thơ dường như thoáng chút bất lực bế tắc. không chỉ một cánh bèo, một kiếp người mà “hàng nối hàng” nhiều kiếp người cũng đang lạc lõng bơ vơ giữa cuộc đời. DườNG NHư KHôNG CHỉ COR HUY CậN CảM THấY Cô ơN THấY LạC LIQUT NGAY CHYNH TRên ấT NướC CủA MìnH Mà Là CảT TầNG LớP THANH NIêN SIN RA TRONG THE LOạN LạC CủT. họ đều như những cánh bèo kia lênh đênh không biết sẽ đi về đâu chỉ đành phó mặc cho dòng đời xô đẩy

        “bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nướcbiết chọn một dòng hay để nước trôi.”

        huy cận cũng thế nên ông thấu hiểu cho tình cảnh của những người thanh niên giống ông. phân tích 2 khổ thơ cuối bài tràng giang sẽ thấy chỉ một từ láy “mênh mông” nhưng cũng đã đủ diễn tả không gian rộng lớn đa. không gian như được mở rộng ra vô biên. và trong không gian rộng lớn ấy chỉ có cánh bèo nhỏ bé lênh đênh, thật cô đơn và tuyệt vọng.

        sau khi vẽ ra không gian rộng lớn ấy, nhà thơ đã đi đến một điệp khúc “không” độc đáo. Điệp từ “không” được lặp lại hai lần trong lời thơ – “không một chuyến đò ngang”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”. không có gì cả, không có người cũng chẳng có sự vật. nỗi cô đơn cứ thế mà ngự trị khắp nơi len lỏi vào không gian xen lẫn vào tâm hồn nhà thơ. Đó cũng chính là điều đã làm nên cái điệu buồn miên man này.

        nhưng dường như không chỉ có cảnh vật cô đơn mà con người dường như cũng từ chối cả sự giao tiếp với thế giới xung qua. chính con người dường như cũng đang thu mình lại giữa sự cô đơn, khép lại tấm lòng của mình và từ chối giao tiếp vỿgi thi. bến và đò vốn muôn ời nối liền nhau, nhắc ến bến là phải nghĩ ến đò nhưng trong câu thì bến trống rỗng mà thuyền.ng ng cũ bến đó nhưng nào có đợi mong thuyền hay một chuyến đò nào sang sông. tất cả mọi sự vật đều từ chối sự kết nối.

        hai khổ thơ cuối bài tràng giang ta thấy từ láy “lặng lẽ” đã nhấn mạnh thêm sự trống vắng tĩnh lặng đến đáng sâi nơ trong im vắng cũng chính là lúc người ta sống thật với lòng minh sống thật với những cảm xúc của mình. nhưng trong im vắng người ta lại cảm thấy cô đơn nhiều hơn, để rồi cần tìm một nơi để nương tựa sẻ chia.

        “bờ xanh” tiếp “bãi vàng”, những gam màu đã bắt đầu xuất hiện. NHưNG Có Màu xanh tươi Mát There are Màu Vàng ấm ap cũng không khiến cho bức tranh này tươi mới hơn mà ngược lại nó càng trở nên âm u tịch mị những gam màu ấy chỉy chỉ and chỉy chỉy chỉy cảnh buồn thấm vào cảnh vào người hay chính nỗi buồn sự cô đơn của con người khiến cảnh vật cũng u ám như câu thơ cễt nguy

        “cảnh nào cảnh chẳng đeongười buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

        cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài tràng giang sẽ thấy con người đang cô ơn lạc liqut trong không gian rộng lớn, trong thời gian mông vô thủy vôtrung cỺ …

        thật không sai khi nói rằng thơ của huy cận có sự hòa quyện chặt chẽ giữa chất cổ điển và chất hiện tại. Điều ấy được thể hiện rõ ở khổ thơ cuối:

        “lớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều salòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

        pHân tích 2 khổ thơ cuối bài tràng giang, ta thấy hình ảnh những đám mây chất chồng lên nhau ược diễn tảt hùng vĩ qua dòng phác họa “lớp lớp mc. Và dường như còn đang tiếp diễn. sức sống ấy cứ dâng lên không sao kìm nén ược. sức sống ấy ược diễn tả cô ọng qua từ “đùn. hiện sức sống của cảnh vật như Đỗ phủ từng viết

        “giang giang ba lãng kiêm thiên dũngtái thượng phong vân tiếp địa âm.”

        (Thu hứng)

        (lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmmặt đất mây đùn cửa ải xa.)

        there is nguyễn trãi cũng từng viết:

        “rồi hóng mát thuở ngày trườnghòe lục đùn đùn tán rợp giương”

        (cảnh ngày hè)

        huy cận cũng sử dụng từ “đùn” ấy để diễn tả sự chất đống, chất dồn của đám mây. những đám mây xếp chồng lên nhau tạo cho ta cảm giác như những núi bạc đã lơ lửng trên không. hình ảnh hiện ra thật hùng vĩ làm sao. trong bức tranh cổ thi ấy, nét động bắt đầu xuất hiện. Đầu tiên chính là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. hình ảnh con chim cuối ngày thường gợi ra một cảm giác chán chường mệt mỏi như trong câu thơ của bà huyện thanh quan.

        “ngàn mai gió cuốn chim bay mỏidặm liễu sương sa khách bước dồn”.

        hay trong câu thơ của hồ chí minh

        “quyện điểu quy lâm tầm túc thụcô vân mạn mạn độ thiên không”.

        cánh chim của huy cận cũng thế chở đầy mệt mỏi lo âu và cả sự cô đơn rợn ngợp. chú chim nhỏ bé cô đơn giữa bầu trời rộng lớn. cánh chim nếu so với bầu trời thật quá nhỏ bé cũng như con người với dòng đời này. khi cảm nhận 2 khổ thơ cuối bài tràng giang, ta nhận ra cộc ời này nếu so với dòng chảy vô tận của thời gian thì chẳng khác nào một hạt cat giữc, một.

        nếu ở những dòng thời trên thời gian không xuất hiện cụ thể ở dòng thơ này thời gian đã được xác định “bón sag chiều”. giữa hai sự vật “chim nghiêng cánh nhỏ” và “bóng chiều sa” dường như không có sự kết nối, cho người đọc tự liên tưởng. chính vì vậy ta có cảm tưởng dường như cánh chim đang chở nặng bóng chiều hay chính cánh chim mỏi mệt đã kéo bóng chiều xuống. nhưng dù hiểu theo cách nào ta vẫn thấy hình ảnh ấy hiện ra thật tráng lệ.

        nỗi buồn của người lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp. từ điểm nhìn trên cao, huy cận đã di chuyển điểm nhìn xuống mặt nước quen thuộc

        “lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

        lòng quê chính là tình cảm dành cho quê hương đất nước. hóa ra nhà thơ không chỉ quan tâm đến bản thân mà ngầm trong đó là một tình yêu nước thầm kín. từ láy dợn dợn gọi tả sự chuyển động nhỏ nhưng diễn ra liên tục không ngừng như một sự ám ảnh. tình yêu đối với quê hương cũng thế có đôi khi mạnh mẽ có khi khi lại ẩn khuất trong cuộc sống nhưng nó vẫn tồn ại mãi ó. không nhắc về nói nhưng mỗi lần nhớ đến ella vẫn cảm thấy đau nói. dùng sự vật biểu trưng để nhớ đến quê hương không phải là điều xa lạ. như lí bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương:

        “cử đầu vọng minh nguyệtĐê đầu tư cố hương”

        there are thôi hiệu cũng từng:

        “nhật mộ hương quan hà xứ thịyên ba giang thượng sử nhân sầu.”

        nhưng nếu các thi nhân xưa cần vật để gợi nhớ quê hương thì huy cận đang ở trên quê hương mà vẫn nhớ về quê hương. tại sao một con người đang đứng trên đất nước mình mà lại đi nhớ về quê hương? lẽ quê hương ta đang bị quân giặc giày xéo, đy không phải là quê hương đúng nghĩa, nên dù đang ứng ngay tr trêhnchn…………… ưt …ng … ng …ng …ng …ng …ng …ng …t. >

        phân tích 2 khổ thơ cuối bài tràng giang nói riêng cũng như toàn bộ tác phẩm nói chung sẽ thấy bài thơ chính là một nỗi buồn cô đơn. nỗi buồn ấy không chỉ đến từ vạn vật mà còn đến từ chính tâm trạng thi nhân. Đó là tâm trạng của một người không có được tự do trên chính đất nước mình. GIọNG THơ ượM BUồN KếT HợP VớI NHữNG HìnH ảNH RộNG LớN CủA KHông Gian đã Cho Thấy ượC Sự Cô ơn NHỏ BÉ CủA Kiếp người trước sự trôi của dòng

        phân tích bài thơ tràng giang nói chung cũng như hai khổ thơ cuối nói riêng sẽ thấy tác phẩm là đại diện tiêu biểu cho phong cách sáng tác huy cần một cái buồn ảo não, một nỗi sầu nhân thế ngấm xuyên vào cảnh vật và vào cả lòng người. bởi thế mà nhà thơ lê duy đã từng viết:

        “là tràng giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nước,là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn…”

        phân tích 2 khổ cuối bài tràng giang ngắn gọn

        bai văn mẫu 1

        trong số các nhà thơ mới trước cách mạng, huy cận là một nhà thơ có chất thơ ảo não nhất. thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “tràng giang” là một bài thơ gắn liền với tên tuổi của huy cận với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm thương nhớ ấy càng được thấy rõ trong phần phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang dưới đây:

        bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;mênh mông không một chuyến đò ngang.không cầu gợi chút niềm thân mật,lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi v

        lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa.lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

        trước mắt người đọc hiện lên một khung cảnh hắt hiu:

        bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;mênh mông không một chuyến đò ngang.không cầu gợi chút niềm thân mật,lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi v

        từng đám bèo cứ lặng lẽ nối tiếp nhau trôi Theo Dòng nước mà không biết trôi về đu, tựa như dòng ời bơ vơ, vô ịnh, cảy mình bất lực và nhỏ be. Ở đây có sự đối lập giữa những thứ đang có và những thứ không có. CHỉ Có Dòng nước Mênh Mông với những canh bèo nối tiếp nhau trôi trong vô ịnh, không có lấy một cây cầu dù chênh vênh, không có lấy một con nhỏ nhỏ be. hai bên bờ sông mà như hai thế giới, không có một chút liên hệ nào, dù gần mà cũng thành xa xôi không thể với tới. hai bên bờ chạy song song, cùng “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, ko chút thân mật, không chút giao hòa nào cả. khung cảnh thiên nhiên ấy, cũng như tâm trạng của nhà thơ vậy. giữa trời đất bao la nhưng he không tìm được những tâm hồn đồng điệu với mình, không ai có thể hiểu mình. nỗi cô ơn cứ thế chồng chất chất chồng, làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên, càng khao khát hƺn sựồ, yơ ợm.

        không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:

        lớp lớp mây cao đùn núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa.

        trong thơ của huy cận cũng cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói vềi bomổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không croc dụng hô ứng choc choc choc choc choc có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong Buổi Chiều Muộn, NHưNG TừNG LớP, TừNG LớP Mây Trên Cao Kia vẫn chất chồng lên nhau, tạo thành những nume bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của hồ chí minh. mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.

        Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:

        lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

        tầm mắt trở lại trên dòng nước. từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn nhưng cũng tồn tại rất lâu, lan tỏa rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn,

        người xưa nhìn khói sóng trên dòng sông khi chiều tà mà cảm thấy nhớ nhà. còn huy cận không cần thấy khói hoàng hôn nhưng trong lòng vẫn dâng lên một nỗi nhớ quê hương da diết. Đó như một thứ tình cảm thường trực vẫn luôn chứa trong lòng người con xa quê, mà không cần một tác ộng nào từ b. bng

        pHân tích 2 khổ cuối bài tràng giang c càng thấy riqu hơn bức tranh quê hương ẹp ẽ, nên thơ với những hình ảnh quen thuộc của làng quê việt nam như bờ bờ, c. Đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, đã thấm vào từng con chữ. Ồng thời trong đó cũng thể hiện khát khao tìm ược sự ồng điệu trong thế giới bao la của một tâm hồn thi sĩ luôn băn khoăn mộuth.

        bai văn mẫu 2

        nhà thơ huy cận là một nhà thơ nổi tiếng với làng thơ mới, mỗi tc pHẩm của ông ều gửi gắm những tâm trạng, nỗi buồn phiền, sầu m.

        bài thơ tràng giang là một bài thơ tiêu biểu gắn liền với huy cận, thể hiện nỗi buồn của tác giả trước nhân tình thế thati, trước nỗi buồn nhân thế. thể hiện tình cảm yêu quê hương, đất nước của tác giả.

        Đặc biệt là hai khổ thơ cuối thể hiện rõ nét tâm trạng phiền não, sầu muộn của tác giả huy cận với những nỗi sầu.

        “bèo dạt về đâu hàng nối hàngmênh mông không một chuyến đò ngangkhông cầu gợi chút niềm thân mậtlặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

        hình ảnh từng cụm bèo lững lờ trôi trên sông vô định không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu, trong bối cảnh không gian mênh mông sông nước trời biển bao la, thời gian là cảnh chiều tà, nhìn những đám bèo trôi vô định, không có phương hướng khiến cho tác giả cảm thấy nôn nao buồn. một nỗi buồn nhân thế không biết tỏ bày cùng ai, chỉ có thể gửi gắm vào những câu thơ của riêng mình.

        trong câu thơ “mênh mông” hai từ láy này gợi lên cho người ọc sự sầu muộn bao la, trước cảnh sông chiều nhưng không có một đ. /p>

        tac giả đã sửng nGhệ Thuật ối lập giữa không gian và with người bé nhỏ, không gian càng mênh mông thì with người càm cảm thấnh thật côt ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ

        khung cảnh thiên nhiên thể hiện như tâm trạng của nhà thơ huy cận lúc này đều gợi lên tâm trạng buồn. Giữa ất trời sông nước bao la không tìm ược một người bạn tâm giao tri kỷ, không ai có thể hiểu nỗi lòng của tac giả, làm choc

        “lớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

        cánh chim chiều nghiêng bóng trước hoàng hôn, một cánh chim nhỏ nhoi lẻ loi trên bầu trời bao la rộng lớn, thể hiện sự cô liêu khảic kho. cánh chim chiều chao nghiêng kia phải chăng chính là hiện thân của tác giả lúc này, đang cảm thấy trào dâng nghiêng ngả những cơn sóng lòng. Ella đang cảm thấy mình lẻ loi, cô đơn trước cuộc đời bao la rộng lớn.

        thiên nhiên trong khổ thơ này gợi lên cho người ọc cảm giác buồn thê lương, não lòng, đung như câu của nguyễn viết Trong tác phny sự cô ơn, lẻ loi buồ

        tác giả huy cận đã vô cùng tinh tế khi đặt cánh chim đối lập cô đơn với không gian bao la rộng lớn, mênh mông của đất trờ, vť

        “lòng quê rờn rợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

        trong hai câu thơ này thể hiện tâm trạng nhớ nhà nhớ quê hương của tác giả huy cận. người xưa thường nhìn khói lam chiều gợi lên cảnh nhớ nhà, nhớ mùi khói bếp thơm ngai ngái ểể hướng tới quê hương, gia đình, hướng tới người thâng nất.

        nhưng huy cận viết “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” thể hiện nỗi nhớ của ông là nỗi nhớ thường trực, nó luôn chứa ựng in sâu trong lòng tac giả, không cầ mới nhớ.

        bài thơ “tràng giang” là một bài thơ vông there are thển bức tranh quê hương trong cảnh hoàng hôn vông tươi ẹp, sinh ộng, với hình ảnh thuộcnh nh ồp, without sinh n. những cánh bèo trôi.

        pHân tích hai khổ cuối bài tràng giang xong, chung ta cr tểy tất cả ều gợi lên một bức tranh chiều tà vông tinh tế, tươi ẹp nhưng thể hi ệt n n ỗt nthu s. giả.

        xem thêm: phân tích khổ thơ đầu bài thơ tràng giang của huy cận

        bai văn mẫu 3

        Co NHà Phê bình nào đó đã tinh tế nhận xét rằng: thơ huy cận không phải rượu rot vào chén (tức là không say nồng) mà là men đang lên không phải hoa hoa trê mà là nhựa đang chuyển. Đung thế! cái hồn thơ bề ngoài tưởng lặng lẽ mà rất cao, rất rộng trong thơ ông không dễ gì nắm bắt.

        ọc “tràng giang” – bài thơ trang trọng, cổ kính, ậm đà cốt cách ường thi mà giản dị mới lạ, ộc đc en rõ dấu ấn của thơng mư>

        là tâm trạng, khổ nào cũng lặng lẽ u buồn.

        (le vy)

        hai khổ cuối của bài thơ đã góp phần tạo nên điều ấy:

        Âm hưởng trầm trầm, chất ngất u buồn của những câu thơ đầu tiên lan rộng đến hai khổ cuối. từ một cành củi khô ở trước đến hình ảnh “bèo dạt” vô định vô phương ở sau đều gợi lên sự chia li “tan” mà khôp “h>

        bèo dạt về đâu hàng nối hàng;mênh mông không một chuyến đò ngangkhông cầu gợi chút niềm thân mật,lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

        trước cảnh “mênh mông” sông dài trời rộng, canh bèo xanh nổi như nét điểm xuyết gợi lên cả kiếp người: bé nhỏ đ và vôn hình ảnh không phải mới mới mới mới mới mới thơ cổ nhưng ặt trong dòng “tràng giang” vẫn ủ sức khiến người thưởng thức cảm nhận rõ rệt thêm cai mênh mông của ất trời, cai xa vắng

        cảnh bao la nhưng vắng bặt bong dáng with người. Điệp từ “không” như điểm nhấn cho sự vắng ở đây. song nhưng không có “đò”, không hề có cảnh “cô chu trấn nhật các sa miên” hãy “bến my lăng nằm không thuyền đợi khách”. dáng cầu nghiêng nghiêng, “” cầu bao nhiêu nhịp thương mình bấy nhiêu “cũng không hề xuất hiện, tất cả ều” lặng lẽ “, chỉ có thiên nhiên” bờt “ni ni” ni thi). >

        gam màu lạnh. cảnh quạnh quẽ càng thêm quạnh quẽ, u buồn càng chất ngất u buồn hơn. cánh bèo trôi hay chính con người đang lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian?

        huy cận là một nhà thơ mới, ảnh hưởng khá nhiều dòng thơ lãng mạn pháp. thế nhưng, ông còn là người thuộc nhiều, ảnh hưởng nhiều phong cách trang trọng, cổ kính của thơ Đường. cốt cách ấy được thể hiện rõ nét trong khổ thơ cuối:

        bậc thánh thi Đỗ phủ đời Đường lại có câu:

        giang giang ba lãng kiêm thiên dũngtái thượng phong vân tiếp địa âm.

        (Thu hứng)

        và đã được nguyễn công trứ dịch một cách tài hoa rằng:

        lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmmặt đất mây đùn cửa ải xa.

        Ý thơ của Đỗ phủ đã được tái hiện độc đáo qua ngòi bút của huy cận:

        lớp lớp mây cao đùn núi bạc.

        từ láy “lớp lớp” khiên mây dày đặc thêm, nhiều tầng nhiều lớp thêm, nên khiến núi ánh lên sắc bạc huyềng tro. tứ thơ cao nhã lắm thay!

        trong cái tĩnh gần như tuyệt đối của trang thơ, cánh chim có lẽ là chút hồn động nhất.

        chim nghiêng cánh nhỏ bong chiều sa

        Đã là “cánh nhỏ” mà lại chao nghiêng nên nét thanh mảnh của cánh chim càng nâng thêm một bậc. sắc hoàng hôn bát ngát trên trang thơ, cánh chim bé bỏng nghiêng chao gợi lên niềm xúc cảm? sẽ chẳng bao giờ ta quên được ý thơ…

        giữa không gian cô tịch, ngẩng nhìn lên cao rồi lại cúi trông mặt nước:

        lòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

        t? th?

        Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của thôi hiệu phảng phất ở đây:

        nhật mộ hương quan hà xứ thịyên ba giang thượng sử nhân sầu.

        thế nhưng thôi hiệu phải có “khói sóng” mới “buồn lòng ai”. còn nhà thơ của chúng ta “không khói hoàng hôn” mà “lòng quê” vẫn “dợn dợn vời con nước”! từ láy “dợn dợn” và từ “vời” khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng!

        nhận xét về huy cận, nhà pHê bình hoài thanh từng viết: strong”. Đọc những vần thơ của thi nhân, he chỉ mong cảm nhận và hiểu thêm một chút về con người thơ ấy. sau khi phân tích 2 khổ cuối bài tràng giang, chúng ta sẽ hi vọng một điều rằng “tràng giang” sẽ còn mãi trôi, lấp lấp lấp lòi ọn ọ . >

        bai văn mẫu 4

        Độc giả biết đến hồn thơ của huy cận trước cách mạng là một hồn thơ sầu, buồn trước nỗi sầu nhân thế. Đến với bài thơ “tràng giang”, ta lại bắt gặp một nỗi buồn, cô đơn sâu sắc của tác giả trước cuộc đời. Đặc biệt, nỗi sầu buồn ấy được làm nổi bật trong hai khổ thơ cuối của bài thơ.

        khổ thơ thứ 3 đã gợi ra hình ảnh một kiếp người nhỏ bé, vô định, chênh vênh trước dòng đời mang nét cổ kkh:

        “bèo dạt về đâu hàng nối hàngmênh mông không một chuyến đò ngangkhông cầu gợi chút niềm thân mậtlặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

        hình ảnh “bèo dạt” như gợi bão tố của cuộc đời đang xô đẩy số phận một con người nhď bé như hình ảnh bèo côy, bèo côy, with người như cùng bơ vơ trước cuộc đời. Điệp từ “không” nhấn mạnh sự trống vắng, thiếu hụt, mất mát. nó góp phần phủ định hiệu quả. dòng sông là bức tường ngăn cách, phương tiện đi qua nó là “đò”, “cầu”, là cái khiến con người xóa bớt sự cô đơn. NHưNG ở ầY, đã Có sự phủ ịnh tuyệt ối “không cầu”, “không đò”, đó lại là sự khẳng ịnh không cor bất kì tín hiệu, mối liên hệ nào ể người đang bị hoàn toàn tiêu diệt. nếu bị tước đoạt những thứ giúp con người đến với nhau thì không cuộc sống không có giá trị. phương tiện giúp with người xóa đi sự xa cách mà ở hoàn cảnh này lại hoàn toàn không có. sự sống của con người dường như bị tiêu diệt, vì sống giữa cuộc đời mà không có sự liên hệ, cảm thông hay chia sẻ. hình ảnh “bờ xanh’, “bãi vàng” là hai sự vật vốn dĩ đứng cạnh nhau mà lại không có một mối liên hệ ràng buộc nào. “lặng lẽ” chỉ hoạt động âm thầm, kín đáo, riêng lẻ. tác giả đã gợi ra bức tranh cảnh vật hoang vắng, thiếu hơi ấm tình người.

        khổ thơ thứ 4 gợi ra cả một bầu tâm sự của tác giả:

        “lớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ, bong chiều salòng quê dợn dợn vờn con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

        hình ảnh “mây cao”, “núi bạc” mang hình ảnh kì vĩ, mang tầm vóc lớn. nhà thơ đã lựa chọn sửng những hình ảnh lớn lao, kì vĩ, mượn từ “đùn” của nhà thơ ường, đó là sự chuyển ộng từ bên trong ẩy ra bên ngoài: một num bạc. “lớp lớp” là nhiều, chồng lên nhau, không có điểm kết thúc. hình ảnh mây trắng hết lớp này đến lớp khác như một cây bút bông nở lên trên trời cao. mây trông như những ngọn núi bạc, mây là núi, núi tựa mây. hình ảnh “cánh chim” là một công thức ước lệ trong thơ cổ, lấy cánh chim để gọi buổi chiều, nói hộ tâm trạng con người. hình ảnh “cánh chim” gợi sự sống cho cảnh vật, những cánh chim nhỏ lại nghiêng đi, không chịu được sức nặng của bóng chiều đang xa xuống, tạo sự đối lập giữa cảnh bầu trời cao rộng hùng vĩ ở câu trên và cánh chim nhỏ bé ở câu dưới. câu thơ cuối cùng “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” chính là tâm sự nhớ quê hương mà tác giả gửi gắm. cách thể hiện nỗi nhớ nhà: không cần có yếu tố gợi nhớ mà vẫn nhớ vì nỗi nhớ luôn thường trực ở trong tâm hēn. huy cận đứng trước dòng sông của đất nước, thể hiện tâm sự của nhà thơ đối với đất nước. người ọc nhận ra ược sự cô ộc của tác giả do mất quê hương, đây là một tâm trạng thầm kín, thể hiện tình yớathu cư

        “Tràng Giang” Là MộT BứC Tranh Thiên nhiên ẹp nhưng buồn, ặc biệt hai khổ thơ cuối thể hiện tình yêu quê hưương, ấthc nơà tình yêu ấy mang tâm sựm sựm t trong đó còn có sự kết hợp giữa hiện đại và cổ điển, xứng đáng là bài thơ hay nhất của tập “lửa thiêng”.

        bai văn mẫu 5

        thơ là cây đàn Muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở with tim, thơ diễn tảt rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của with người, niềm vui, nỗn buồn there are cả ơ ơ. mang Trong Mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ khi sáng tạo nGhệ thuật cùng với nỗi buồn thế sự sâu sắc, huy cận đy dựng ược mộtt phong cach to àn mớ ơ ớ ớ ớ ớ ớ ớ ớ ớ ớ ớ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông có thể kể đến tràng giang trong tập lửa thiêng. bài thơ được gợi cảm xúc từ một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng ở bờ nam bến chèm. TRướC CảNH Sông Hồng Mênh Mang Song NướC, NHữNG CảM XúC Thời ại đã DồN Về Lúc Thi Sĩ Băn Kho, NGHĩ Về Sự Biến ổi của thế sự với cảm xúc dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà dà Ặc biệt qua hai khổ thơ cuối của đoạn thơ là một nỗi buồn tràng giang như một sự am ảnh lan tỏa khắp không gian vũ trụ, hoàn toàn vắng bong giai nhân mà mà chỉn ơ nhưng luôn cảm thấy thiếu quê hương”:

        “bèo dạt về đu, hàng nối hàng; mênh mông không một chuyến đò ngang.không cầu gợi chút niềm thân mạt, lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. bong chiều sa.lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

        tính chất lãng mạn của bài thơ trước hết là huy cận đã phủ lên cảnh vật, không gian những cảm xúc, những nỗi niềnm m tâm. Đó là nỗi buồn, sự xúc động mạnh mẽ trước cảnh sông nước, cảnh bèo dạt gợi nỗi sầu muôn trùng:

        “bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;”

        ta chợt bắt gặp sự tương đồng giữa “bèo dạt về đâu” với “bèo dạt mây trôi” trong dân ca quan họ từng gợi lòc mú.ều c mú. hình ảnh ẩn dụ cánh bèo bao giờ cũng gợi lên sự vô định, xa xăm, lênh đênh. không chỉ dừng lại ở đó, câu hỏi tu từ cùng điệp từ “hàng” như trải rộng nỗi buồn trên sóng nước tràng giang. liệu những canh bèo đó sẽ trôi dạt về pHương trời nào, there are cứ mãi bấp bênh, trôi nổi như số pHận ại đa số người dân trong hoàn cảnh ất nước Lầm What? sống trong thời khói lửa còn ốt cháy quê hương, thi nhân không khỏi xót xa trước cuộc ời ầy biến ộng, ổi thay, biến con ngta ữnh ữ. BUồN RồI LạI BUồN HơN, MUốN Tìm MộT NơI BấU VÍU, MộT CHUT HơI ấM CủA SựNG NHưNG Cái NHà Thơ NHậN ượC CHỉ Là sự hiện diện của những cai không con con:

        “mênh mông không một chuyến đò ngang.không cầu gợi chút niềm thân mật,lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

        chiếc cầu, with đò vốn là những thứ nối liền đôi bờ, là sự giao nối giữa with người với nhịp sống, thường gợi sự gần gũi và gợi nhớ quê hương. nhưng buồn thay, ở đây lại không có một chiếc cầu cũng chẳng có with đò nào lại qua. Điệp từ “không” hai lần như nhấn mạnh sự cô đơn, trống trải có thật trong lòng người. hai bờ sông mà như hai thế giới, không một chút liên hệ, không một chút giao hòa. hai bên bờ chạy song song, cùng “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, không một chút thân mật, chỉ có bờ tiếp bờ, bãi tiếp bãi. từ láy “lặng lẽ” được đưa lên đầu dòng thơ cùng âm điệu trầm buồn càng tô đậm cái cô tịch, vắng lặng. Thi sĩ đã sử Dụng thủ Phapp nGhệ Thuật cổ điển quen thuộc: lấy không ể nói cai có, càng nhấn mạnh nhiều cai không càng gợi ra nhiều cai cóc, tâm tri Đưa tầm nhìn lên trời cao thầm mong ella sẽ tìm được chút niềm vui nhưng lại càng khiến lòng buồn hơn:

        “lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa.”

        thiên nhiên, cảnh vật, tạo vật qua tâm hồn huy cận tuy trầm buồn nhưng lại bộc lộ một vẻ đẹp kì vĩ, nên thơ. Mây trắng hết lớp này ến lớp khác như những bup bông trắng khổng lồ cứ liên tiếp nở ra, angrời chiều chiếu vào trông như quả num dát bạc trong nề câu thơ dựng lên được một hình ảnh rất tạo hình như một bức tranh sơn mài, đằng sau bức tranh là nỗi lòng thi nhân. từ láy “lớp lớp” diễn tả nhiều lớp kế tiếp nhau, lớp nọ liền lớp kia đều đặn không dứt. “Đùn” diễn tả những đám mây và cũng là nỗi sầu tự mở ra, liên tiếp như có một sức đẩy từ bên trong. Đúng là: “sầu đong càng lắc càng đầy”. câu thơ huy cận làm ta liên tưởng đến câu thơ dịch trong bai “thu hứng” nổi tiếng của Đỗ phủ:

        “mặt đất mây đùn cửa ải xa.”

        phân tích 2 khổ cuối bài tràng giang đầy đủ

        bai văn mẫu 1

        huy cận nhà thơ xuất chúng của phong trào thơ mới, thơ của ông mang nhiều tâm trạng, nỗi buồn của chính thi nhân và nỗi sầu th nhâ. Đoạn cuối của bài thơ tràng giang là một trong số đó.

        huy cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

        lớp lớp mây cao đùn núi bạc, chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

        tac giả đã dùng những từ lay “lớp lớp” ở đy ể ể miêu tả rõ hình ảnh của những đám mây nhiều từng lớp từng tơy đp ớp ớp ớ bạc “nhà thơ đã dùng biện phap so sánh ẩn dụ và bút phap chấm phar lại càng thi vị hơn khi nó ược khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ ường cổa ỗ ỗ ỗ ỗ ỗ:

        “mặt ất mây đùn cửa ải xa” ể ể tô thêm vẻ ẹp thiên nhiên hùng vĩ tac giả đã so sánh màu của những đám mây với “bạc” một cach sanh tình ộng ộng từ động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi thành núi bạc. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc. và nét hiện ại càng bộc lộ rõ ​​hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa và bón bón chi ều.

        trời mây thã bao la, rộng lớn như vậy còn chim thì chao nghiêng nhưng ở đy không phải là chao nghiêng một cach bình thường mà nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. ấm của mình để tránh được cái “bong chiều sa”. dường như những cánh chim đó đang bị đè nặng của cảnh xế chiều buông xuống và điều đặc biệt hơn là cánh chim không bình thường mà chim nghiêng bỏi đôi cánh nhỏ bằng đôi cánh nhỏ của mình chim bay về tổ ấm của mình để tránh được một không gian rộng lớn buổi chiều tà. chim bay đi đâu cho thoát khỏi cái bong chiều tà đang đè nặng xuống mình? nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

        lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”lòng quê dợn dợn vời non nước”

        lòng what? hai từ “dợn dợn” cho ta cảm nhận sóng biển đang ở bên ta, sóng biển cũng biết nhớ thương hay tác giả đang nhớ thương vậy? “dợn dợn” là một từ láy nguyên sáng tạo của huy cận, chưa từng thấy trước đó. từ láy này hô ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng, cô đơn của “lòng quê”. hai từ “dợn dợn” còn gợi cho ta thấy ược sự lên xuống uốn lượn của song biển there are nỗi nhớ trào dâng của nhà thơ khi ứng trước cảnh hoang vắng của ều t. và nỗi nhớ ấy không chỉ một lần mà là liên tục, nhiều lần nhưng nỗi ấy mới chỉ là “dờn dợn”’ mà chưa phồn cu. câu thơ muốn nói lên lòng nhớ quê hương khi tác giả sông nước hay trong truyện kiều cũng ả nỗi nhớ nhà nhưng lại chưa biết

        “bốn phương mây trắng một màu trông về cố quốc biết đâu là nhà”

        kiếu nhớ quê nhà nhưng bốn pHương ều là một màu làm sao ể nhận ra ược đu là nhà nen trong cudc sống của cô như thì sẽ biết về đ â à ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ bởi từ “mây trắng”, cánh chim chiều và được tác giả nhấn mạnh ở từ “with nước”, tác giả kết thúc bài thơ một cách nhẹ nhàng>

        “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

        nhà thơ đã mượn từ “khói” Trong thơ của nhà thôi hiệu ể nói lên nỗi lòng của mình, nếu như nhà thơ hiệu nói “trên sông khói song choc chu bom cậng cậhng c cậng c. “khói” nhưng he vẫn nhớ về nhà hay cái nôi mà mình đã nuôi ta trưởng thành. nhà thơ tôu mới nói lên nỗi nhớ nhà một cach chung nhưng ở đy nhà thơ huy cận đã khẳng ịnh “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhớ nhà” . xưa kia nhà thơ thôi hiệu buồn vì cõi tiên mù mịt , quê nhà cách xa, khói sóng trên sông gợi cho tác giả thấy mờ mịt mà sầu. NHưNG NAY HUY CậN BUồN TRướC CảNH KHôNG GIAN HOANG VắNG, SONG “GợN TRàng giang” Khiến ông nhớ tới quê hương như một nguồn ấm ap vá là tổm hrạnh ốh đó là lòng khát khao một cõi quê hương thực tại còn huy cận một mình đối diện với khung cảnh vô tình, hoang vắng lòng ông lại muốn được trở về với quê hương mang nặng tình thương và mang lại sự ấm áp cho tác giả đó cũng là nỗi khát vọng của ông. bằng những biện pháp so sánh và sự tài tình miêu tả của nhà thơ đã thể hiện rõ nỗi buồn, nỗi nhớ nhung quê hương của. nỗi niềm nhớ quê hương khi he đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.

        thơ mang ậm nét buồn, buồn ở đây không phải là buồn do cảnh vật tàn phai, không gian chật hẹp, tù tung có tính phổ quát gây nên một cái buồn ậm màu triết lí, nỗi buồn đó cũng phản ánh sự thay ổi ời sống xã hội, khổ thơ c.

        bai văn mẫu 2

        nhắc đến cù huy cận, ta thường nhớ đến một nhà thơ giàu suy tư với những vần thơ u sầu, ảo não. thông qua những trang thơ văn, huy cận đã thể hiện ược những cảm xúc chân thành về những cuộc ời, về with người, thơn már. trải dài với mênh mông của trời đất. ỌC thơ huy cận, ộc giả thường mang những xúc ộng, bồi hồi với từng vần, với từng nội triết li nhân sinh ở ời mà nhà thơ từn ồn ồng ỗNg ỗNg ỗNg ỗNg ỗNg ỗNg ỗ ỗng ỗnd, bởng ỗn, bởn, bởn, bởn. chính những cảm xúc, những trải nghiệm của nhà thơ trong cuộc đời. Cari ấn tượng mà huy cận ể ể lại cho ộc giả không chỉ là nỗi buồn, sự suy tư mà trên tất cả, đó chynh là sự chiêiệm ầy quhn giá trước những àn àn ấn ấn ấn ấn ấn ấn ấn cũng được sáng tác trong sự suy tư, trong dòng cảm xúc u buồn, trầm mặc ấy, bài thơ “tràng giang” tiêu biểu cho cảm hứng thơ văn này củn huy củn

        Bài Thơ “Tràng Giang” ượC Sáng tág Trong Một Hoàn Cảnh Khá ặC Biệt, đó Là Khi Nhà Thơ Một Mình Ngắm Cảnh Trên Bến đò Chèn, Trước Không Gian Sông NướC Mênh Mênh Mênh m. tư về cuộc đời, về con người, đó chính là sự nhỏ bé, vô nghĩa của con người trước sự rộng lớn, vô hạn của cuờc. những cảm xúc buồn bã, suy tư đầy trăn trở ấy của nhà thơ được ghi lại một cách chân thực và sâu sắc qua bài thơ “tràng giang”. Ặc biệt, qua hai khổ thơ ầu của bài thơ, huy cận vừa thể hi ược ngọn nguồn của cảm xúc, cũng là nguyên nhân dẫn ến ến, nguyên nhân tac ộng ếng ếng ếng Và trước sự mênh mông của không gian sông nước ấy, nhà thơ huy cận đã thể hiện ược những suy nGhĩ sâu sắc vềc cuờc đv.ưng trong đó sự sự nhỏ bé, hữn hạn củ với cái rộng lớn, vô hạn cờ đa dò

        “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpcon thuyền xuôi mái nước song song”

        mở ra trước mắt người đọc, đó chính là không gian rộng lớn, mênh mông của sông nước, của bầu trời. cùng với sự mênh mông đó chính là nét tịch mịch, vắng lặng của dòng sông. và chính ngoại cảnh ầy ặc biệt ấy đã tác ộng sâu sắc ến tâm trạng của nhà thơ, mang ến những cảm giác man mác buồn ững sung cð bao giờ cũng vậy, ứng trước không gian rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụng gợi rach with người những cảm nhận thía về sự cô ơ ơn, nhỏ bé mình. Trong Bài Thơ Này Cũng vậy, Trước Không Gian Sông Nước Mênh Mông, Kì Vĩ đã Gợi ra những nỗi Buồn, Làm ậm ặc hơn những suy tư củ ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờC ờ Không Gian rộng lớn của dòng sông trước hết thể hi qa hai âm “tràng giang”, âm “tràng” vốn là cach ọc chệch âm của trường, nghĩa là i.ông nhưng nếU nếU sông thì cách dùng “tràng giang” lại gợi ra cho with sông ấy cả độ rộng lớn và mênh.

        mông.

        như vậy, ngay từ ầu nhà thơ huy cận đã rất chú ý ến cach lựa chọn, cach dùng từ, đó chính là sự tinh tế, sáng tạo của mộtt nhà theơ năNg. “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”, câu thơ đã gợi ra liên tưởng đến những hình ảnh con sóng nhỏ lăn tăn trên mặt sông đầy vắng lặng, sự vận động chậm rãi, nhẹ nhàng đó càng làm cho nhà thơ cảm nhận thấm thíaa ược sự u buồn, cô ơn “buồn điệp điệp”, đó chính là nỗi buồn như những con sóng nhỏ lăn tăn, tuy nhàng, êm êy ếnưnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộnộn. thi nhân. KHông Gian Sông NướC VốN TịCH MịCH, U BUồN, Nên Dù Có xuất hiện những hình ảnh của with người, gợi liên tưởng ến sựng thì cũng không l àh thơ vê v ơ buồn ấy trở nên da diết “with thuyền xuôi mái nước song song”.

        con thuyền thường gắn liền với sự sống của con người, nhưng hình ảnh con thuyền xuôi mái lại hoàn toàn không gợi ra đsyng. sự vận động từ tốn của con thuyền hoàn toàn là do sự trôi chảy của dòng nước, hoàn toàn không có sự tác động có ý thức nào “”. và hình ảnh con thuyền vẫn tiếp tục mạch nguồn cảm xúc của nhà thơ ở câu thơ sau đó:

        “thuyền về nước lại sầu trăm ngảcủi một cành khô lạc mấy dòng”

        không gian rộng lớn nhưng tịch mịch, with thuyền xuôi mái trong vắng lặng dường như đã trở thành đối tượng của sự suy tư. trôi chảy trên dòng sông nhưng with thuyền lại thể hiện một sự lạc lõng, nhỏ bé đến đau lòng. Sự vận ộng của nó honn toàn phar mặc vào sự chảy trôi của dòng sông, rõ ràng có sự liên hệ mật thiết ấy nhưng lại không gợi ược một chút gắn bó mật. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”, nhưng một khi vắng đi sự xuất hiện của with thuyền thì dòng sông ấy mới thực sự rơi vào nỗi buồn, tịch mịch tuyy tuyy ốu liên tưởng ến cuộc sống của with người, cũng là quan hệ của with người ối với cuộc ời rộng lớn. là sự nhỏ bé, lạc lõng của with người trước sự chảy trôi vôi vô tình củc củc ờ ”.

        hình ảnh cành củi khô hiện lên như chính cuộc đời đầy vô nghĩa của con người, trước sự mênh mông, rộng lớn chảy trôi không ngừng của dòng đời thì con người ấy trở nên cô đơn, lạc lõng đến đáng thương. cũng là sự nổi trôi đầy thăng trầm của cuộc sống. “lạc mấy dòng” gợi ra cuộc sống không có mục đích, hoàn toàn chịu sự chi phối, đưa đẩy của dòng đời. Đó cũng chính là tâm trạng của nhà thơ khi thời đại nhà thơ sống vốn có nhiều biến động, mang đến cho con người nỗi buồn th. vẫn dùng thiên nhiên làm cách thức thể hiện nỗi niềm, tâm trạng, ở khổ thơ hai huy cận vẫn tiếp tục thể hi chiều sâu xu dú của ẫn dùng

        “lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiuĐâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

        không gian vắng lặng của sông nước tiếp tục ược nhà thơ huy cận ặc tả thông qua hình ảnh lơ thơ của cồn cỏ “cỏ g thƓu”. hình ảnh “cồn cỏ” gợi cho người ọc liên tưởng ến những kho ỏi, sự xa cach của các cồn cỏ, “đìu hiu” lại gợi ra cai quạnh quẽ, cô tịch không gian. trong không gian hoang vắng, mênh mông hoàn toàn không có sự xuất hiện của bất kì sống, không có dấu hiệu nào của con người. nhà thơ huy cận cảm nhận được sự tịch mịch đó nên đã thể hiện sự cảm thán trước sự hoang vắng ấy “Đâu tiế>ng v l chi

        câu thơ thể hiện được một sự trống vắng, hụt hẫng trong cảm xúc của nhà thơ. bởi tiếng “đâu” của nhà thơ vang lên ầy mất mát, đau lòng, cái kho ảng không gian rộng lớn nhưng vắng ấy khiến cho nhà th tháng m. nên nhà thơ muốn kiếm tìm những dấu hiệu của sự sống, muốn “bấu víu” vào đó để tìm chút ấm áp, chút sự sống. NHưNG NGAY Cả MONG MUốN NHỏ NHOI đÓ CũNG TRở NêN VôNG BởI “đU TIếNG Làng xa vãn chợ chiều”, nghĩa là không cor bất cứ dấu hiệu nào củi with ng, củ s thantng gadm gadm, cad. tâm tưởng của nhà thơ:

        “nắng xuống chiều lên sâu chót vótsông dài, trời rộng bến cô liêu”

        khi đã vông trong tìm kiếm hơi ấm từc sống thì nhà thơ huy cận lại tụp tục thể hi hiện nỗi lòng qua việc mii tả khung cảa của bầu trời, của dò. Đó chynh là cai sâu thăm thẳm của bầu trời khi nắng xuống, dấu hiệu của một ngày hoàn toàn lùi xuống, dần nhường chỗ chỗ chỗ chỗ chỗ chỗ chỗ ang to “chót vót” còn gợi ra cái suy tư bề bộn, ngổn ngang trong tâm hủơn hàn. dưới không gian sâu thăm thẳm, rộng mênh mông của bầu trời thì dòng sông như dài ra, kéo theo cai rộng lớn của bầu trời làm ch cho vật chìm ”.

        “Tràng Giang” Là Bài Thể Thể Hiện ượC NHIềU SUY Tư, CảM xúc của nhà thơ huy cận, mà trên tất cả đó chynh là sự suy tư của về with người v à về cuộc ờời. TRướC KHông Gian Mênh Mông, Kì vĩ của tự nhiên, nhà thơ cảm nhận trọn vẹn sự cô ơn của with người, mà cai cô ơn, nhỏ bé này không chỉi tồi tại ở ca nH cai nh mà nó còn là nỗi buồn, sự lạc lõng cô đơn của cả một thế hệ người trong thời đại mà nhà thơ sinh sống. Ặc biệt, qua hai khổ thơ ầu, nhà thơ huy cận cũng đã thể hiện ược cảm xúc chủ ạo của bài thơ, nỗi buồn ược gợi cach cach ầy khéo, thuh ồ, thm ượ, thm ượ, thm ượ ượ, THM ồ ượ ượ, THM ồ, THM ồ ượ, THM ồ ượ, THM ồ ượ ượ, THM ồ, THM ồ, THM ồ, THM ồ, THM ồ, THM ồ, THM ồ, THM ồ, THM ồ, thm ồ, thm ồ, thm ồ, thm ồ, thm ồ, thm ồ, thm ồ ượ ượ ượ, thm. người nghe.

        bai văn mẫu 3

        nhận xét về thơ mới, trong tuyển tập thi nhân việt nam, hoài thanh viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. nhưng càng đi sâu càng lạnh. ta thoát lên tiên cùng thế lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng lưu trọng lư, ta điên cuồng với hàn mặc tử, chế lan viên xu. nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng huy cận. cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta”. nỗi buồn đó thể hiện sầu muộn với những nỗi sầu nhân thế, tâm sự thầm kín, tình yêu quê hương, ất nước của huy cận thể hi hi hi rõ qua

        bèo dạt về đâu, hàng nối hàngmênh mông không một chuyến đò ngang.không cầu gợi chút niềm thân mật,lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

        lớp lớp mây cao đùn núi bạc,chim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều sa.lòng quê dợn dợn vời con nước,không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

        khổ thơ thứ ba hiện lên trước mắt người ọc một khung cảnh hắt hiu, dường như thiên nhiên nơi đy không giống với sự trông ngng của mọi ng ng ng

        bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;mênh mông không một chuyến đò ngang.không cầu gợi chút niềm thân mật,lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi v

        từng cụm bèo lững lờ trôi vô định trên sông không biết đời mình rồi sẽ đi đâu về đâu, bỗng tới đây ta lạu ca>

        thân em như thể bèo trôisóng dập, gió dồi biết tựa vào đâu?thân em như thể trái chanhlắt lẻo trên cành nhiều kẻ ước ao.

        there are hình ảnh canh bèo lẻ loi, ơn ộc, lênh đênh trên mặt nước gợi ến thn phận “canh bèo mặt nước” (nguyễn du) khiến ta liên tưởng ế ế ến sựn /p>

        “phận bèo bao quản nước salênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh”

        (nguyễn du)

        như vậy, ta có thể thấy được bối cảnh không gian mênh mông sông nước giữa trời bể bao la vào độ chiều tà. ngắm nhìn những đám bèo trôi lênh đênh vô định, không có phương hướng khiến cho cả thi nhân lẫn người đọc cảm thấy nôn nao, man mác buồn – một nỗi buồn không biết tỏ bày cùng ai, chỉ khi sống trong thơ, chìm đắm strong thế giới ngôn từ mới có thể thốt lên được.

        Điệp từ “không” nhấn mạnh cho sự vắng vẻ ở nơi đây. Trong câu thơ từ lay “mênh mông” gợi lên sựu muộn bao la rộng lớn trước cảnh sông khi chiều tà nhưng không có một with đò nhỏ ể qua sông, không hề xu heno bóng dáng nghiêng nghiêng cầu tre “cầu bao nhiêu nhịp thương mình bấy nhiêu”, tất cả ều “lặng lẽ”, chỉ có thiên nhiên “ti thi-ive” -ti thi-xanh

        hai câu cuối của khổ thơ là bức tranh thiên nhiên càng sầu bi hơn được vẽ lên dường như đối lập giữa hai bên bờ sông. nó giống như là hai thế giới không có bất kỳ liên hệ nào với nhau. dẫu ở gần mà cũng thành xa xôi không thể với tới giống câu nói: “gần ngay trước mắt xa tận chân trời”. hai bên bờ chạy song song với nhau, cùng“lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”, không một hề có chút thân mật hay giao hòa nào cả. khung cảnh thiên nhiên lúc bấy giờ giống như chính tâm trạng của thi nhân vậy.

        với nghệ thuật ối lập giữa không gian rộng lớn và with người bé nhỏ, không gian càng mênh mông bao nhiêu thì with người càng cảm thấy cô ơn bé nhỏ, lữc. nỗi cô đơn cứ thế xếp chồng lên cao, làm cho con người ta càng cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên, càng khao khát hơn sự ĺồng. từ đy ta có thể cảm nhận ược cảm giác bất lực của con người không thể tìm ược một người bạn tâm giao, mờhû tri âm tri như vậy, “huy cận lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành bao châu ngọc. ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ những dấu tích không bao giờ tan được…”.

        quay trở lại với câu thơ cuối cùng của khổ thơ: “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. một gam màu lạnh ược vẽ nên cùng sự yên lặng khiến cho cảnh càng thêm hiu quạnh, u hoài nay càng thêm ảm ạm hơn … suy cho c cho c. giữa sự mênh mông của trời đất, của sự ra rời cuộc đời?

        là một nhà thơ mới huy cận dường như phong cách sáng tác của ông nghiêng khá nhiều về dòng thơ lãng mạn pháp. Điều này thể hiện khá rõ nét qua khổ thơ cuối của bài thơ. nội dung của khổ thơ này là miêu tả về tâm trạng của nhân vật trữ tình vào khoảnh khắc hoàng hôn. nhắc đến hoàng hôn trong thơ cổ là nhắc đến sự gắn liền với tình quê, cố hương, là nỗi nhớ quê hương da diết. ví dụ như bà huyện thanh quan cũng đã sử dụng hình ảnh hoàng hôn để bày tỏ nỗi nhớ of her quê hương của mình qua bài thơ “qua đèo>: </ png

        “dừng chân đứng lại: trời non nướcmột mảnh tình riêng ta với ta”.

        (bà huyện thanh quan)

        hay ở một diễn biến khác, khi ứng ở trên lầu hoàng hạc nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên dòng só p>

        “what hương khuất bóng hoàng hôn,trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?”.

        (lầu hoàng hạc – thôi hiệu)

        huy cận đã lựa chọn thi liệu đầy chất thơ để vẽ lên một tình quê vơi đầy đó là cánh chim chiều hay là lớp lớc m. DẫU KHông Có Khói Sóg Phủ Mờ Giống như Thôi hiệu, không fi ếng chim kêu quốc quốc, “Thương nhà mỏi miệng cai gia” (qua đo ngang) mà vẫng nh ớ ơ ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố /p>

        câu thơ đầy hình tượng và giàu cảm xúc khiến cho ta cảm thấy dường như một bức tranh đang được vẽ nên trước mắt ta. hồn thơ mang tính chất của thơ Đường như thấm vào từng câu từng chữ. ai đã từng xa quê, trong khoảnh khắc chiều tà, lúc hoàng hôn buông xuống mới thấy hất cái đẹp nhưng buồn nằm trong những bài thơ òê qui vn. Đến đây, ngược dòng lịch sử quay trở lại với truyện kiều, nguyễn du đưa ta phiêu vào cảm xúc của thúy kiều khi:

        “nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng”

        there are:

        “kẻ chốn chương Đài, người lữ thứlấy ai mà kể nỗi hàn ôn”

        (chiều hôm nhớ nhà – bà huyện thanh quan).

        như vậy, hoàng hôn trong bất cứ bài thơ nào cũng đều man mác đượm buồn và gắn liền với nỗi nhớ quê nhà da diết. Ến đy, huy cận cũng là “một người của ời, một người ở giữa loài người”, một thi sĩ trong phong trào thơ mới như ưa bâng trầm ngâm nhìn theo “vời with nước” để rồi hiện lên nỗi “nhớ nhà”, nhớ quê hương.

        tình yêu quê hương trong người thi nhân cháy bỏng và vô cùng da diết. huy cận giống như b. shelly từng nói: “thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình”. Thơ huy cận buồn, nhưng nó như nâng dậy tâm hồn người ọc, nó khơi dậy những gì ẹp ẽ ẽ ẽ nhất, những gìi tiềm nơi đáy sâu tâm hồn with ng ng ười ểi ểi ểi ểi ể Đọc “tràng giang” ta cảm nhận sâu hơn về chân lý ấy.

        khổ thơ cuối là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca Truyền thống và thơ ca hiện ại: là sự kết hợp những nét cổ đnển trong thớng với t�i cmen cúm. với việc sử dụng nhuần nhuyễn những từ láy và những câu đảo ngữ, huy cận đã thành công trong việc miêu tả cảm xúc vũ tr. Điều này thể hiện qua vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, sự thơ mộng nhưng không quên thấm đượm nỗi buồn tâm trại ng. Đó chính là “nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước” (huy cận). nỗi buồn đó ược khơi nguồn từ with tim ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim, lặng lẽ mà sâu nặng, yên tĩnh mà ménh liệt vô c ”

        “một chiếc linh hồn nhỏmang mang thiên cổ sầu”

        (Ê chề – huy cận)

        câu đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. cảm hứng của lời ề từ này dường như dàn trrong ba khổ thơ ầu, ể ể rồi cuối cùng lại hội tụ và kết tinh vào trong khổ thơ cuối – khổ thơ có ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ yêu quê hương của người thi sĩ. thể thơ thất ngôn trong tràng giang mang vẻ đẹp của sự cổ kính và trang trọng. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng, lúc cao lúc thấp như muôn ngàn sóng điệp điệp gợn buồn trong lòng bạn đọc bấy lâu nay. cảnh sắc và vẻ đẹp của hoàng hôn đưa ta phiêu vào nỗi nhớ quê hương da diết, mang theo những cung bậc cảm xúc của tâm hồn ta…

        “tràng giang” được xem là một trong những bài thơ hay nhất của nhà thơ huy cận trong tập “lửa thiêng”. Đọc tràng giang, ta càng hiểu hơn cái tôi “ngẩn ngơ buồn” của tác giả. Thông qua đó ta cũng hiểu ược thơ là cây đàn ồng điệu của tâm hồn, là nhịp thở with tim, là diễn tảt thành công mọi cung bậc cảm xuc của with người, cảg. NGHệ Thuật ngôn từ trong thơ huy cận ược nâng lên một tầng cao mới như xuân diệu nhận xét: “dường như ở đây nhà thơ đã toát ra một mảng hương sắc s

        bai làm mẫu 4

        thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, của nhịp thở with tim. thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của with người, niềm vui, nỗi buồn, sự cô ơn tuyệt vọng… Co những tâm trạng của with người chỉc có thể tảng tả. Vậy thơ không chỉ nói hộ Lòng mình, mà thơ còn thể hiện ược nỗi buồn thiên cổ của cả một thế hệ mang Trong mình cai tôi côi ơn, bếc tắc trước cảnh nướ “tràng giang” là một bài thơ như thế. Đặc biệt điều đó được thể hiện rõ nhất qua hai khổ thơ cuối của tác phẩm.

        “bèo dạt về đâu hàng nối hàngmênh mông không một chuyến đò ngangkhông cậu gợi chút niềm thân mậtlặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vànglớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều salòng quê rờn rợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

        quả không sai khi nói rằng, với người làm thơ bài thơ là một phương diện biểu ạt tình cảm, tư tưởng chỉm xúc chân thành ménh ling vha v ớ sở sở sở sở s , cảm xúc càng mãnh liệt thăng hoa thì thơ càng nhiều khả năng chinh phục ám ảnh trái tim người đọc. mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật. huy cận đã không ngừng tìm tòi sáng tạo ể tìm ra lối đi cho riêng mình và ông đã khẳng ịnh ược vị trí của mình trong ệi ện th vi Biêu biểu cho phong cach của huy cận có thể kể ến “tràng giang” Theo lời kể của huy cận bài thơ ượ ược gợi cảm xúc từ một buổi chiều mùa thu thu thu nĂm 1939 khi t tc g mênh mông song nước, nhiều cảm xúc thời ại dội về khi thi sĩ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé so với vũ trụ bao, n-n-py.

        “Tràng giang” là một từ Hán việt gợi tả cr vô cùng mà con rộng mênh mông và cảm thấy con sông ấy không chỉ là dòng sông hồng ỏ nặng sa, mà đón >

        câu thơ ề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, đã thâu tóm và gợi mở cảm xúc chủ ạo của bài thơcc cẝd sông, rảnh sông “bâng khuâng” đã diễn tả ược tâm trạng của chủ thể tình buồn bã, u sầu, cô ơ ơn, l.

        h.

        nếu ở hai câu thơ ầu nhà thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên cùng nỗi sầu trìm ngả, gợi tả sự giận dữ vông, vô tận của ất trời cùng c ci nt ỏ, vôn, vôn củ thơ thứ ba, tứ thơ trời rộng, sông dài đã được đẩy lên một bậc cao hơn.

        “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”.

        người chuân chuyên, sông cứ chảy bèo cứ trôi và đôi bờ cứ hút như không bao giờ có sự gặp gỡ và người càng khát khao càng thấm.

        “mênh mông không một chuyến đò ngangkhông cầu gợi chút niềm thân mậtlặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

        cảm giác cô đơn khiến nhà thơ muốn tìm sự kết nối gắn bó. nhưng càng tìm càng chẳng thấy, hai câu thơ với hai lần phủ định “không đò”, “không cầu” dường như càng tô đậm hơn cái mênh mông của sông nước và nhấn mạnh thực trạng không có sự giao lưu gặp gỡ giữa người với người. HAI Bên Bờ Sông lạnh, từ hoang dại như một bờ tiền sử hồn nhiên, như một nỗi niềm cổ tích tuyệt nhiên không hề có dấu hiệu của sựng mà hiện diện ở đ đ đ Cái tôi cô ơn của tac giả đang ối diện với cai vô cùng, vô tận, vô chung, vô thủy của không gian, thời gian nhìn đu cũng thấ thấ thng by ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố ố. diện với lòng, bày tỏ những niềm tâm sự sâu kín về tình yêu với quê hương đất nước.

        “lớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều salòng quê rờn rợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

        cảnh sắc thiên nhiên ở khổ thơ này ẹp ẽ và kỳ vĩ ến lạng, ở pHía chân trời xa những đam mây trắng cứ đùn lên lớp lớp ượ cảnh tượng hùng vĩ ấy gợi ta liên tưởng tới bài “thu hứng” của Đỗ phủ.

        “lưng trời sóng gợn lòng sông thẳmmặt đất mây đùn cửa ải xa”.

        trên cảnh trời mây sông nước bao la bỗng nhiên xuất hiện một cánh chim bé bỏng lạc đàn. cánh chim càng nhỏ bé cô đơn bóng chiều càng xa xuống, rớt xuống cảnh chiều càng buồn hơn. phải chăng cánh chim bé nhỏ ấy chính là hình ảnh của nhà thơ khi “bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước”, trước cảnh nước mất. ella chỉ biết rằng trong khổ thơ thi sĩ như kẻ lữ thứ lạc vào một hoang đảo trơ trọi, cô đơn đến tuyệt đối. hai chữ “rờn rợn” là từ lay thể hi sự sáng tạo của tác giả diễn tả tâm trạng nôn nao, day dứt của lòng người đang gợi lên nhưng cột song trong tâm hồn, đ what hương. Đến đây nỗi nhớ ấy đã được nhà thơ giãi bày.

        “lòng quê rờn rợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

        “nhật mộ hương quan hà xứ nhịyên ba giang thượng sử nhân sầu.

        (quê hương khuất bóng hoàng hôntrên sông khói sóng cho vừa lòng ai).

        người xưa nhìn thấy khói sóng trên sông mà nhớ tới quê hương, lấy khói sóng làm duyên cơ cho nỗi nhớ nhà. Còn huy cận nỗi nhớ nhà luôn thường trực trong tâm, nên ông không cần pHải lấy bất cứ khói nào ểể làm duyên cơ, ông nhớ nhà như ể ể ô ôn ôn ôn ôn ôn ôn.

        với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa pHong cach cổ điển và hiện ại, kết hợp với thể 7 chữ, cach ngắt nhịp gieo vần đng ối tả cảnh ng cùng với những tâm trạng, nỗi lòng rất khó để thổ lộ của nhà thơ.

        bai văn mẫu 5

        huy cận tưởng như là người lữ khách với niềm đam mê bất tận về một vẻ ẹp buồn âu sầu ảo n, vậy nên thi nhân đã khhng ng ng bỏn vào kng. của tạo vật để làm nên những bức tranh không gian mang nỗi hoài cổ của chính mình. hai khổ thơ cuối tràng giang là những vần điệu mang đậm nét âm hưởng ấy.

        “bèo dạt về đâu hàng nối hàngmênh mông không một chuyến đò ngangkhông cầu gợi chút niềm thân mậtlặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”.

        hình ảnh cánh bèo từ bao lâu nay gửi mình vào trong thơ luôn là hình ảnh gợi về sự mỏng manh, vô định và rẻ rúm của kiếi ng. trên điệu chảy nhịp trôi chầm chậm của câu thơ này, một lần nữa xúc cảm ấy lại được gợi về. những hàng bèo nối đuôi nhau, cứ chảy trôi bất tận, dòng sông hay cũng chynh là dòng ời vô ịnh chảy trôi khiến cho kiếp ngượi bÉ. câu thơ mang âm hưởng buồn man mác, một nỗi buồn đậm chất huy cận. nhất là hình giữa dòng mênh mông vô bờ ấy, một chuyến đò ngang gợi niềm thân mật, gợi sự kết nối cũng không xuất hi hện dá the thig còn lạ è è è è è è Chynh vì thế không gian sông nước vốn dĩ mênh mông, vốn dĩ đã làm nhn nhng biển bồn bất tận bỏ vào lòng người, nhưng nay khhng chỉ land sức gỏ tận vô vô vô vô vô vô vô vô vô vô vô vô vô vô vô vô vô vô v ề ứứ. nối kết. biểu tượng cây cầu bao giờ cũng là điểm tựa ể cho người ọc cảm nhận mãnh liệt nhất về sự gắn kết, cỺủa sn v.ti thế nhưng ở đây, nó không xuất hiện pHải chăng là một chỉu dấu ngầm cho sự ứt gãy kết nối, ứt gãy những mắt xích gắn kết, haải ến bất tận tận Trong tân Trong Tâm Hồn with người. còn đò ngang là nơi bấu víu, là nơi con người tìm ến ể có thể vượt qua cách trở về không gian mà ến gần với nhau hơn. Trải cho nhân vật trữ tình chỉ là những bãi trống hoang hoải côu của bờ xanh bãi vàng, ta bỗng nhớ ến hình ảnh những bãi xanh hun hún tậng khôôôômor điểm. các tính từ, các từ láy “lặng lẽ” một lần nữa nhấn thêm vào sự trống vắng, mênh mông và cô đơn vời vợi của tâm hờan,> của tâm hờan,

        “lớp lớp mây cao đùn núi bạcchim nghiêng cánh nhỏ: bong chiều salòng quê dợn dợn vời con nướckhông khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

        khổ thơ cuối có thể coi là tuyệt bút tuyệt hoa mà huy cận đặc dùng. Mây cao no bạc, khung cảnh mới thật hùng vĩ, táng lệ làm sao, đó là những chất liệu mang màu cổ điển ược họa sĩ huy cận vờn vờni khiến chỉt một và rợn ngợp từ quá khứ đuổi về hiện tại, từ điển gọi về hiện ạại. Cánh Chim Gọi Buổi Chiều, tín hiệu ấy dường như không còn xa lạ nữa, thế nhưng vào trong thơ huy cận nó vẫn chở những xúc cảm của riêng nhà thơ vào đ đ đ đ đ đ đ đ đ tưởng như cánh chim nhỏ bé và ơn côi ấy, ella đã chờ cả buổi hoàng hôn trên đôi cánh của mình, tưởng như đã cái khhng c cùng và ỡi v. ỡi v. dấu hai chấm tưởng như một sự ngĂn canh, ể ể làm điểm nhấn cho ộ nghiêng rất nghệ mà cũng rất tinh của canh chim nhỏ, there are có th ụng ý ỡ ỡ đ đ đ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ ỡ đ đ đ đ. vào đó.

        hai câu thơ cuối, đứng trước thiên nhiên rộng lớn mênh mông, thi nhân bỗng trào dâng một nỗi nhớ nhà khôn nguôi, nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ luôn trở đi trở lại như một lời khấn khứa, như một khắc khoải khôn nguôi xuất phát từ tấm lòng của một cái tôi đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu vắng quê hương. Hoàng Hôn Thường là mốc thời gian gợi nhớ gợi buồn, nhưng ở đy không gian ấy chỉn ơn thuần là ngoại giới, còn Trong nội tâm nhà thơ, thì th est toàn bộ tồn đng đng đng đ lấy cái không để gợi về cái có, để gợi về nỗi lòng, để khơi gợi sự đồng điệu đó chính là cái tài trong bút cụn huy

        hai khổ thơ cuối tràng giang, dường như là những mạch chảy mạnh mẽ nhất của tâm trạng thi nhân, tưởng như nếu lắng mình nghiêng lòng xuống trang sách có thể cảm được điệu tâm hồn buồn và cô đơn của cái tôi thơ mới chở mang trong đó.

        xem thêm: cảm nhận về bài thơ tràng giang của huy cận

    Trả lời

    Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *