9 mẫu phân tích 2 khổ đầu bài Tràng giang hay chọn lọc

Dưới đây là danh sách Phân tích 2 đoạn thơ đầu bài tràng giang hot nhất hiện nay được bình chọn bởi người dùng

phân tích 2 khổ ầu bài tràng giang của nhà thơ huy cận ể thấy ược những cảm xúc suy tư của tac giả, thấy cai tôi qua nhỏ bé so với vũi vũi vũi vũi vũ sau đây là dàn ý phân tích 2 khổ ầu bài tràng giang cùng với các bài văn mẫu phân tích 2 khổ thơ ầu bài tràng giang và chi tiết, ẽ ạn các sin cá h b/><c

  • the 7 best bài phân tích tràng giang hay nhất
  • top 5 bài phân tích đoạn 2 bình ngô đại cáo hay chọn lọc
  • nhằm giúp các bạn học sinh hiểu rõ hơn về ý nghĩa 2 khổ thơ ầu bài tràng giang, hatieu xin chia sẻ các bài văn mờu pHân tíchn tích 2 khổ ầu bài tràng nâ, p>

    1. dàn ý phân tích 2 khổ đầu bài tràng giang ngắn gọn

    me. mở bài: giới thiệu 2 khổ thơ đầu của bài thơ tràng giang

    ii. thân bài: phân tích 2 khổ thơ cuối của bài thơ tràng giang

    1. khổ 1: bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận

    những vòng nước xô đuổi nhau đến tận chân trời

    qua khổ thơ còn thể hiện nỗi buồn miên man của tác giả

    sự trôi nổi, phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tình

    tâm trạng chia ly, tán tác

    2. khổ 2: không gian và thời gian qua bài thơ

    không gian hoang vắng, đìu hiu

    không gian vắng lặng, tĩnh mịch

    không gian được đẩy vô tận

    cảnh vật khiến with người trở nên nhỏ bé

    iii. kết bài: nêu cảm nhận của em về 2 khổ đầu bài thơ tràng giang

    2. dàn ý chi tiết khổ 1 2 bài tràng giang

    a) mở bài:

    – giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm

    + huy cận là một trong những nhà thơ mới nổi tiếng với những tác phẩm mang phong cách rất riêng.

    + Bài Thơ Tràng Giang (1939) Bộc lội sầu của một cai tôi côi ơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm ượm tình người, tình ời, lòng n.

    – giới thiệu 2 khổ thơ ầu: hai khổ thơ ầu bài đã gợi ra cả không gian rợn ngợp, nhưng tâm trạng của with người lại mang cảm gic sầu buồn, cô ơn, n. /p>

    video:

    một trong những nhà thơ mới nổi tiếng là nhà thơ huy cận, mỗi bài thơ mang một phong cách rất riêng. thơ của huy cận mang phong cách thơ hàm súc, triết lí và phục vụ cho cách mạng của nước ta. một trong những tác phẩm thơ nổi tiếng là tràng giang, bài thơ nằm trong tập thơ lửa thiêng. bài thơ thể hiện cảnh Jue 1939, được sáng tác khi tác giả nhìn bên bờ sông hồng dưới dòng nước mênh mông sóng nước. Đặc sắc nhất là hai khổ thơ đầu của bài thơ tràng giang. chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ thơ cuối của bài thơ để hiểu rõ hơn về phong cách thơ của huy cận.

    b) thân bài: phân tích 2 khổ thơ cuối của bài thơ tràng giang

    *khổ 1: bức tranh thiên nhiên mênh mang, bất tận

    những vòng nước xô đuổi nhau đến tận chân trời

    qua khổ thơ còn thể hiện nổi buồn miên man của tác giả

    sự trôi nổi, phó mặc của tác giả trên dòng sông hữu tình

    tâm trạng chia li, tán tác

    *khổ 2: không gian và thời gian qua bài thơ

    không gian hoang vắng, đìu hiu

    không gian vắng lặng, tĩnh mịch

    không gian được đẩy vô tận

    cảnh vật khiến with người trở nên nhỏ bé

    c) kết bài:

    – nêu cảm nhận của em về 2 khổ đầu bài thơ tràng giang.

    video:

    hai khổ thơ đầu của bài thơ tràng giang thể hiện bức tranh thiên nhiên bất tận và không gian của cảnh núi non. bên cạnh đó tác giả còn thể hiện niềm yêu quê hương, đất nước của tác giả.

    qua bài thơ ta có hiểu được phong cách thơ nổi bật của tác giả huy cận.

    3. phân tích 2 khổ đầu bài tràng giang ngắn nhất

    là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, huy cận để lại cho kho tàng văn học việt nam rất nhiều tác phẩm đặc. Bài Thơ “Tràng giang” ược ông viết trong thời kỳcc cach mạng với một nỗi u buồn, sự bếc tắc của một kiếp người, trôi nổi lênh đnh khhông bến ỗỗỗ. nỗi buồn ấy được thể hiện rõ nét ngay trong 2 khổ thơ đầu.

    mở ầu bài thơ, huy cận cho người ọc thấy ược những hình ảnh rất ỗi quen thuộc: sóng, con thuyền, dòng sông ể gợi c:n</xnÚc

    “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpcon thuyền xuôi mái nước song song”

    tác giả khéo léo sử dụng âm hán việt “ang” cho danh từ “tràng giang” gợi một không gian rộng lớn, rờn ngợp. Đây cũng là một trong những phong cách làm thơ rất nổi bật của huy cận. lúc này, tâm trạng của nhà thơ trở nên “buồn điệp điệp” – nỗi buồn ược cụ thể Hóa, ược ví như từng ợt how much -dâng trào gối vào nhau, lín tiếp v v v v v v v. nỗi u buồn ấy dường như tồn tại vĩnh cửu, cứ âm ỉ và dai dẳng mãi trong lòng tác giả. từ láy “song song” như muốn nói đến hai thế giới, dù luôn gần gũi ở bên nhau nhưng chẳng bao giờ được gặp nhau.

    thông qua 2 câu thơ, tac giả đã chung ta thấy ược sự cô ộc, ơn lẻ của with thuyền trên dòng sông, ẩn dụ cho hình ảnh cô ộc của with ngường t trn dòng. huy cận đã thành công sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập để tạo nên nét cổ kính cho câu thơ. con thuyền và dòng nước luôn gắn bó mật thiết với nhau, nhưng qua cách thể hiện của nhà thơ chúng lại có hành ộng trái chiều, ợmác ạic

    “thuyền về nước lại sầu trăm ngảcủi một cành khô lạc mấy dòng”

    có lẽ huy cận là người đầu tiên sử dụng hình ảnh cành củi khô trong lời thơ của mình, một hình ảnh độc đáo và tá. tác giả muốn cho mọi người thấy những nét phá cách trong phong trào thơ mới, khi mà trước đây những vật tầm thường rất ít đ.ư hình ảnh củi khô đời thường với một vẻ đẹp giản dị lại có một giá trị biểu đạt ghê gớm. huy cận khéo léo sử dụng biện phapp nghệ thuật ảo ngữ và chọn lọc những từ ơn ể miêu tả sự cô ơn của cảnh củi khô lênh đênh trong sự vô tận củ

    trong khổ thơ thứ 2, tác giả miêu tả cảnh vật cô quạnh, vắng vẻ với không gian mở rộng:

    “lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

    Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

    nắng xuống trời lên sâu chót vót

    sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

    các từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi nên sự nhỏ bé, ít ỏi giữa một không gian mênh mông vô tận – đây chính là sự cảm ẻng gi ngoài thị giác thì tác giả còn có những cảm nhận bằng thính giác với những âm thanh của cuộc sống với tiếng làng xa vãn chợ chiều. màu nắng chiều c cùng với cảnh vật sông dài, trời rộng, bến thuyền cô liêu càng khắc họa nỗi cô ơn, nỗi buồn cồcội cuỰ người đọc có thể dễ dàng cảm nhận thấy sợ vô vọng của tác giả khi he không thể tìm thấy sợi dây liên hệ nào với cup>

    hai khổ thơ đầu bài “tràng giang” của tác giả huy cận mang đến một không gian rợn ngợp với nỗi buồn và sự cô đơn trải vô t. một sự lẻ loi, đơn côi của con người trước dòng đời, không tìm thấy sự kết nối với thế giới ngoài kia. cũng có lẽ vì vậy mà tác phẩm luôn được nhiều độc giả yêu thích, không bị bụi của thời gian phủ mờ.

    4. phân tích 2 khổ thơ đầu bài tràng giang – mẫu 1

    “trên cánh đồng văn chương màu mỡ người nghệ sĩ như những hạt cát bụi bay lượn trong không khí để tìm cho mình nhữn dưng”. với huy cận ông tìm về nơi lặng tờ của quê hương, xứ sở đó là dòng sông hồng ỏ nặng phù sa, nguồn cảm hứng củng ược khhi n -từ đ đ đ đ ượng ởng ởng ởng ượng ượng ượng ượng ượng ượng ượng ượng ượng ượng ượng ượng ượng ượng ượng ượng. đoạn thơ đầu của bài thơ.

    “thơ là tiếng nói của tình cảm và cảm xúc. nếu không có cảm xúc thì người nghệ sĩ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay ngôn từ cũng chỉ là xac chữ nằm thằm trang thđ”. TRướC HếT THI Sĩ PHảI Là NGườI COR TâM HồN, GIÀU RUNG CảM, CảM thông sâu sắc trọn vẹn với khoảnh khắc của cup ời thì cảm xúc ménh liệt mới dào ược. chính những cảm xúc đó đã thôi thúc tác giả sáng tác về quê hương với hình ảnh thiên nhiên quen thuộc. huy cận với những rung cảm, ông đã chuyển hóa thành cảm xúc mà viết thành thơ. và tràng giang là một trong những tác phẩm sắc của ông, bài thơ được gợi cảm xúc và một buổi chiều năm 1939 tác giả đứng ở bên bờ nam bến tràng, trước cảnh sông hồng mênh mang sông nước, những cảm xúc thời đại đã dồn về, thi sĩ thấy cái tôi của mình quá nhỏ bé với vũ trụ bao la. nên ông đã viết bài thơ này, và hai khổ thơ ầu của bài thơ là cảnh sông hồng mênh mang là những nỗi buồn vạn cổa thi sĩ trư

    “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

    with thuyền xuôi mái nước song song

    thuyền về nước lại sầu trăm ngả

    củi một cành khô lạc mấy dòng

    lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

    đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

    nắng xuống trời lên sâu chót vót

    sông dài trời rộng bến cô liêu”

    mở ầu là cảnh sông hồng mênh mang song nước, ở khổ thơ ầu tc giả sửng một loạt các từ: “Thuyền, nước” là các từ mà nhà thơ xư xa ha dùn ể ể Đây như là một bức tranh thủy mặc, đầy đủ cảnh sông nước lãng mạn, tĩnh lặng êm đềm nhưng lại buồn đếtán. nói về nỗi buồn ấy, hoài thanh đã nhận xét: “thiên nhiên trong thơ mới đẹp nhưng lại thấm đượm nỗi buồn da diết bâng khuâng”. nỗi buồn đó lại ược huy cận lý giải rằng “chúng tôi lúc đó có một nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm ượi thlên trih”. Đó là nỗi buồn của những con người sống trong cảnh nước mất nhà tan, có lẽ thế nên trong dòng tràng giang chỉ có một giải buồn bát

    “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpcon thuyền xuôi mái nước song song”

    từ “điệp điệp” là gợi tả những con sóng gợn lên hết lớp này đến lớp khác, triền miên vô tận. buồn điệp điệp miêu tả cái buồn thiên nhiên nhưng thực chất nó đang diễn tả một nỗi buồn của thi nhân, đang gợn ttón. những with sóng vỗ vào bờ. thuyền và nước là hai cảnh vật luôn đi cùng nhau gắn bó với nhau không bao giờ xa cách, vậy mà trong mắt huy cận nó trở nên bơ vơ. từ đó mà nỗi sầu của nhà thơ lan tỏa ra vũ trụ “sầu trăm ngả” ở đy không gian vừa ược mở ra về chiều rộu Ừn thea child, vỪn the childð vì vậy hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến hai câu thơ trong bài “trăng cao” của Đỗ phủ

    “vô biên niên mộng tiêu tiêu hạbất tận trường giang cổ cổ lai”

    thuyền là hiện diện của sựng with người nhưng rồi sự xuất hiện ấy cũng chỉt lướt qua trong chốc whist tưởng ến sự lạc lõng kiếp sống nổi, n.

    “thuyền về nước lại sầu trăm ngảcủi một cành khô lạc mấy dòng”

    ở hai câu thơ này huy cận đã sử dụng phép đối hết sức táo bạo. chỉ đối ý, đối hình mà câu thơ vẫn cân xứng hài hòa con thuyền và cành củi khô đang cùng trôi nổi trên dòng trường giang. trong thơ của huy cận đã nói nhiều đến nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu. Ến Bài Thơ này ta lại bắt gặp một cai xấu nữa “sầu trăm ngả” không chỉ với ba từ ây thôi ta đã thấy sầu của thi sĩi trải dài khắp cảnh vật nơi đ NếU trong thơ xưa thi sĩ thường dùng các chất liệu tùng cúc trúc mai, làm chất liệu sáng tac thì ở đây huy cận lại ưa vào trong thơ một hình ảnh rất ỗt ỗt ỗt ỗt ỗt ỗ khô đó nguyễn Đăng mạnh đã viết “lần đầu tiên trong lịch sử thơ ca nhân loại có một cành củi khô trôi dạt giữa dòn trong cử”. như nỗi buồn của kiếp người trong xã hội cũ, khổ thơ này ược xem là khổ thơ ặc sắc nhất của bài thơ, vì đ đy mang âm đuện buồn táv, da diết… cảnh trờ , trống rỗng thể hiện nỗi buồn triền miên của huy cận và côp

    tiếp với nỗi sầu vạn cổ, buồn thiên thu ấy, nỗi buồn được nhân lên gấp bội. BứC Tranh Sông NướC ượC Vẽ Thêm ất, Thêm Làng nhưng vẫn buồn ến tê tái, nỗi buồn ấy ược gợi tả từ những cồn nhỏ, Thêm vào

    “lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiuđâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

    huy cận nói ông đã được đọc hai chữ đìu hiu ấy từ chinh phụ ngâm

    “non kì quạnh quẽ trăng treobên phi gió thổi đìu hiu mấy gò”

    cảnh sắc trong chinh phụ ngâm đã vắng lặng, hiu hắt nhưng cảnh trong tràng giang lại vắng vẻ hiu hắt hơn. từ lay lơ thơ diễn tả sự thưa thớt, rời rạc của những cồn nhỏ mọc lên giữa lòng trắng xanh thể hiện nỗi buồn man myc theo gó nhẹ thấm lên từng cảnh vật vật, đi cái lạnh lẽo, hiu quạnh ở đây nhưng

    “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

    tiếng chợ ở đâu không xác định được, từ xưa nguyễn trãi đã dùng vẻ âm thanh ấy trong bài cảnh ngày hè

    “lao xao chợ cá làng ngư phủdắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

    Âm thanh của tiếng chợ vãn đã mất dần và không xác định được. như vậy nhà thơ lấy ộng tả tĩnh ể miêu tả nỗi buồn sâu lắng của thi sĩ, hai câu thơ tiếp của khổ thơ bức tranh vô biên của tràng giang đ ạt ết ết ế

    “nắng xuống trời lên sâu chót vótsông dài trời rộng bến cô liêu”

    ến đây huy cận miêu tả không gian ba chiều giữa cảnh và người, thi sĩ như một vật nhỏ bé chơi vơi giữa bến đò với những vạt nắng trên bầu trờu trờu trờu trờu trờu trờu trời xanh được đẩy lên cao hơn, xa hơn. Ở đây tác giả không dùng chữ “cao chót vót” mà lại dùng “sâu” ể ễn tả ộ ộ ộ cao của trời xanh, từ đó cho chún cùng. Chynh sự lạc lõng ấy đã tạo nên cho hai khổ thơ này một nỗi buồn tê tái, mang ậm cảm xúc tình cảm của thi sĩ, và nỗi buồn ấy ẩn chứa nỗ >

    thành công của hai khổ thơ chính là sự sáng tạo nghệ thuật, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị, giàu hình ảnh. góp lại những trang thơ của huy cận ta không khỏi quên được nỗi buồn tê tái của thi sĩ trước cảnh vật, cảnh nƺớc m.ả bài thơ vừa mang đậm phong cách của huy cận, vừa là một dấu son chói lọi trong nền thơ ca việt nam và trong lòng bạn đọc.

    5. phân tích 2 khổ thơ đầu bài tràng giang – mẫu 2

    huy cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới (1930-1945) với những tác phẩm có sự kết hợp giữa yếu tố hiệi và. phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm: trước cách mạng tháng tám và sau cách mạng tháng tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thếcc cach mạng cho ến không khí hào hứng vui tươi sau cach mạng gắn với cônc ổc ổi mới. Bài Thơ “Tràng Giang” ượC Viết Trong Thời kì trước cach mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bếc tắc Trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. bài thơ để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.

    ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ đạo của bài thơ. hai chữ “tràng giang” có thể nói là một with sông dài, mênh mông và bát ngát. từ hán việt này khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường của trung quốc. nhưng chynh tràng giang này cũng gợi lên ược tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thn phận nổi, bén nhố ng sốl

    lời ề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát nên chủ ề ề của bài thơ chynh là nỗi niềm không bày tỏ cù n ai khi khi khi m. cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của huy cận.

    sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

    with thuyền xuôi mái nước song song

    thuyền về nước lại sầu trăm ngả

    củi một cành khô lạc mấy dòng

    với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mai”, “sầu trìm ngả”, lạc mấy dòng “kết hợp với từ lay” điệp điệp “,” song “d. nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế này.

    ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. tác giả đã mượn hình ảnh with thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, ơn lẻ trên dòng nơn ớnh mê, vớmê mê, sức gợi tả của câu thơ thực sự ầy am ảnh, một with sông dài, một with sông mang nét ẹp u buồn, trầm tĩnh càng khiến người ọc thấy buồn và thê lương.

    vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tac giả viết “Thuyền về nước lại sầu trìm ngả”, liệu rằng cócco chí ch -chng, there are, there are. nghe xót xa và nghe quạnh long hiu hắt quá. một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi ơi. Có thể nói câu thơ đã nói lên ược tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay giay gi –cuữc sộng ế and pat.

    Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bộ:

    lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

    Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

    nắng xuống trời lên sâu chót vót

    sông dài, trời rộng, bến cô liêu

    hai câu thơ đầu phảng phất một khung cảnh buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở come dòng sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn đp m.

    ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy, hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến hiuh qun. một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu. khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có một bóng người, không có một tiếng động thật chua xót.

    hai câu thơ cuối tác giả mượn hình ảnh trời và sông ể ặc tả sự mênh mông vô đinh.không phải trời “cao”, tinh tế cế và đáy hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tảt hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ c cùng ai ấy.

    ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng dường như thiên nhiên không ờg nghưg:mon

    bèo dạt về đâu hàng nối hàng

    mênh mông không một chuyến đò ngang

    không cầu gợi chút niềm thương nhớ

    lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

    Sang khổ thơ thứ 3 dường như người ọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận ộng của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng ến thê lương như ở ứ ứ ứ ứ ở ở ở ở ở ở ở ữ ữ ữ ữ ữ ữ ữ ữ ữ ữ từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. tuy nhiên từ ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tac giả thất vọng vì “bèo” vốn vô ịnh, trôi nổi khắp nơi, không co nơi bấu ví ví ví về đâu, cũng chẳng biết đạt được bao nhiêu lâu nữa. mặt nước mênh mông không có một chuyến đò. tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn tại nhưng dường như điều thp này

    Mong Ngóng Gửi niềm thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tac giả nhận lại là sự im lặng của vạn vật quanh đy qua từ lay “lặng lẽ” ến thê lươ. “

    lớp lớp mây cao đùn núi bạc

    chim nghiêng cánh nhỏ bong chiều sa

    lòng quê dợn dợn vời con nước

    không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

    có thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này. nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng thêm sầu, thêm buồn hơn. hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. bong chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiềangô dô x ng.

    phân tích hai khổ thơ ầu bài tràng giang ầy thi vị nhưng tới hai câu thơ cuối cùng chynh là nỗi nhớ nhà, nhớ hương củ tác ốt gĻt. câu thơ của huy cận khiến chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của thôi hiệu:

    trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

    là sóng của sông hay là sóng trong lòng người

    6. phân tích 2 khổ thơ đầu bài tràng giang – mẫu 3

    mỗi một nhà thơ trong phong trào thơ mới ều diện choc mình một bộ and phục tối tân khác nhau, một phong cach, một giọng riông không tìm thấy trong bất kag cổng củt củt ng. Và huy cận, bằng nỗi sầu nhân thế, sầu vũ trụ, ông đã đem lượm lặt chút buồn rải Rác ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể Ặc Biệt Với ​​2 Khổ ầu Bài Thơ, Bức Tranh Thiên nhiên hùng vĩ mà ượm buồn c cùng tâm Trạng bơ vơ, bế tắc đã gip pHần làm nên sắc thati rất riêng, rất.

    có thể nói, từng khổ thơ trong tràng giang ều ược coi như những bài thơ riêng, mỗi khổ ều mang những hương vịa cổ điển, vừa hiện ề ề ữ ữ khổ đầu:

    “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

    with thuyền xuôi mái nước song song

    thuyền về nước lại sầu trăm ngả

    củi một cành khô lạc mấy dòng.”

    hình ảnh “tràng giang” gợi lên một con sông dài, rộng hùng vĩ, với những ợt sónng tung bọt trắng xóa, biểu trưng cho vù hùng vĩ, thiên của . nhưng, những đợt sóng ấy lại cứ nối dài triền miên, gối đầu nhau trong những cơn buồn “điệp điệp”. with thuyền lại một lần nữa xuất hiện, đó là hình ảnh khá quen thuộc ta từng gặp trong nhiều tứ thơ khác:

    “cô chu nhất hệ cố viên tâm.”(with thuyền buộc chặt mối tình quê).

    (Thu hứng-Đỗ phủ).

    con thuyền trên sông đưa tiễn người bạn tri kỉ trong thơ của lí bạch ở bài “tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng”:

    “cô phàm viễn ảnh bích không tận

    duy kiến ​​​​trường giang thiên tế lưu.”

    hình ảnh con thuyền đã trở thành một thi liệu quen thuộc, cổ điển thường gợi sự cô đơn. with thuyền ấy trôi dạt mênh mông, vô định trên sông nước, gợi sự cô đơn và vô định của kiếp người. Thuyền và nước gắn liền nhau, ở đây nước sông và with Thuyền lại chia đôi ngả, Thuyền xuôi most song, từ đó Thy sự bơ vơ, lạc lõng của kiếp người trôi nổi nổi Để con thuyền và nước sông vốn gắn bó ấy mà lại chia xa, khiến cho “thuyền về nước lại sầu trăm ngả”để bỏ buồn cho ng. phải chăng chính nỗi buồn của hồn người đã bỏ buồn cho cảnh vật. câu thơ cuối khổ là một hình ảnh ngồn ngộn chất sống ược ưa vào thơ, ấy cũng chynh là tinh thần thơ mới, là sự sáng tạo của huy cận ể ấ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ ệ >

    “củi một cành khô lạc mấy dòng.”

    hình ảnh một cành củi khô đã được hoán đổi bằng tài năng và sự tinh tế trong chọn lựa và diễn đạt của huy cận. nếu thơ ca trung ại thường hay chọn những hình ảnh ước lệ sang trọng thì ến thơ huy cận, ông đã sẵn sàng ưa những chất sống ng ngộnn, sống syt tủt tơt tơt th ô ô ô ô ô. rất chân thực và gần gũi với cuộc sống hàng ngày và khiến những vật vô tri vô giác cũng trở nên có linh hồn. cành củi khô đã gợi đến sự sống héo úa, ủ nát và mất hết dần tính chất sống, hay chính là sự chết chóc vủa củi khôu còn nhưng còn buồn bã và đau đớn hơn là cành củi khô ấy còn “lạc mấy dòng”. hình ảnh một cành củi khô lạc mấy dòng ấy there qua đó, kín đáo bày tỏ một niềm đau nỗi xót của huy cận. sang đến khổ thơ thứ hai, khung cảnh lại được tô vẽ thêm những nét tiêu điều, thê lương:

    “lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu

    Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

    nắng xuống trời lên sâu chót vót

    sông dài trời rộng bến cô liêu.”

    hình ảnh cồn cỏ lơ thơ, đìu hiu xác xơ một lần nữa thêm vào những nét vẽ tiêu điều, xơ xác cho cảnh vật. có duy nhất một hình ảnh về sự sống được xuất hiện nhưng cũng lãn vãn, ít ỏi. Chợ là biểu trưng cho cuộc sống sôi ộng, nhộn nhịp và ời sống kinh tế của một vùng, ấy thế mà chợ ở đy cũng đn đnng không rõ, đNg đn đn. nhịp như trước nữa. tiếp tục những nét vẽ cho bức tranh phong cảnh, không gian hiện ra càng thêm hùng vĩ. nắng dồn xuống tận đáy sông và hình ảnh trời dồn lên về pHía cao, khiến cho mặt phẳng không gian như bịt tởt, bị nén chặt và cắt gacha, gây cảm giá. Sông dài ấy, nhưng bến cô liêu, lại một lần nữa sự cô ơn xuất hiện ầy những nỗi buồn càng thấm sau vào ba chiều của không gian, thấm tái vàoườm n.

    qua 2 khổ thơ đầu, với những hình ảnh cổ điển quen thuộc và chất hiện đại chính là ở tinh thần cái tôi thơ mới. cũng là nỗi buồn nhưng nó không còn gắn với quan niệm và chuẩn mực về ạo ức, trung hiếu tiết nghĩa như ca trung ại, mà đó là nỗi buồn củng ca cả, t õ t õ õ õ õ. tại. thiên nhiên vì thế dù mênh mông, hùng vĩ nhưng rất cô liêu và tiêu điều, hoang xơ. Bằng tình yêu thiên nhiên và trai tim của một cai tôi thơ mới, với những giọng riêng, huy cận đã làm nêng vần thơt tinh tế mà thấm ượm cảm cảm cảm cảm cảm cảm cảm cảm cảm cảm

    7. phân tích 2 khổ thơ đầu bài tràng giang – mẫu 4

    huy cận là 1 trong những tác giả tiêu biểu trong phong trào thơ mới. thơ huy cận vừa có chất cổ điển vừa giàu chất suy tưởng của triết lý. “Tràng giang” Thể Hiện nỗi sầu của cai tôi trước “thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh trong đó thấm ượm tấm lòng ối vs quê hương ất nước của thi sĩ.

    .

    “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

    with thuyền xuôi mái nước song song.

    thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

    củi một cành khô lạc mấy dòng”

    khổ thơ trên là khổ thứ nhất trong bài “tràng giang”. Thuật ốt ối Có nhiều ổi Mới, Khiến Cho một mặt nó vẫn phat huy ược thế mạnh của loại th ơ cổ, tạo ược vẻ ẹp cân xứng, không kh -trang tt ọng, tạo ượ th àng, tạtn ủn ển ển ủn ủn ủn ủn ủt. linh hoạt, tránh được sự khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy đối với một số bài thơ Đường luật hồi đầu thế kỉ. hình ảnh bèo trôi dạt trên sông nối tiếp ý nghĩa cành củi khổ trong khổ thơ ầu, đó là sự trôi dạt ko biếc về đa của những kiếp người nhỏ nhỏ nhỏ nhỏ nht. từ “không” xuất hiện 2 lần ể khẳng ịnh sự vọng từng khát khao gắn tìm chút Liên kết của 1 with người: ko 1 with đò ngang dọc trên sông, ko 1 cầu nối người ngườn 2 bờn. tất cả chỉ làm tăng thêm cái mênh mông lặng lẽ của công việc và cả sự trống trải lặng lẽ của cảnh vật. Ặt trong toàn bộ bài thơ, khổ 1,2,3 với sự xuất hi ần lượt của hệ thống hình ảnh nhưng ko làm cho ko gian thêm ấm ap mà chỉ làm nổi bật 1 cảnh vật.

    vào những năm 30 của thế kỷcc, đây là những câu thơ mới mẻ, bởi trong đó xuất hiện hình ảnh giản dị, “tầm thường” là “củi một cành khô”. thơ xưa thường nói ến những hình ảnh cao sag mà giới “Tao nhân, mặc khách” thường ưa thích như trìng hoa, tuyết nguyệt … ến kì thơ mới, nhhng hì ôhh “củnhh” củnhh “c. “,” With nai vàng ngơ ngác “, with hổ” gặm một mối căm hờn trong cũi sắt “v.v … mới ào ạt xuất hiện, như là chỉ dấu về một” cuộc cach mạng thơ “(Hohi Therm. đang không biết đi đâu về đâu, giống như cành củi khô giữa ngã ba dòng nước.

    khổ thơ thứ hai, cũng là khổ thơ cuối của bài thơ, hài hoà về nét cổ điển và hiện ại, ược đánh giá là ặc sắc nhất trong kết cấu bài bài thơ

    “lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

    Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

    nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

    sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

    c cùng với những hình ảnh vừa sang trọng vừa bình dân ”, vừa rất truyền thống mà lại cũng vừa rất tây ấy, ta b᷺ m th g

    “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

    “Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê

    lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”.

    các từ “cao”, “sâu”, “rộng”, “dài” được sử dụng như một hệ thống để diễn tả không gian rộng lớn bao la. Đặc biệt, cách dùng từ đảo nghĩa và đối nghĩa giữa “lên” và “xuống”, giữa “cao” và “sâu” khiến người đọc có cảị giác b>

    Đây là một hình ảnh đẹp, chứa đựng biết bao yêu mến of nhà thơ đối với thiên nhiên xứ sở. giữa tầng tầng lớp lớp mây núi chồng chất ấy, nổi bật hình ảnh một cánh chim nhỏ đang sa xuống. Đôi cánh lấp lánh hoàng hôn khiến nó trông như 1 giọt nắng từ trên trời rơi xuống. nhà thơ có cảm giác cả ko gian vũ trụ đang đè nặng lên đôi cánh nhỏ bé ấy khiến cho chim phải chao nghiêng đi. 2 câu thơ cuối được lấy từ 2 câu kết của hoàng hạc lâu nhưng người xưa phải nhờ có khói trắng trên sông mới thấy nhà. còn huy cận chẳng cần có chút “yên ba” nào cũng thấy nhớ nhà da diết. nỗi sầu hiện đại lớn hơn so với cổ nhân. câu thơ gợi tả hình ảnh sóng gió tràng giang dường như chỉ còn gập ghềnh 1 chỗ.

    hai khổ thơ trên sửng thể thất ngôn rất hợp lý, hiệu quảng với sự kết hợp của các từ lay, biện phap tu tu tu tu ừ, thap nghệt tệt tương phản đl làt ôtt. cô đơn trước thiên nhiên, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Tràng Giang Là Bài Thơ Tiêu Biểu Cho PHong Trào Thơ Mới, Không chỉ Miêu tả quang cảnh quê hương ất nước mà còn thể hiện 1 tình yêu nước sâu nặng cùng nỗi bomồ .

    8. phân tích 2 khổ thơ đầu bài tràng giang – mẫu 5

    thơ là cây đàn Muôn diệu của tâm hồn của nhịp thở with tim, thơn diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của with người, niềm vui, nỗi buồn sự cô ơ ơ Co những tâm trạng của with người chỉ có thể diễn ạt bằng thơ, vì vậy thơ không chỉ nói hộ Lòng mình mà thơ tển hiện những băn kho suy nGhĩ sề sự ự ự ớ ớ ớ ớ ớ ớ ớ ớ ự ự ự ự ự ự ự ự ựựựựự. nhỏ bé trước vũ trụ bao la huy cận đã viết nên tac phẩm “tràng giang”, ặc biệt qua hai khổ thơ ầu của đoạn thơ ta cảm nhận rõ ược điều đó.

    quả không sai khi nói rằng với người làm thơ, thơ là pHương tiện biểu ạt cho cảm xúc cảm xúc chân thành, ménh liệt mới là cơ sở tạo nên một tac pHẩm thăng hoa thơ càng có sức ám ảnh trái tim bạn đọc.

    mang trong Mình sứ mệnh cao cảa một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật c cùng với nỗi buồn thế sự ầy sâu sắc huy cận đã xây dựng ược một phách mớnmhn mớ nhn mớ nhhn mớnhn mớnhn mớnhnm. Tiêu biểu cho pHong cach nghệ thuật của ông có thể kển “tràng giang”, Theo lời kể của huy cận bài thơ ược gợi cảm xúc từ một buổi chi thu nĂm 1939 khi tu ởng. TRướC CảNH Sông Hồng Mênh Mang Song NướC, NHữNG CảM XúC Thời ại đã DồN Về Khi Thi Sĩ Thấy Cái Tôi Của Mình Quá nhỏ Bé So Với Vũ Trụ Nên ông đã Gửi GắM.

    và cảm xúc của nhà thơ có lẽ thể hiện rõ nhất qua hai khổ thơ đầu.

    “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

    with thuyền xuôi mái nước song song.

    thuyền về nước lại sầu trăm ngả,

    củi một cành khô lạc mấy dòng

    lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

    Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

    nắng xuống trời lên sâu chót vót,

    sông dài trời rộng bến cô liêu”.

    hai khổ thơ là bức tranh thiên nhiên sông nước hùng vĩ ồng thời ẩn chứa Trong đó là một trai tim đa sầu, đa cảm với biết bao cảm xúc chan chứa không nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó n one nó nó nó nó nó nó nó n one nó nó nó nó nó nó n one.

    mở đầu bài thơ nhà thơ huy cận đã sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường “thuyền, sóng”. Đy là một bức tranh ẹp nhưng lại buồn ến tê tái, nói về điều nhey nhà pHê bình hoài thanh đã nhận xét thihi nhihn trong thơ mới ẹp, nhưng lại buồn nhi. nỗi buồn đó ược lý giải trong câu nói của huy cận lúc đó chung tôi mang một nỗi buồn đó là nỗi buồn thế hệ, chưa làm ược gì cho ất nước trước cảnh nước mấc mấ

    “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

    with thuyền xuôi mái nước song song”.

    từ “điệp điệp”, đã diễn tả tinh tế hình tượng của sóng nước. những with sóng ấy sao hết lớp này đến lớp khác triền miên, vô tận. Ở đây nhà thơ miêu tả cái buồn của thiên nhiên hay cái buồn của con người, có lẽ là cả hai bởi nguyễn du từng viết.

    “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

    người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

    thuyền và nước là hai sự vật luôn đi cùng với nhau vậy mà ở trong tác phẩm này nó lại trở nên bơ vơ, lạc lõng. Thuyền là hiện diện của sựng with người, nhưng đó chỉ là sự xuất hiện thoáng qua trong giây whiting, “with thuyền xuôi mai” là hình ảnh th ữt ảng cũt ớt ảt ảt ảt ảt ảt ảt ảt ảt ảt ảt ảt. người trôi nổi, lạc lõng không biết đi đâu. phải chăng chynh huy cận cũng đã bắt gặp bóng dáng đó trong cuộc ời mình khi. “bâng khuâng ứng giữa hai dòng nước, chọn một dòng han ể nước trôi”.

    “thuyền về nước lại sầu trăm ngả,

    củi một cành khô lạc mấy dòng”.

    con thuyền và cành củi khô là hai hình ảnh được sử dụng hết sức táo bạo, chúng đang cùng xuôi trên dòng tràng giang. Trong thơ của mình huy cận đã nhiều lần nhắc ến nỗi sầu buồn thiên thu, ến đy ta lại bắt gặp thêm một nỗi sầu nữa đó là sầu tóm ngả ượ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ những kiếp người nhỏ bé trong xã hội cũ, nếu trong thơ trung ại mỗi hình ảnh chất liệu ưa vào thơ ều phải ược gọt giũa, chọn lọc ư tùng, cúc, trúc, truc. ảnh rất đời thường: củi khô.

    pHải chăng cành củi khô ấy cũng chính là nỗi cô ơn lạc lõng trong lòng tac giả, chính lúc bắt gặp cành củi khô ấy tac giả đã ố thế ấy đã được nêu lên trở thành nỗi buồn chung của một thế hệ thanh niên yêu nước. vẫn là bức tranh thủy mặc sông nước ấy nhưng nó đã ược vẽ thêm ất, thêm làng vậy mà nỗi buồn tái tê ấy vẫn hiện diện, nó ược gợi lên qua sự tiêu đi đi vắng vẻ của cảnh vật.

    “lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu,

    Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”,

    trong chinh phụ ngâm ta đã từng bắt gặp:

    “non kỳ quạnh quẽ trăng treo,

    bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”.

    dường như ngọn gió đìu hiu ấy đã vượt thời gian, xuyên không gian và trôi vào thơ huy cận. từ láy “lơ thơ”, đã diễn tả được sự thưa thớt, rời rạc của những hòn đất nhỏ mọc trên dòng “tràng giang”. trên những cồn đất ấy là hình ảnh của những cây lau, cây sậy mỗi khi gió thoáng qua nó trở nên hắt hiu tiêu điều.

    câu thơ như chùng xuống càng xoáy sâu vào tâm hồn của nhà thơ, khiến ông càng trở nên bất lực và muốn tìm đến hơi ấm i . “Đâu tiếng làng xa”, là ở đâu không xác ịnh, âm thanh ấy nghe thật mơ hồ, vậy mà đó lại là âm th thana chợ đãn nghe càng buồn hơng n. ấy lại hiện lên thật náo nhiệt đông đúc.

    “lao xao chợ cá làng ngư phủ”

    vui nhất là âm thanh của chợ vui, buồn nhất là âm thanh của chợ vãn. Ở Câu câu thơ này cai tinh tế của huy cận là ở chỗ ông lấy ộng ể nói tĩnh, lấy tiếng chợ vãn ểể gợi n khhng khí vắng lặng củng gợng ượng ượng ượng ượng ượng. dù đó chỉ là thính giác.

    Đã có ý kiến ​​cho rằng, dòng tràng giang là một giải buồn mênh mang. thật đúng như vậy và hai câu thơ tiếp theo cái buồn của thiên nhiên của con người đã được tác giả đặt đến cái khôn cùn.

    “nắng xuống trời lên sâu chót vót,

    sông dài trời rộng bến cô liêu”.

    ến đy nhà thơ đã vẽ nên một không gian ba chiều rộng lớn là chiều cao, chiều dài, chiều rộng, còn nhà thì ứng ở bến côi nơi giao cai tôi nhỏ bé củ NướC Phản Chiếu lên bầu trời không gian như ượy lê ộ ng ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ. , Mà còn dùng ể nói về ộ ộ cao, tạo cho người ọc cảm giác về sự rợn ngợp của không gian và ứng trước không gian đó with người càng trởn nhông thương thương th.

    cuộc sống là điểm xuất phát là, đối tượng khám phá, là cái đích cuối cùng của thơ ca. những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn bắt rễ từ đời sống hiện thực và có sức lan tỏa mãi trong trái tim bạn đọc. Đến với tràng giang của huy cận ta như khám phá được những nỗi niềm nhà thơ ký thác, nghe được tiếng thở dài bất lực của thi nhân trước cảnh nước nhà đang chìm trong khói lửa của chiến tranh, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện ại, sửng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị giàu hình ảnh, tất cả đã ược làm nên thành công choc tràng giang của huy cận.

    <p phân tích hai khổ ầu bài thơ tràng giang nhưng có lẽó chính là lý do tại sao dù ra ời đã lâu nhưng tràng giang vẫn không bịi bụi gian phủ mờ nó vẫn còng ọn ọ ọ ọ ọ ọ ọ ọ

    9. cảm nhận 2 khổ thơ đầu bài tràng giang

    thơ là cây đàn Muôn diệu của tâm hồn của nhịp thở with tim, thơn diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của with người, niềm vui, nỗi buồn sự cô ơ ơ Co những tâm trạng của with người chỉ có thể diễn ạt bằng thơ, vì vậy thơ không chỉ nói hộ Lòng mình mà thơ tển hiện những băn kho suy nGhĩ sề sự ự ự ớ ớ ớ ớ ớ ớ ớ ớ ự ự ự ự ự ự ự ự ựựựựự. nhỏ bé trước vũ trụ bao la huy cận đã viết nên tac phẩm “tràng giang”, ặc biệt qua hai khổ thơ ầu của đoạn thơ ta cảm nhận rõ ược điều đó.

    “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệpcon thuyền xuôi mái nước song song.

    lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiềunắng xuống trời lên sâu chót vót,sông dài trời rộng bến cô liêu”.

    hai khổ thơ là bức tranh thiên nhiên sông nước hùng vĩ ồng thời ẩn chứa Trong đó là một trai tim đa sầu, đa cảm với biết bao cảm xúc chan chứa không nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó nó n one nó nó nó nó nó nó nó n one nó nó nó nó nó nó n one.

    mở đầu bài thơ, nhà thơ huy cận đã sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường “thuyền, sóng”. Đy là một bức tranh ẹp nhưng lại buồn ến tê tái, nói về điều nhey nhà pHê bình hoài thanh đã nhận xét thihi nhihn trong thơ mới ẹp, nhưng lại buồn nhi. nỗi buồn đó ược lý giải trong câu nói của huy cận lúc đó chung tôi mang một nỗi buồn đó là nỗi buồn thế hệ, chưa làm ược gì cho ất nước trước cảnh nước mấc mấ

    “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,con thuyền xuôi mái nước song song”.

    từ “điệp điệp”, đã diễn tả tinh tế hình tượng của sóng nước. những with sóng ấy sao hết lớp này đến lớp khác triền miên, vô tận. Ở đây nhà thơ miêu tả cái buồn của thiên nhiên hay cái buồn của con người, có lẽ là cả hai bởi nguyễn du từng viết.

    “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

    thuyền và nước là hai sự vật luôn đi cùng với nhau vậy mà ở trong tác phẩm này nó lại trở nên bơ vơ, lạc lõng. Thuyền là hiện diện của sựng with người, nhưng đó chỉ là sự xuất hiện thoáng qua trong giây whiting, “with thuyền xuôi mai” là hình ảnh th ữt ảng cũt ớt ảt ảt ảt ảt ảt ảt ảt ảt ảt ảt ảt. người trôi nổi, lạc lõng không biết đi đâu. phải chăng chynh huy cận cũng đã bắt gặp bóng dáng đó trong cuộc ời mình khi. “bâng khuâng ứng giữa hai dòng nước, chọn một dòng han ể nước trôi”.

    “thuyền về nước lại sầu trăm ngả,củi một cành khô lạc mấy dòng”.

    con thuyền và cành củi khô là hai hình ảnh được sử dụng hết sức táo bạo, chúng đang cùng xuôi trên dòng tràng giang. Trong thơ của mình huy cận đã nhiều lần nhắc ến nỗi sầu buồn thiên thu, ến đy ta lại bắt gặp thêm một nỗi sầu nữa đó là sầu tóm ngả ượ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ ủ những kiếp người nhỏ bé trong xã hội cũ, nếu trong thơ trung ại mỗi hình ảnh chất liệu ưa vào thơ ều phải ược gọt giũa, chọn lọc ư tùng, cúc, trúc, truc. ảnh rất đời thường: củi khô.

    pHải chăng cành củi khô ấy cũng chính là nỗi cô ơn lạc lõng trong lòng tac giả, chính lúc bắt gặp cành củi khô ấy tac giả đã ố thế ấy đã được nêu lên trở thành nỗi buồn chung của một thế hệ thanh niên yêu nước. vẫn là bức tranh thủy mặc sông nước ấy nhưng nó đã ược vẽ thêm ất, thêm làng vậy mà nỗi buồn tái tê ấy vẫn hiện diện, nó ược gợi lên qua sự tiêu đi đi vắng vẻ của cảnh vật.

    “lơ thơ cồn cỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”,

    trong chinh phụ ngâm ta đã từng bắt gặp:

    “non kỳ quạnh quẽ trăng treo, bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”.

    dường như ngọn gió đìu hiu ấy đã vượt thời gian, xuyên không gian và trôi vào thơ huy cận. từ láy “lơ thơ”, đã diễn tả được sự thưa thớt, rời rạc của những hòn đất nhỏ mọc trên dòng “tràng giang”. trên những cồn đất ấy là hình ảnh của những cây lau, cây sậy mỗi khi gió thoáng qua nó trở nên hắt hiu tiêu điều.

    câu thơ như chùng xuống càng xoáy sâu vào tâm hồn của nhà thơ, khiến ông càng trở nên bất lực và muốn tìm đến hơi ấm i . “Đâu tiếng làng xa”, là ở đâu không xác ịnh, âm thanh ấy nghe thật mơ hồ, vậy mà đó lại là âm th thana chợ đãn nghe càng buồn hơng n. ấy lại hiện lên thật náo nhiệt đông đúc.

    “lao xao chợ cá làng ngư phủ”

    vui nhất là âm thanh của chợ vui, buồn nhất là âm thanh của chợ vãn. Ở Câu câu thơ này cai tinh tế của huy cận là ở chỗ ông lấy ộng ể nói tĩnh, lấy tiếng chợ vãn ểể gợi n khhng khí vắng lặng củng gợng ượng ượng ượng ượng ượng. dù đó chỉ là thính giác.

    Đã có ý kiến ​​cho rằng, dòng tràng giang là một giải buồn mênh mang. thật đúng như vậy và hai câu thơ tiếp theo cái buồn của thiên nhiên của con người đã được tác giả đặt đến cái khôn cùn.

    “nắng xuống trời lên sâu chót vót,sông dài trời rộng bến cô liêu”.

    ến đy nhà thơ đã vẽ nên một không gian ba chiều rộng lớn là chiều cao, chiều dài, chiều rộng, còn nhà thì ứng ở bến côi nơi giao cai tôi nhỏ bé củ NướC Phản Chiếu lên bầu trời không gian như ượy lê ộ ng ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ. , Mà còn dùng ể nói về ộ ộ cao, tạo cho người ọc cảm giác về sự rợn ngợp của không gian và ứng trước không gian đó with người càng trởn nhông thương thương th.

    cuộc sống là điểm xuất phát là, đối tượng khám phá, là cái đích cuối cùng của thơ ca. những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn bắt rễ từ đời sống hiện thực và có sức lan tỏa mãi trong trái tim bạn đọc. Ến với tràng giang của huy cận ta như kham phar Hòa giữa cổ điển và hiện ại, sửng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị giàu hình ảnh, tất cả đã ược làm nên thành công choc choc choc giang giang của huy<p phân tích hai khổ ầu bài thơ tràng giang nhưng có lẽó chính là lý do tại sao dù ra ời đã lâu nhưng tràng giang vẫn không bịi bụi gian phủ mờ nó vẫn còng ọn ọ ọ ọ ọ ọ ọ ọ

    mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục tài liệu của hoatieu.vn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *