Văn mẫu lớp 10: Phân tích 16 câu đầu bài thơ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ Dàn ý 8 Mẫu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu

Phân tích 16 câu thơ đầu bài chinh phụ ngâm

Trong bài viết này chúng tôi sẽ giúp các bạn tìm hiểu thông tin và kiến thức về Phân tích 16 câu thơ đầu bài chinh phụ ngâm hay nhất được tổng hợp bởi mvatoi.com.vn

pHân tích 16 câu ầu bài thơ tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ gồm dàn ý và 8 mẫu dưới đây không chỉ giúp các em lớp 10 có thêm nh ữ mình mà con nâng cao hiểu biết về hoàn cảnh ra đời, nội dung tác phẩm. qua đó thấy được nỗi cô đơn buồn khổ ở người chinh phụ.

16 câu ầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã thể hiện rõ nỗi cô ơn, sầu tủi của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi. ella nàng cảm giác về thời gian trong đợi chờ, cố tìm cách giải khuây mà không được. bên cạnh đó các bạn xem thêm bài văn mẫu cảm nhận 8 câu ầu tình cảnh lẻ loi của người chinh pHụ và rất nhiều bài văn there are khcc tại chuyên mục vă 10.

dàn ý tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu

1. mở bài

– giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trich

  • ặng trần côn (không riqu năm sinh năm mất) quê ở làng nhân mục, thanh trì, nay thuộc phường nhân chynh, quận thanh xuân, hà nốội, stru
  • Chinh phụ ngâm của ặng trần côn là tac pHẩm viết bằng chữ Hán gây tiếng và trong giới nho sĩ ương thời nhiều bản dịch và pHỏng dịch cloudy liên am nguyễn). bản hiện hành là bản dịch thành công nhất.
  • đoạn Trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 ến 216) Miêu tả những cung bậc và sắc This khác nhau của nỗi côi ơnn, buồn khổ ở ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ạ ượ ượ ượ ượ ượ ượ n. phúc lứa đôi.
  • – giới thiệu khái quát 16 câu thơ đầu đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

    a. hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị

    – “thầm reo từng bước”: bước chân lặng lẽ dạo trên hiên vắng.

    – “rủ thác đòi phen”: vào trong phòng cuốn rèm, buông rèm

    – chữ “vắng, thưa”: không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn cho thấy nỗi trống vắng trong lòng người người chinh phụ

    b. thao thức ngóng trông tin chồng

    – prohibit ngày:

    • người chinh phụ gửi niềm hi vọng vào tiếng chim thước – loài chim khách báo tin lành.
    • nhưng thực tế “thước chẳng mách tin”: tin tức chồng vẫn bặt vô âm tín.
    • – prohibit đêm:

    • thực tế: “đèn chẳng biết” “lòng thiếp riêng bi thiết”
    • so sánh với bài ca dao “khăn thương nhớ ai”, bài ca dao cũng có xuất hiện hình ảnh ngọn đèn. nếu “đèn” trong bài ca dao là tri âm tri kỉ với người phụ nữ thì ở đây ngọn “đèn” lay lắt lại cứa sâu thêm nỗi đau trong ời ng.

      – hình ảnh so sánh “hoa đèn” và “bong người”.

      • “hoa đèn” dầu bấc ngọn đèn, thực tế là que. cũng giống như ngọn đèn cháy hết mình ể ể rồi chỉ with hoa đèn tàn lụi, người phụ nữ đau đáu hết lòng chờng nhưng cuối c cùng nhận lại sựi sự ơ
      • liên hệ với nỗi cô đơn của thúy kiều sau khi từ biệt thúc sinh trở về với chiếc bóng năm canh:
      • c. cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh.

        – “gà gáy”, “sương”, “hòe”: là những hình ảnh gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả

        – từ láy “eo óc, phất phơ”: cực tả vẻ hoang vu, ớn lạnh đến ghê rợn của cảnh vật.

        → dưới with mắt trống trải cô ơn cả người chinh phụ, những cảnh vật vốn gắn với cuộc sống yên bình, ả nay trở n kHCC thường, hoang vu, ớn lạnh. Đó là cách nói tả cảnh để ngụ tình.

        d. cảm nhận khác thường của người chinh phụ về thời gian.

        – “khắc giờ đằng đẵng”, “mối sầu dằng dặc”: thể hiện sự dàn trải của nỗi nhớ miên man không dứt.

        – biện phÁp so sÁnh kết hợp với cÁc từ lÁy giàu như một năm dài, thời gian càng dài mối sầu càng nặng nề hơn.

        → câu thơ cực tả nỗi cô đơn tột cùng tột độ trong lòng người chinh phụ

        e. hoạt động gắng gượng duy trì nếp sống hằng ngày.

        – Điệp từ “gượng”: nhấn mạnh sự cố gắng gò ép mình của người chinh phụ

        – mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm:

        • soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.
        • gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.
        • ⇒ tiểu kết:

          – nội manure: khắc họa tâm trạng cô ơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn sau đó thati ộộ cảm thông, Chia sẻ của tac giả ối với đau khổ củ củ.

          – nghệ thuật:

          • giọng thơ trầm buồn, khắc khoải, da diết, trầm lắng
          • khắc họa nội tâm nhân vật tài tình, tinh tế thông qua hành động nhân vật, yếu tố ngoại cảnh, độc thoại nội> tâm
          • các biện pháp tu từ: so sánh, điệp từ, từ láy.
          • 3. kết bai

            – khái quát lại giá trịii dung của đoạn thơ ối với đoạn trích: khắc họa tâm trạng cô ơn, lẻ loi, trống vắng của người nỗi đau khổ của with người.

            dàn ý phân tích 16 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi

            i. mở bài

            – giới thiệu về tác giả Đặng trần côn và tác phẩm chinh phụ ngâm

            – giới thiệu về đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

            ii. thanks bài

            1. 16 câu đầu: nỗi cơ đơn, lẻ loi của người chinh phụ

            a) 8 câu thơ đầu

            – không gian:

            • hiên vắng: vắng vẻ, hiu quạnh
            • khuê phòng: cô đơn, nhớ nhung
            • – thời gian:

              • Đèn: ban đêm, thời gian của tâm trạng
              • hoa đèn: thời gian qua lâu gợi nỗi niềm khắc khoải
              • – hành động của người chinh phụ:

                + dạo – gieo từng bước: đi đi lại lại, quanh quanh, quẩn quẩn

                ⇒ nỗi nhớ như ngưng đọng trong từng bước đi

                • rủ thác: hành động vô thức, không có chủ đích
                • nghe ngóng tin tức: nhớ mong, khao khát người chồng trở về
                • giãi bày, chia sẻ với ngọn đèn – vật vô tri vô giác
                • – biện pháp nghệ thuật:

                  • điệp ngữ vòng: đèn biết chăng – đèn có biết, diễn tả tâm trạng buồn triền miên, kéo dài lê thê thời gian và không gian, ưoh gờng dưoh.ng
                  • câu hỏi tu từ: đèn biết chăng? ⇒ như một lời than thở, thể hiện nỗi khắc khoải đợi chờ và hi vọng luôn day dứt không yên trong người chinh phụ.
                  • b) 8 câu thơ còn lại

                    – cảnh vật thiên nhiên:

                    ⇒ tiếng gà khắc khoải như xoáy sâu vào tính chất tĩnh lặng của không gian, đồng thời cũng xoáy sâu vào tâm trạng người chin

                    ph

                    + hòe phất phơ: cảnh vật quạnh hiu

                    – cảm thức của người chinh phụ về thời gian:

                    • Hòe: Bong cây hòe ngoài sân, trong vườn ngắn rồi lại dài, dài rồi lại ngắn, thể hiện sự trôi đi của thời gian – thời gian của xa cach và nhớ thớng
                    • thời gian của tâm trạng:
                    • khắc, giờ – niên

                      mối sầu – biển xa

                      – hành động của người chinh phụ:

                      • soi gương nhưng chỉ thấy hiện lên đó gương mặt đau khổ đầm đìa nước mắt.
                      • gượng gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỉ niệm vợ chồng nhưng lại lo lắng có điềm gở. sự lo lắng không chỉ cho thấy nỗi cô đơn mà còn cho thấy niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.
                      • ⇒ sự mâu thuẫn giữa cảm xúc và lí trí

                        ⇒ 16 câu thơ đầu thể hiện tình cảnh lẻ loi, nỗi cô đơn sầu muộn của người chinh phụ.

                        2. nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ

                        a) 6 câu thơ đầu

                        – hình ảnh thiên nhiên:

                        • gió đông: gió mùa xuân, gió báo tin vui, thể hiện sự sum họp, đoàn viên.
                        • non yên: núi yên nhiên, nơi phương bắc xa xăm – nơi người chồng đang chinh chiến.
                        • – biện pháp nghệ thuật

                          • hình ảnh ước lệ: no yên.
                          • Điệp ngữ vòng: non yên, trời
                          • từ láy: thăm thẳm, đau đáu.
                          • ⇒ Không Gian vô tận, Mênh Mông, Không Giới Hạn, Không chỉ là không gian vô tận ngĂn cach hai vợ chồng, mà còn là nỗi nhớ không của người vợ nơi quê nhà.

                            b) 2 câu còn lại

                            – hai câu thơ mang tính khái quát, triết lý sâu sắc

                            – lời thơ chuyển sang ộc thoại nội tâm, trực tiếp bày tỏ nỗi lòng người chinh phụ với hình ảnh người chinh phụ tràn ng.

                            iii. kết bài

                            – khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.

                            – liên hệ với số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến ​​​​có chồng đi lính

                            phân tích 16 câu đầu chinh phụ ngâm – mẫu 1

                            xviii. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nhiều trai tráng phải giã từ người thân để ra trận. sống trong thời kỳ ấy, cảm nhận được nỗi thống khổ của người vợ lính, Đặng trần côn đã viết nên tác ấm phh. Đó là một khúc ngâm đầy cảm xúc lột tả tình cảnh của người chinh phụ lúc bấy giờ. Trong đó đoạn trib “tình cảnh lẻ loi của người chinh pHụ” là đoạn trích there are ặc biệt là 16 câu thơ ầu đ— hiện rõ nét nỗi cô ơn của người vợ có đng đn ến.

                            đã Co nhiều bản dịch đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nhưng trong đó, bản dịch thành công nhất là bản dịch của đoàn thị đi đ mười sáu câu đầu đoạn trích tác giả đã mở ra khung cảnh người chinh phụ chờ chồng trong tâm trạng u buồn, đơn độc.

                            những hành động của người chinh phụ chậm rãi làm dâng lên cảm giác cô đơn, đau buồn:

                            dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,rèm thưa rủ thác đòi phen

                            nhịp thơ nhẹ nhàng đi sâu vào cảm xúc. hành động của người chinh phụ hiện ra với dáng vẻ u buồn. những động từ “dạo” “gieo từng bước” ta thấy được sự nặng nề với tâm trạng bâng khuâng, lo lắng. dường như không gian im lặng đến mức nghe được cả tiếng bước chân của người chinh phụ. tất cả mọi hành động, cảnh vật đều thể hiện sự cô độc. người phụ nữ ấy chẳng thể tìm được một người để sẻ chia. thế nên hành động của người chinh phụ cứ lặp đi lặp lại vô nghĩa, kéo màn lên rồi lại buông mành xuống. từ sự cô độc đó, sâu trong tâm hồn của người chinh phụ lại thầm thì trách móc:

                            “ngoài rèm thước chẳng mách tin,trong rèm dường đã có đèn biết chăng.Đèn có biết dường bằng chẳng biết, lòng thiếp riêng bi .”thithôt

                            Ở đây ta thấy được rõ nét sự nhớ nhung của người chinh phụ qua hình ảnh “chim thước”. có lẽ ella nàng đang chờ đợi một tin tốt lành từ loài chim ấy. vậy mà chờ hoài, đợi mãi chẳng thấy đâu. thế nên ella nàng đâm trách chim thước chẳng báo tin tức gì, để ella nàng phải ngóng, mong khắc khoải. tác giả cũng sử dụng nghệ thuật đối lập “ngoài rèm”, “trong rèm” để thấy được nỗi cô đơn đã ăn sâu vào cả gian khôn trong>

                            thế nên, nàng cần lắm một người bạn tâm sự cùng mình. có lẽ vậy, nhà thơ đã nhân hóa “đèn” khuya thành một người bạn của người chinh phụ. nhưng ngay cả chiếc đèn cũng phũ phàng với người phụ nữ đang lẻ loi ấy. Đáng nhẽ lúc này “đèn” phải thao thức cùng nàng suốt đêm, ấy thế nhưng “đèn” đã tắt ngay khi người chinh phụ cần lắm s. Điều ấy làm cho người chinh phụ nhận ra rằng “đèn” cũng chỉ là một vật vô tri vô giác chẳng thể nào sẻ chia được điềì.

                            câu hỏi tos từ “Trong rèm dường đãc đèn biết chăng” tac giả sửng cho người ọc cảm nhận ược những bậc cảm xúc người chinh phụ đã ải qua. và câu nói của người chinh phụ bật ra đau như xé lòng “lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi”. vì chẳng có ai bên cạnh để sẻ chia nên nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn ấy.

                            buồn rầu nói chẳng nên lời, hoa đèn kia với bóng người khá thương

                            nỗi buồn của nàng giờ đây chẳng nói nên lời. có lẽ nỗi buồn ấy đã quá lớn và hiện lên mỗi ngày. Ở đây, người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ đến cuộc đời mình of her. dường như cuộc đời nàng giống như hoa đèn vậy cũng mau lụi tàn. càng nghĩ, nàng càng buồn khiến cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng, giống như nguyễn du đã miêu tả “người buồn cảnh có vui đâugi ba

                            “gà eo óc gáy sương năm trống,hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.khắc giờ đằng đẵng như niên,mối sầu dằng dặc .”tựa mi.

                            trời về khuya, không gian càng yên tĩnh khiến tiếng gà gáy làm tâm trạng thêm u uất. tiếng gà “eo óc” là tiếng gáy thưa thớt, thể hiện sự đơn độc. tác giả đã dùng hình ảnh “rủ bóng bốn bên” để miêu tả thời khắc không gian chìm vào đêm tối. Đã qua năm canh vậy mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu thương nhớ chồng.

                            tác giả đã so sánh “khắc giờ” như “niên”. có lẽ khi tâm trạng buồn thì một giờ mà như một năm, dài đằng đẵng khiến nỗi buồn, cô đơn ấy các thêm sâu đậm. cùng với đó là từ láy “đằng đẵng” “dằng dặc” làm cho nỗi đau cứ triền miên không dứt. Ở đây ta thấy được sự tinh tế của tác giả khi lấy động tả tĩnh. nhờ đó làm nổi bật lên không gian, thời gian. Để quên đi nỗi buồn trước mắt, người chinh phụ tìm đến những thú vui tao nhã:

                            hương gượng đốt hồn đà mê mải,gương gượng soi lệ lại châu chan.sắt cầm gượng gảy ngón đàn,dây uyên kinh đứm loan.”t phím>

                            muốn quên đi nỗi buồn, nỗi cô đơn nàng tìm đến tô son điểm phấn, gảy đàn. Ấy thế nhưng những thú vui tao nhã mà ella nàng tìm đến lại càng khiến nàng chìm đắm vào nỗi sầu miên man. khi ốt hương, mùi hương mê mải ấy lại khiến nàng rơi vào sự màng làm nỗi sầu càng dân cao, khi gương điểm phến dần the phán dần không có chồng ở bên cạnh chia sẻ, những ngày xuân chẳng còn nhiều. khi đánh đàn lại khiến nàng nhớ lại những chuyện ngày xưa khi chồng còn kề cạnh. thế nên nàng sợ “dây uyên đứt”, sợ “phím loan chùng” – những nỗi sợ cứ thế bủa vây quanh nàng.

                            tìm đến những thú vui để quên đi nỗi buồn, nhưng hành động lại “gượng” thể hiện sự miễn cưỡng. dường như chỉ vì quá cô đơn mà nàng mới gắng gượng để làm. nhưng lúc này dù thú vui nào thì cũng chẳng làm nàng vui. bởi vì ngay lúc này bao trùm tâm trạng nàng là nỗi cô đơn entre mỏi chồng từ nơi chinh chiến. Điều mà người chinh phụ mong mỏi ngay lúc này chính là nghe được một lời động viên từ người chồng của mình. nhưng tất cả đều im lặng, chẳng có tin tức.

                            bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng nhiều điệp từ, hình ảnh so sánh, tác giả đã vẽ ra tâm trạng ối bời c. sự cô đơn, lẻ loi của nàng được thể hiện rõ nét. hình ảnh của người chinh phụ chính là hình ảnh đại diện cho một lớp người trong thời kỳ này. nó lột trần tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. người phụ nữ phải hy sinh tuổi xuân, sống trong sự cô đơn, tuổi khổ để chờ chồng mặc dù ella chẳng biết bao giờ mào lúc đ>

                            qua phân tích 16 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ta thấy được những nỗi cô đơn của người chin phụ ng chin.ữ Đó là nỗi cô đơn kéo dài triền miên theo không gian và thời gian. nỗi cô đơn ấy chẳng có điều gì có thể xoa dịu bớt được. có chăng chỉ là sự hy vọng ở người phụ nữ làm cho họ trở nên mạnh mẽ hơn. qua đây ta cũng thấy được sự tài hoa của Đặng trần côn khi ella chạm đến trái tim người đọc bằng những ngôn từ cả</m xúc.

                            tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – mẫu 2

                            là with người, ai cũng khiếp sợ chiến tranh, bởi chiến tranh gắn liền với máu và nước mắt. vào thế kỉ thứ xviii, tình hình xã hội nước ta vô cùng rối ren, chính trị bất ổn, chiến tranh liên miên. triều đình cần nhiều binh lính để chiến đấu. vì vậy, rất nhiều trai tráng đã từ giã gia đình và gia nhập quân ngũ. nhưng “cổ lai chinh chiến khứ nhân hồi” tức có nghĩa là xưa nay, đi chiến đấu có mấy ai trở về. thật vậy, sự ra đi không hẹn ngày về của những người chồng đã khiến cho người vợ của họ, những người thiếu pHụ đã trở Thành những người chinh phụ. người khuê phụ trong bài thơ “khuê oán” của vương xương linh từng thốt:

                            hốt kiến ​​mạch đầu dương liễu sắc,hối giao phu tế mịch phong hầu.

                            nỗi niềm này một lần nữa chúng ta lại bắt gặp trong tác phẩm “chinh phụ ngâm” nguyên tác của Đặng trần côn. Đây là đoạn trích trong khúc ngâm được xem là tiêu biểu nhất cho thể loại khúc ngâm trong văn học việt nam. dưới trí tum của dịch giả đoàn thị điểm – người “tài sắc nương tử xưa hiếm nay không, xuất khẩu thành chương, bản chấtng minh” mà tuyệt tac ầt ầt ầt ầt ầt ầt ầt ầt ầ ộ ô ô ột. . Đặc biệt 16 câu đầu của đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” – bản diễn nôm của Đoàn thị Điểm, dù ngắn nhưng Đoàn thị Điểm đã làm nổi bật lên bức tranh tâm trạng của người chinh phụ với những cảm nhận về thời gian chờ đợi và nỗi cô đơn, buồn nhớ, sầu lo dành cho người chinh phu:

                            “dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcngồi rèm thưa rủ thác đòi phen…sắt cầm gượng gảy ngón đàndây uyên kinh đứt, phím loan ng

                            nửa ầu thế kỷ xviii, “chính sự hư hỏng, thuế khóa nặng nề”, khắp nơi nông dân vùng lên khởi nghĩa và chúa trịnh đã tih -p. những cảnh vợ chồng chia lìa, nhà cửa ly tán đã khiến Đặng trần con xúc động mà làm ra khúc ngâm. tác phẩm là lời tố cáo chiến tranh phong kiến ​​phi nghĩa; đồng thời là tiếng nói khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi vốn ít được thơ văn các thời kỳ trước chú ý. nguyên tác “chinh phụ ngâm” của Đặng trần côn gồm 477 câu viết bằng chữ hán theo thể trường đoản cú. nữ sĩ Đoàn thị Điểm, có lẽ do đồng điệu với người chinh phụ, đã diễn nôm thành 408 câu song thất lục bát. Đoạn Trích Trên ược Trích Từ Câu 193 ến Câu 288 CủA NGUYên TắC, Là tình cảnh Và tâm Trạng của người chinh pHụ Trong những nĂm thang chồng đi đán ậán ậan ậnh: p>

                            tâm trạng của người chinh phụ trước hết được bộc lộ thông qua không gian và hành động:

                            “dạo hiên vắng thầm gieo từng bướcngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

                            thủ pháp đối “hiên vắng” với “rèm thưa” không chỉ miêu tả không gian mà còn hé lộ tâm trạng. “hiên vắng” cho thấy chẳng có ai ngoài người chinh phụ nhưng thực chất trong nhà còn có cha mẹ chồng và các con, đâu chỉ mình nàng. song, cái vắng lặng kia của không gian phải chăng toát ra từ cõi lòng cô đơn, trống vắng của người chinh phụ? qua con mắt ngóng trông, bức rèm dẫu có dày, cũng trở thành “rèm thưa”. ngoài không gian, hành động nhân vật cũng là phương tiện miêu tả nội tâm nhân vật hiệu quả. HAI Câu Thơ Có ến Bốn ộng từ chỉt hoạt ộng: “dạo”, “ngồi,” rủ “,” thc “nhưng trọng tâm câu thơ lại không rơi vào những chữ ấy nó nó nó nó nó nó á nó nó nó n. thầm gieo từng bước “và” đòi phen “. ấy dường như độc giả còn bắt gặp trong “cung oán ngâm” của nguyễn gia thiều:

                            buồn mọi nỗi lòng đà khắc khoảingán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ

                            bài thơ “cung oán ngâm” của nguyễn gia thiều cũng là một bài thơ viết về nỗi lòng của người phụ nữ

                            thật buồn khi những bước chân ấy đều là những bước chân mang nỗi lòng của những người phụ nữ đáng thương. còn “đòi phen” là một từ cổ, có nghĩa là “nhiều lận”. Động tác buông rèm và cuốn rèm được lặp đi lặp lại trong dáng vẻ vô hồn, vô thức. không có gì thay đổi, nghĩa là kết quả của chuỗi ngày đợi chờ trong mỏi mòn, hy vọng trong vô vọng. Đó là sự tái hiện nhiều khoảnh khắc giống nhau, đó cũng là sự dồn nén tâm trạng.

                            không chỉ qua không gian và hành động mà tâm trạng của người chinh phụ còn được bộc lộ rõ ​​qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm:

                            “ngoài rèm thước chẳng mách tintrong rèm dường đã có đèn biết chăng?Đèn có biết dường bằng chẳng biếtlòng thiếp riêng bi thiế>t mà>”

                            hướng ra “ngoài rèm”, nàng mong chờ chim thước báo tin vui, rằng chồng đã trở về an lành. nhưng tuyệt nhiên, điều nhận lại chỉ là sự im lặng ến đáng sợ: “ngoài rèm thước chẳng Mách tin”, và thế là her đành trở ộc tho trong nỗ ơn củn củn củn củn củn câu thơ như một cái lắc đầu tuyệt vọng. câu hỏi tu từ “trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” mang hình thức đối thoại với ngọn đèn, nhưng thực chất là độc thoại nội tâm đấy thôi, nào có ai để mà giãi bày, chia! thủ phap ối “Trong rèm – ngoài rèm” cho thấy một hi hện thực tù túg: nhìn ra ngoài there are nhìn vào trong thì cuối cùng cũng chỉnh quanh quẩn, trói buộc bên song cửa sổ, trong một kheyg. không gian tự thân đã chứa đựng khả năng biểu đạt tâm trạng. càng vắng lặng, chật hẹp, tù túng thì ella càng cảm nhận rõ hơn hết nỗi trống vắng, cô đơn. và vì thế mà ella càng bị nỗi sầu bủa vây, không cách nào giải tỏa.

                            cách nói có vẻ mâu thuẫn “Đèn có biết dường bằng chẳng biết” cho thấy một nỗi hụt hẫng, thất vọng. ngọn đèn được nhân hoá với mục đích thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ nỗi lòng của người chinh phụ. nhưng suy cho cùng đèn cũng chỉ là một vật vô tri vô giác mà thôi! trong tâm hồn người chinh phụ tưởng chừng đã lóe lên niềm vui, bởi đã có người ồng cảm, sẻ chia, ểa thỏa niềm khao ềàith. nhưng cũng ngay lập tức ella nàng nhận thức ược hiện thực không gì khác ngoài: khổ đau, chia lìa và vô vọng, monong mỏi, khát khao lẇi thật bi kịch khi ella càng muốn thoát ra thì ella nàng càng bị nỗi sầu muộn trói chặt hệt như người sắp đuối nước tưẛng ẩã chi tì sin nào ngờ…

                            hình ảnh “ngọn đèn” vốn là thi liệu quen thuộc trong ca dao viết về nỗi nhớ tình yêu:

                            “Đèn thương nhớ aimà đèn mà đèn không tắt”

                            there are:

                            “mong anh mà chẳng thấy anhthiếp tôi buồn bã khêu quanh ngọn đèn”

                            rồi lại:

                            “Đêm qua gió bấc mưa dầmĐèn lầm với bong, bóng lầm với ai?”

                            trò chuyện với “ngọn đèn” là thế! song, “lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi” – là lời người chinh phụ tự bạch với chính mình. tính từ “bi thiết” không chỉ diễn tả nỗi buồn mà hơn thế, đó con là nỗi đau tự ý thức về tình cảnh cô ơn và nỗi s.

                            tâm trạng của người chinh phụ, cuối cùng, được bộc lộ thông qua ngoại hình nhân vật:

                            “buồn rầu chẳng nói nên lờihoa đèn kia với bóng người khá thương”

                            nét mặt và dáng vẻ “buồn rầu”, cô ơn, tiều tụy ấy là kết quảa của những chuỗi ngày mòn mỏi ợi chờ, cho thấy sống keo lê, tàn tạ, nhạt nhòò ò v. phải chăng đó chỉ là tồn tại, nào phải sống cuộc sống của một con người? nhìn kiếp “hoa đèn” lụi tàn, người chinh phụ tự thương cho kiếp minh tàn lụi. người và vật cuối cùng cũng chẳng khác gì nhau. That’s what’s happening! thật đau xót! Đặc tả những nét ngoại hình ấy của nhân vật, ngòi bút không chỉ xoáy sâu vào từng ngóc ngách để mổ xẻ tâm lí nhân vật, mà hơn thế, chính tác giả và dịch giả đang sống và trăn trở cùng nhân vật, đau nỗi đau của nhân vật trữ tình. Đó là dùng chiều sâu của tâm hồn, chiều rộng của tình thương để thấu hiểu, cảm thông và chia sẻ cùng nhân vật. vì thế mà ở dòng thơ cuối cùng, lời nhân vật, lời tác giả và dịch giả dường như đã hòa làm một trong một niềm đồ.ng c

                            .ng

                            sau những that ngày khắc khoải trong mong chờ: hết “dạo hiên vắng” lại “ngồi rèm thưa”, hết ngóng tin từ chim thm thc ngoài rèm, ến tìm ki đt sự ồm ảm người chinh phụ bắt đầu có cảm nhận sâu sắc về thời gian chờ đợi:

                            “gà eo óc gáy sương năm trốnghoè phất phơ rủ bóng bốn bên.”

                            trước tiên đó là cảm nhận về sự thay đổi của thiên nhiên, cảnh vật: đêm, tiếng gà nhức nhối suốt năm canh; ngày, sự dịch chuyển của bong cây hòe trên mặt đất. sự quan sát thiên nhiên này đã hé lộ tư thế của nhân vật trữ tình: người chinh phụ “ngồi nhẫn tàn canh” trong cảnh đợi ch. có thể nói, chờ mong đã trở thành tâm trạng thường trực của nàng. từ lay tượng Thanh “eo oc” và từ lay tượng hình “phất phơ” càng khắc sâu thêm không gian hiu quạnh, tĩnh lặng củnh vật, cũng như tâm trạng vắng vắng vắng, cô ơt. bút pháp “tả cảnh ngụ tình”, “lấy động tả tĩnh” đã được vận dụng một cách tinh tế, hiệu quả. hình ảnh cây hòe trong màn đêm “phất phơ rủ bóng” cũng gợi lên cảm giác man mác buồn, xót xa. hình ảnh “rủ bốn bên” của cây hòe còn biểu hiện bước đi của mặt trời trọn một ngày. nếu như hình ảnh cây hòe bắt gặp Trong bài “cảnh ngày hè” của nguyễn trject tượng trưng choc sựi tươi tốt, căng tràn sức sống “hòe lục đn đn đn tán tan r. lại được đặt trong đêm khuya thanh vắng, thấm đượm nỗi buồn. từ đó ta thấy ược nGhệ thuật dùng từ của tac giả, đó là sự chọn lọc một cach tinh tế từ ngữ ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể c.

                            nếu như ở cặp song thất, cảm nhận của người chinh phụ về thời gian ược gợi lên qua cai nhìn vềnh vật, thì ở ởp câu lục bát, nhân vật trữ tì tì đ đ đ đ

                            “khắc giờ đằng đẵng như niên,mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

                            xưa nay trong cảnh ợi chờ, bao giờ with người cũng cảm thấy thời gian chảy trôi với một nhịp điệu hết sức chậm rãi, nhưn trêu ngươi, kéo dài kh. như trong “kinh thi” của trung quốc từng ví “nhất nhật tựa tam tam thu” there are Truyện kiều “, khi miêu tải nỗi niềm tương tư Trong tình yêu, nguyễn du du cũng ể ể ể ể ể ể ể ể càng ầy/ ba thu dồn lại một ngày dài ghê! ” một người thiếu pHụ: từng khắc, từng giờ trôi đi như đã qua cả một năm vậy!

                            thủ phap so sánh “như, tựa” với những hình ảnh tưởng chừng như khoa trương, ước lệ “khắc giờ như niên” rồi lại “mối sầu tựa biển”, nhng lạn rựt tt âi t lòng ngổn ngang của người thiếu phụ có chồng đi chinh chiến. bởi nó đã chuyển biến từ thời gian thật của ngoại cảnh (ở cặp thất song) đến thời gian của tâm lý (ở cặp lục bát này). then sánh bản diễn nôm với nguyên tác, người ọc có thểy thy ược thành công của bản dịch trong việc thể hiện nội tưng, ủợcth cth. nếu như trong bản chữ hán của ặng trần côn, đy là hai câu đoản cú “sầu tự hải/khắc như niên” thì trong bản diễn ơ ýc th Đoàn thị Điểm đã sử dụng tài tình thể song thất lục bát – vốn là thể thơ có khả năng dồi dào trong diễn đạt tâm tư tình cảm;vận dụng thành công các từ láy “đằng đẵng, dằng dặc” – một phương tiện ngôn từ đặc thù của tiếng việt, để miêu tả chính xác, chân thật tâm trạng của nhân vật trữ tình. bên cạnh đó bàn còn hán chuyển thứ tự hai câu thơ ể ể mạch cảm xúc đi từ cảm nhận về ngoại cảnh “khắc giờ” cho ến lặn sâu vào nội tâm của with người cùng và thời gian vô tận của sự chời ợi, người chinh phụ chỉ thấy có mình ối diện đàm tâm với biển sầu của chính mình. một trong những vần thơ mênh mông vônn, như khối sàu lando lg ng ng ng ng ng ng ng.

                            trong sự bủa vây của mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa, người chinh phụ cố gắng tìm cach vượt ra khỏi, nhưng rốt cuộc vẫn không thoáá nổi:

                            “hương gượng đốt hồn đà mê mảigương gượng soi lệ lại châu chansắt cầm gượng gảy ngón đàndây uyên kinh đứt, phím presta>

                            nàng muốn làm mọi việc ể qu q Gảy hòa âm với nhau, thường dùng ể vi cảnh vợ chồng hòa thuận, với dây đàn uyên ương và pHím đàn loan phượng – hình ảnh biểu tượng của lứa đôi gắ lại càng chất chồng. Cho nên, hết thảy ba lần lần người chinh phụ ịnh làm những công việc bình thường của cuộc sống hằng ngày thì chựgɖ. Vẻ tự nhiên, bình thường khi đang có tâm trạng buồn, ồng thời nhấn mạnh sựng gạn àn ài t. khi ốt hương, nàng lại chìm ắm vào lại nhớ hình ảnh cùng chồng soi chung nên không cầm ược nước mắt ”, là những điềm gở báo hiệu sự xa không may của angô. Ở những câu thơ này, yếu tố tự sự – thuật hành động, và yếu tố trữ tình – tả tâm trạng, xuất hiện sóng đanôi,. Trong cùng một câu thơ, vếcc chỉc vaệc làm, vế sau là sự biểu hiện tâm trạng, tình cảm của nhân vật trữ tình: “hương gượng ốt / hồn ồà mê mả” rồi “gương. liệt kê, ảo ngữ – ưa bổ ngữ chỉ vật lên trước hành ộng: “hương gượng ốt, gương gượng soi, sắt cầm gượë. lớn đối với việc xây dựng yếu tố tự sự. bên cạnh đó, từ ngữ cũng ược đoàn thị điểm lựa chọn, sử dụng rất “ắt”: “mê mải, chan, kinh, ngại” đ .. tr vậ.t chưa ến nỗi như người thiếu pHụ ngày xưa vọng phu Hóa đá, nhưng nàng chinh pHụ của chung ta đã phải sống trong nỗi cô ơn, buồn nhớ, if my khôô triều. mọi nỗ lực nhằm xua tan đi buồn nhớ đều bất lực, vô dụng. không thể thay đổi cảnh sống hiện tại, người chinh phụ lại càng khắc khoải âu sầu, càng rơi vào tuyệt vọng. Đó là sự bế tắc khủng hoảng đến độ trở thành bi kịch.

                            đoạn trích đã thể hiện sự ồng cảm của tac giả – dịch giả khi khắc họa thành công bi kịch tâm trạng của người chinh phụ: khát khao ược giãi bày, chia sẻ mâu thu người chinh phụ đã bật lên tiếng nói thầm kín của lòng minh.

                            “nếu như có những tư tưởng của thời đại, thì cũng có những hình thức của thời đại” (bielinski). trong văn học phong kiến ​​”phi ngã”, chinh phụ ngâm nói chung và đoạn trích nói riêng, ra ời ể ể cất lên tiếng nói đi quyền sẻúng ẻ.quyền h con ẻ.quyền h qua đó, tố cáo chiến tranh phi nghĩa đương thời

                            tiếng nói ấy xuất phát từ tấm lòng nhân của with người ở vĂn học giai đoạn thế kỷ xviii – XIX trỗi dậy mạnh mẽ trong truyện kiều, cung oan ngâm, thơ hồ xu

                            hình ảnh ước lệ tượng trưng, ​​​​giàu sức gợi hình, biểu cảm: sắt cầm, dây uyên, phím loan”. Đoạn trích đã chọn lọc ắt giá, khai thac hiệu quả những từ thuần việt (thầm gieo, đòi phen, khá thương, gượng, kinh, ngại), ặc biệt hàng loạt nng ững. (eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, mê mải, thăm thẳm, đau đáu); các biện pháp nghệ thuật thường xuất hiện trong thơ văn cổ (đối, điệp, nhân hoá, so sánh, ẩn dụ, câu hỏi tu từ,…). Thể Song Thất lục bát của bản diễn nôm góp pHần quan tễng diễn tả ược những trạng thati tình cảm miên man không dứt, pHù hợp với giai điệu chung của khúc ngâm.

                            có thể nói rằng cả khúc ngâm ọng thành một “mối sầu vạn cổ” mà không gây nhàm chán vì sự diễn biến tinh vi mà pHong, đa dạng của ời sống nộn tâm nhâm nhâm. chỉ riêng đoạn trích này, tâm trạng của người chinh phụ đã có những chuyển biến luân phiên: ngóng trông ngoại cảnh để tìm mối đồng cảm, nhưng không thành để rồi quay về độc thoại với nỗi cô đơn sầu muộn ngổn ngang trong sâu thẳm long minute; khi lóe sáng chút hy vọng, lúc lại rơi vào hố sâu tuyệt vọng, ủ rũ, bế tắc. Nói rằng, lời lẽ trong “chinh phụ ngâm” là sự “hoàn toàn thống nhất giữa ý, tình và âm thanh, nhịp điệu, những câu thơ ẹp vào bậc nhất trong throng thơ ạu ạu ạu ạu ạ

                            16 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ – mẫu 3

                            chinh phụ ngâm là một Trong những tac pHẩm văc trung ại xuất sắc nhất trong lịch sử văc việc việt nam mà ở đó, lồng nh -thm ỗm nh ỗm nh ỗ nh ụ nh ụ nh ụ nh ụ ỗ nh ỗ nh ỗmn n. thời kỳ lúc bấy giờ, đồng thời gián tiếp miêu tả chân thực bức tranh hiện thực xã hội cay đắng, bất công.

                            “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

                            ngay từ những vần thơ ầu đã gieo vào lòng người ọc những cảm nhận u buồn, kết hợp với các ộng từnhư như như nh ặg nh ầng ầng ầng ầng nh ầng ầng nh ầng nh ầng ầng nh th ầng ầng nh th ầng ầng nh TH ầNG ầNG NH TH ầNG NH TH ầ NH ầ NH ầNG NH TH ặNG NH TH ầNG NH TH ầNG NH TH ầ NH ầ NH ầNG NH TH ° Tâm TRạNG Bâng Khuâng, LO mái hiên nghèo, những ngày ộng cứ lặp lại vô nghĩa, càng thể hiện sự sự hog vàríng. và rồi dường như, nhân vật đang phân tâm để đối thoại độc thoại với chính mình, mà lậi vừa có cảm giác nhưchờt

                            “ngoài rèm thước chẳng mách tin,trong rèm dường đã có đèn biết chăng.Đèn có biết dường bằng chẳng biết,lòng thiếp riêng bi thithôt mà.”

                            bắt ầu từ đy, người chinh phụ bộc lộ nỗi lòng cô ơn và sự nhớ mong, nhớ thương khôn xiết ến người chinh ỿn phỺ chi. ella nàng không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà con mang trong lòng sự khắc khoải khôn nguôi, trằn trọc khi ella không nhận được tin ức v hình ảnh chim thước – loài vật báo tin tốt lành xuất hiện chính là sự minh họa rõ nhất cho nỗi lòng ấy. nghệ thuật ối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” ể cho thấy nỗi cô ơn ấy bao trùm mọi không gian, thậm chí lan thấm vào nhuốm vôm gian bu mᓙ.c càng nhớ, càng mong mỏi được giãi bày, và ngọn đèn trở thành người tri kỉ trong vò võ cô đơn để người chinh phụ tâm sự. ca dao xưa đã từng cói ca dao khĂn thương nhớ ai, cũng miêu tả hoàn cảnh của người pHụ nữ trong vò vò võ đêm trường, một mình bầu bạn với ngọn đèn khuya, chính ng they tình cảnh trơ trọi lẻ loi của người chinh phụ:

                            “buồn rầu nói chẳng nên lời,hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

                            người chinh phụ tự thương cho thân phận mình, bỗng nhận thấy trong bóng đèn dầu kia phản chiếu lên bức tường với số phận, thân phận mình như nhập hòa làm một, nỗi buồn mượn ngọn đèn để san sẻ nhưng cũng chẳng thể thỏa nỗi nhớ mong, niềm khát khao đồng điệu.

                            “gà eo óc gáy sương năm trống,hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.khắc giờ đằng đẵng như niên,mối sầu dằng dặa mi tựp.”tực tực

                            không gian khi càng về sáng, càng yên tĩnh, đó cũng là không gian mà tâm trạng những người cô đơn càng thêm đơn độc, lẻ loi biết nhƝƝi. cảnh vật xung quanh cũng heo hút, phất phơ, các từ eo óc, phất phơ, càng gợi cho ta cảm giác rằng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. nỗi nhớ vốn vô hình, vốn không thể cân đong đo ếm, nay ược ịnh lượng hóa bằng sự ằng ằng của tháng năm, bằ d ng sị Và giờ đy, nỗi nhớ đã trở thành mối sầu tựa miền ải xa, nghĩa là nó không chỉ thuộc về cảm xúc, mà còn đang mang những âu lo, khắc khuải, rợn ngợp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp v vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp về

                            những phím đàn gảy lên càng gợi cảm giác về sự ơn ộc, về sự hoang hoải trống vắng trong tm hồn, và tràn ngập những nỗi sợ hãi vénnnns lai, về cach l.

                            BằNG BUTI PHAPP Tả CảNH NGụ TìnH, Tac Giả đã Lột Tảt Một Cách Sống ộng chân Thực Cảm xúc cô ơn và nỗi nhớ thương khắc khoải ến quặn thắt của người ng của chế độ chiến tranh phi nghĩa năm xưa, khiến gia đình phải tan tác, đau thương.

                            tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – mẫu 4

                            có thể nói, ở mỗi thời đại, văn học đều là tấm gương phản chiếu lên được mặt tốt và mặt xấu của xã hộ khai thác và đào sâu vào những vấn đề thuộc về nội tâm của with người. tác phẩm “chinh phụ ngâm là một điển hình tiêu biểu như thế, đặc biệt là mười sáu câu đầu đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đoạn trích phản ánh lên tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho người chinh phụ phải rơi vào tình cảnh cô ơn lẻ loi, tâm trạng đau khổ khắc khoải khôn nguôi. nét hơn nỗi cô ơn của người vợ có chồng đi chinh chiến.

                            Đoạn trích ra đời vào thế kỉ xviii. Đầu đời vua lê hiển tông, triều đình sai quân đánh dẹp, nhiều trai tráng trong làng phải từ giả người thân ra trận. khi ấy, cảm nhận được nỗi khổ của những người nông dân, đặc biệt là người vợ lính. Đặng trần côn đã viết nên tác phẩm, bằng chữ hán là một khúc ngâm đầy cảm xúc. Đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nằm từ câu 193 -216 và từ câu 228 – 252 trong nguyên tác. khi vừa ra ời tac pHẩm đã nhận ược rất nhiều sự chú ý từ những nhà yêu thơ, đãc túy của người việt nam. nhưng sau khi bản dịch ra đời lại có tranh cãi rằng bản dịch đấy là của phan huy Ích hay Đoàn thị Điểm. phần lớn cho rằng là của Đoàn thị Điểm bởi bà cũng có hoàn cảnh giống như người chinh phụ (bà có chồng đi sứ ở trung quốc). mười sáu câu đầu đoạn trích là khung cảnh người chinh phụ chờ đợi chồng de ella trong hoàn cảnh u buồn, đơn độc. những hành động được tiếp diễn đưa cảm xúc lên cao trào.

                            “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

                            hành động được hiện ra với dáng vóc đầy suy tư của người chinh phụ. nhịp thơ nhẹ nhàng, như để đi vào cảm xúc. những ộng từ “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang ầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, ếng gian im ếng ting mhe. người chinh phụ dường như đang suy nghĩ trăn trở nên nàng “ngồi” mà ella lòng thì chẳng để tâm. tác giả đã sử dụng hình ảnh “rủ thác đòi phen”- kéo màng lên rồi lại buông màn xuống. Để cho thấy hành động lặp đi lặp lại vô nghĩ. và rồi ella dường như ella có tiếng thầm thì ella trách móc:

                            “ngoài rèm thước chẳng mách tin,trong rèm dường đã có đèn biết chăng.Đèn có biết dường bằng chẳng biết,lòng thiếp riêng bi thithôt mà.”

                            người chinh phụ bắt đầu giãi bày nỗi niềm tâm sự của mình. thực sự she nàng đang rất nhớ người chinh phu điều đó được thể hiện rõ nét qua hình ảnh “chim thước”-chim khách, là loàthi chim. nàng trách chim thước chẳng báo một chút tin tức nào của người chồng de ella, để nàng phải đợi mong, cô đơn khắc khoải. nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm tất cả không gian bên trong và bên ngoài phòng khuê. và nàng cũng cần lắm một người tâm sự cùng mình. “Đèn” được nhà thơ nhân hóa lên như một người bạn. nếu với “ca dao yêu thương tình nghĩa”: “đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt” chiếc đèn nguyện cùng cô gáo thao thục suốt Ỻ Ỻ nmar Ỻ lo. “Đèn” đã tắt khi người chinh phụ đang cần lắm một sự sẻ chia, “đèn” đã làm choc rèm dường đã có đèn biết chăng?” như muốn cho người đọc cảm nhận người chinh phụ đã đi qua từng cảm xúc. và đến khi tuyệt vọng nàng đã nói một câu mà nghe như xé lòng: lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi” nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn cho riêng mình. bởi vì chẳng có ai bên cạnh để nàng chia sẻ biết bao nỗi niềm chất chứa ella chẳng nói thành lời:

                            “buồn rầu nói chẳng nên lời,hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

                            nỗi buồn u ám dưới màng đêm, nỗi buồn mà ngay cả nàng cũng chẳng thể nói nên lời được. có lẽ do nỗi buồn ấy quá lớn và nó lại hiện lên mỗi ngày. nghệ thuật asi sánh “hoa đèn” với “bóng người”, người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ ến cuộc ời của mình có mau lụi tàn đèc hoa chi? she is there with hẩm hiu hơn thế nữa? càng nghĩ ella nàng càng thấy buồn, dường như lúc này cảnh vật cũng rũ xuống một màu đen tối:

                            “gà eo óc gáy sương năm trống,hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.khác giời đằng đẵng như niên,mối sầu dằng dặc .”tựa mi”.

                            trời đã khuya, không gian yên tĩnh, nghe từng tiếng gà gáy. Âm thanh vang lên “eo óc” thưa thớt, hình ảnh hoa hòe “rũ bóng bốn bên”, thời khắc cảnh vật mỏi mòn chìm vào đêm tối. Đã qua hết năm canh mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu khó vơi đi được. sự so sánh “khắc giờ” như “niên”, một giờ dài bằng một năm, điều đó càng tô đậm hơn nỗi cô đơn. thời gian cũng kéo dài cùng với nỗi sầu muộn của nàng. cùng với từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc” cho thấy sự kéo dài triền miên đau đớn cứ mãi day dứt trong lòng from her. NGHệ Thuật lấy ộng tả tỉnh làm nổi bật lên không gian, thời gian, lấy cai xa của biển cả ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể tiếp đến nàng muốn tìm những thú vui tao nhã, tập cách quên đi nỗi buồn trước mắt of her:

                            “hương gượng đốt hồn đà mê mải,gương gượng soi lệ lại châu chan.sắt cầm gượng gảy ngón đàn,dây uyên kinh đứp chíng loan.”

                            nhưng nàng chẳng biết rằng những thú vui tao nhã này lại khi nàng chìm đắm vào nỗi sầu mênh mang. khi ella đốt hương, hồn nàng lại rơi vào trạng thái mơ màng, nỗi sầu lại theo đó mà dâng lên. rồi khi soi gương ểể tô are điểm phấn, nàng lại càng xót xa chocho pHận của mình, nhan sắc của một người pHụ nữ đn phai mòn đi Theo NhữngoG that ngàyy lồng ồ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đng đng. khi đánh đàn nàng lại sợ “dây uyên đứt”, “phím loan chùng” nàng sợ những điều không may xảy đến cuộc tình của nàng. she biết bao nỗi đau đau, nỗi sợ bủa vây lấy nàng. Điệp từ “gượng” được lặp lại ba lần cho thấy sự miễn cưỡng trong hành động from her. cũng chỉ vì she quá cô đơn, she muốn quên đi mà nàng mới làm. nhưng dù she có thou vui tao nhã ến đu, dù tôểm pHấn there are đánh đàn thì cũng chẳng bao giờ nàng cảm thấy vui, bởi vì ngay lúc này vớng là n ỗ n ề n ề in. she between được nghe một lời động viên an ủi từ người chồng của mình. nhưng tất cả đều không!

                            BằNG BUTI PHAPP TảNH NGụ TìNH, Sử DụNG NHữNG điệp từ, then Sánh Nhiều Hình ảnh ểể Vẽ Ra Khung cảnh của người chinh phụ mang nhiều tâm trạng. sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ trong đêm tối. Và khi hình ảnh buồn khổ ấy hi ện lên chân thực ến đu thì càng vạch trầcn cai tội acid xấu xa của chiến tranh phi nghĩa ẩy biết bao gia đình rơi vào vào cảa cả Mà niềm cảm thông lớn nhất lành cho người chinh phụ, là pHụ NHưNG Họ PHảI HY SINH TUổI XUâN ểể CHờNG Mà Chẳng Có Có Cóc Có Chút tin tức, khhhutg có chia sẻ những nỗn. từ đấy cho ta thấy được cách chọn đề tài của Đặng trần con rất mới mẻ, phù hợp với thời đại lúc bấy giờ. cách miêu tả nội tâm đầy sâu sắc của ông, cho thấy ông là một người có vốn sống rất rộng. ỒNG thời là sực sảo trong cach dùng từ của hai dịch giả đoàn thị điểm và phan huych đã tạo nên đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh” rất.

                            thông qua mười Sáu câu ầu của đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” càng giúp ta hiểu rõ nét hơn những nỗi côi ơn của người phụ nữ nữ nữ nó là nỗi cô đơn da diết kéo dài theo không gian thời gian. từ đó cho thấy hậu quả của chiến tranh phong kiến ​​phi nghĩa. Và là lời ca ngợi cho tac giả ặng trần côn, ông quả là một nhà thơ tài nĂng và tac pHẩm của ông đã chạm ến trai tim của ọc giả và vượt qua hàng tte, người ta sẽ . Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một áng văn hay.

                            tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – mẫu 5

                            Đặng trần côn là một tác giả văn học nổi tiếng sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ xviii. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động nên của đất nước khi mà chiến tranh đã làm chia cắt bao gia đình. có biết bao nhiêu cặp vợ chồng vừa xây dựng hạnh phúc lứa đôi đã phải chia tay để chồng đi chinh chiến phương xa. từ sự cảm thương với số phận with người trong thời chiến, ông đã viết nên tác phẩm “chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là một trong những đoạn trích tiêu biểu nói về tâm trạng cô ơn, lẻ bong của người vợ trẻ khi chồng ra tr ậng nhà.

                            ngay từ tám câu thơ đầu, tác giả đã mở ra một tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của người chinh phụ

                            dạO hiên vắng thầm gieo từng bước, ngồi rèm thưa rủ too đòi phen.ngoài rèm thước chẳng Mách tin, trong rèm dường đãc đèn biết chăng? thôi.buồn rầu nói chẳng nên lời,hoa đèn kia với bong người khá thương!

                            nỗi cô đơn của người chinh phụ đã được thể hiện trước hết qua hành động một mình nàng dạo hiên vắng. ella buông rèm rồi lại cuốn rèm không biết bao nhiêu lần. hành ộng này thể hiện sự bối rối, tâm trạng thất thần nhớ nhung khiến cho người phụ nữ còn không thể kiểm soát ưỬa c hành Đó là tâm trạng chờ đợi mong ngóng, tin tức người chồng phương xa. nỗi buồn nỗi cô đơn của người chinh phụ còn được diễn tả qua sự đối bóng của người với ngọn đèn khuya.

                            Đèn có biết, dường bằng chẳng biết, lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

                            hai câu thơ được tác giả viết hình thức câu hỏi tu từ, thể hiện tâm trạng bế tắc của người chinh phụ. ella nàng hỏi đèn để mong muốn tìm được một sự đồng cảm, sẻ chia, nhưng rồi ella tự trả lời rằng ella đèn ella không biết. hình ảnh ngọn đèn cùng với nỗi lòng của người chinh phụ như càng góp phần khẳng định nỗi buồn triền miên, cô đngơ>n, khôs

                            Đoạn thơ 8 câu cuối có sự chuyển đổi tinh tế để phù hợp với diễn biến tâm trạng của người chinh phụ. từ những lời tự sự miêu tả nội tâm, đến đoạn thơ này có sự kết hợp giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữc gi>

                            gà eo oc gáy sương nĂm trống, hochất pHơ rủ bong bốn bên.khắc giờ ằng ẵng như niên, mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.hương gượng ốt, hồn đ chứa chan.sắt cầm gượng gảy ngón đàn, dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

                            đoạn thơ này, tac giả chủ yếu sử dụng Bút phap tả cảnh ngụ tình, tức là dùng ngoại cảnh ểể miêu tả tâm trạng nhân vật, dùng cai chủ ể ể ể ể ể ể ể mi. vì thế, trong bài thời gian vật lí đã biến thành thời gian tâm lý. tiếng “gà eo óc gáy” là âm thanh báo hiệu năm canh và bóng cây “hòe” tĩnh mịch trong đêm nhằm làm tăng ấn tượng vắng vẻ, cô đơn đáng.

                            trong tâm trạng chờ đợi mỏi mòn đó người chinh phụ thấy thời gian trôi qua một cách chậm chạp, một khắc một giờ mà giống m

                            và để giải tỏa nỗi niềm sầu muộn, người chinh phụ đã biết tìm đến những thú vui tao nhã thường ngày: “soi gường, ngàờng”. nhưng tất cả chỉ làm trong sự gượng gạo, miễn cưỡng chán chường.

                            thành công của đoạn trích này là ở khả năng miêu tả tâm lí nhân vật vô c c cuar tu từ, điệp từ, điệp ngữ…

                            chỉ với 16 câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện được tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. toàn bộ tác phẩm chinh phụ ngâm được xem là tiếng kêu thương của người phụ nữ nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa.

                            tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – mẫu 6

                            “chinh phụ ngâm khúc” là một trong những kiệt tác của danh sĩ, nhà thơ Đặng trần côn. tác phẩm được viết bằng chữ hán, được mọi người biết đến qua bản tương truyền của nữ sĩ Đoàn thị Điểm. Đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” bộc lộ rõ ​​tâm trạng u buồn, nhớ nhung của người chinh pHụ khi she phải sống tình cảnh lẻ loi, vì of her chồng pHả tác phẩm thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo và sự lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến con người phải chia cắt.

                            trong 16 câu thơ ầu tiên, tac giả thể hiện nỗi cô ơn của người chinh phụ trong tình cảnh lẻ loi, cảm giác về thời gian chời ợi, cố tìm cach giải khu ‘khey. Đến 11 câu thơ tiếp theo, thi nhân đã họa lại nỗi nhớ thương chồng ở phương xa của người chinh phụ khiến lòng nàng càng th trong những câu thơ còn lại, cảnh vật xung quanh càng khiến lòng người chinh phụ thêm rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi.

                            “DạO HIên vắng thầm gieo từng bước, ngồi rèm thưa rủ too đòi phen.ngoài rèm thước chẳng mách tin, trong rèm, dường đãc bong người khá thương”

                            chúng ta thấy người chinh phụ khắc khoải chờ mong chồng dẫu ngày hay đêm. she nằm trong phòng, she nàng hết buông rèm xuống lại cuốn rèm lên. tác giả đã rất tinh tế khi miêu tả từng động tác, cử chỉ, hành động được lặp đi, lặp lại nhiều ủn của. những hành ộng ấy không xuất phát từ bất kỳ mục đích gì, tất cả ều là những ộng tác vôc, không chủ đích, khhàng -ýg.ýg người chinh phụ mong mỏic ược sự ồng cảm, nhưng thực tại lại càng thất vọng: “chim thước” chẳng chịu mác tin, “đèn” không hiểu ược tâm sự của mình. ? “,” đèn chẳng biết “pHải chăng là lời thở Than, thể hiện nỗi khắc khoải trong ợi chờ vô vọng, day dứt mãi khôn Ngoài Thành lời ộc thoại nội tâm da diết, ng vết, ng vết. Hình ảnh “ngọn đèn”, “hoa đèn” cùng với cai bong trên tường của chynh mình gợi cho dao v ốnhnh ảnh đ èn không tắt trong bài cao v ốnhnh ảnh đ èn kh.

                            “Đèn thương nhớ aimà đèn không tắt?mắt thương nhớ aimắt ngủ không yên?”

                            nhận thấy trong tám câu thơ tiếp Theo, người chinh phụ đã mượn cảnh thiên nhiên ể ể diễn tả tâm trạng của mình, dùng cai khách quan ể miiêu tả sự chủ

                            “Gà eo oc gáy sương nĂm trống, hòe pHất pHơ rủ bong bốn b chan.sắt cầm gượng gảy ngón đàn,dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

                            Âm thanh “tiếng gà eo óc” báo hiệu canh năm, đồng thời như sự minh chứng rằng người vợ xa chồng đã thức suốt đêm dài. hình ảnh “bóng hòe” ngoài sân, hết ngắn rồi dài, rủ xuống mặt đất, càng khiến không gian thêm ảm đạm, ngột ngạt. thời gian của xa cách, nhớ thương cùng với tâm trạng da diết khôn nguôi. cụm từ “gượng” ược tac giả diễn tả cach ặc biệt, đi liền với các ộng từ “gảy”, “soi”, ốt ”c cùng những ồ vật“ đàn ”,“ hương ”,“ gương ”. tất cả ều cho thấy, những thú vui tao nhã, những thói quen trang điểm hằng ngày của người phụ nữ, giờ đy vắng chồng, tiắ hng niỡ. Đốt hương mà tâm hồn lại chìm đắm vào nỗi sầu tủi miên man. soi gương lại không cầm được những giọt nước mắt không ngừng rơi vì tủi hổ. Đàn đứt dây, chùng lại, nào có thoát khỏi bể trời đơn côi?

                            chung ta thấy rằng chỉ vỏn vẹn 16 câu thơ ầu tiên, tac giả đã thể hiện rõ nỗi cô ơn, sầu tủi của người chinh phụ khi phải sống Trong tình cảnh lẻ loi. ella nàng cảm giác về thời gian trong đợi chờ, ella cố tìm cách giải khuây mà không được. tac giả đã rất tinh tế khi diễn tả tâm trạng phong phú, tinh vi, sâu kín trong tình cảm của người pHụ nữ, càng thể nn rõ tấm lòng nhân ạo dành choc ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ườ pHụ cản rõm lòng nhânn ạo dành cho ng ng ườ pHụ cản rõm lòng nhânn ạo dành cho ng ng ườ pHụ cản rõm lòng nhân ạo dành cho ng ng ngườ chinhh côn cả, Lando. /p>

                            tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – mẫu 7

                            trong ề tài viết về chiến tranh, người ta thường viết nhiều vềng Tráng sĩ, những anh hùng đã chiến ấu, đã hi sinhng vì ấn no sôt rất ít tac giả vềt vềt vềt vềt vềt vềt vềt vềt vềt vềt vềt vềt về mòn mỏi chờ đợi tin tức của chồng mình, cᬻha con mình. và có ai biết được rằng cái sự chờ đợi đó dường như là vô vọng, bế tắc bởi lẽ: “cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”. cảm thông trước cảnh buồn khổ của những người chinh phụ, ặng trần côn đã sáng tac tac pHẩm chinh pHụ ngâm bằng chữ Hán và đoàn thị điểm ịch b bằ n. trong bản dịch này, có thể thấy xuất sắc nhất là đoạn trích “tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đặc biệt là 16 câu thơ đầu tiên.

                            ngay những câu ầu của tac pHẩm chinh phụ ngâm, tac giả đã vẽ nên cảnh chia tay giữa người chinh pHụ và chinh phu: “Chàng ỏỏ tựa rang pha, ngựa chàncết. đi chinh chiến nơi biên ải xa xôi, người vợ pHải ở nhà. người vợ trẻ giữa không gian và thời gian. về không gian, tac giả đã vẽ ra trrước mắt chung ta về hiên vắng, ngoài rèm, trong rèm.

                            không chỉ thế, thời gian trong đoạn thơ này cũng được vẽ nên, đó là trục thời gian trôi chảy. các hình ảnh hoa đèn, tiếng gà eo óc đã vẽ nên cái trục thời gian tuần hoàn: từ đêm đến đêm khuya và trời dần trở về sáng. nói như thế có nghĩa là người chinh phụ đã thức suốt năm canh để chờ đợi, ngóng trông và gặm nhấm nỗi cô đơn.</ần cu mup

                            tóm lại, đoạn trích đã cho ta thấy được hình ảnh của người chinh phụ nổi bật giữa không gian và thời gian. vậy giữa cái khoảng không gian quạnh vắng, cô đơn chiếc bóng ấy, giữa thời gian lê thê của năm canh ấy người chinh phụ đã l

                            dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

                            hai câu thơ đầu đã cho chúng ta thấy hình ảnh của người chinh phụ với những hành động thật lạ kì. người chinh phụ dạo hiên, người chinh phụ ngồi rèm. thế nhưng, ella nàng dạo hiên mà thầm gieo từng bước, nàng ngồi rèm mà rủ thác đòi phen. Đó là hành động quanh quẩn, được lặp lại nhiều lần. có thể thấy hành động này bất thường bởi lẽ ella nàng dạo hiên mà đếm từng bước chân. she nàng ngồi trước cửa sổ mà hết hạ rèm xuống rồi kéo rèm lên.

                            hành động vô thức ấy cứ lặp đi lặp lại để cho thấy được rõ ràng bên trong người chinh phụ đang chất đầy tâm. ella nàng ngồi rèm, nàng dạo hiên không phải đề hòa mình với thiên nhiên, mà là để trông ngóng một điều gì đó. Có Thấy, 2 câu thơ ầu đã ặc tả ược sự cô ơn, lẻ loi, vắng bong cũng như Hé mở tâm Trạng Bên Trong cợn Trong cợn i ngưà nàng đang chờ ợi, Ngóng Trông đi và đến những câu thơ tiếp theo thì tâm sự của người chinh phụ đã được hé mở:

                            ngoài rèm thước chẳng mách tin,trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?

                            cụm từ “thước chẳng mách tin” hé lộ mọi tâm trạng của người chinh phụ. thì ra người vợ trẻ ấy đang chờ đời con chim thước – with chim báo tin lành, tin của người chồng nơi biên ải xa xôi. thế nhưng, with chim thước không đến và người chồng cũng bặt vô âm tín.

                            tiếp theo đó, tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa ngoài rèm với trong rèm và câu hỏi tu từ: “trong rèm, dường đèn bicó?” chính cái thủ pháp đối lập và câu hỏi tu từ, một lần nữa cho chúng ta thấy được cái tâm trạng trách móc, buồn bã của ngưh ph>

                            bên cạnh đó, ta còn cảm nhận được sự tuyệt vọng của người vợ đang mòn mỏi chờ đợi tin tức của chồng. những câu thơ đầu vẽ nên tình cảnh của người chinh phụ trong lẻ loi, cô đơn, vô vọng. người chinh phụ ấy thật đáng thương biết bao. và đáng thương hơn nữa khi ella nàng chỉ biết làm bạn với ngọn đèn:

                            Đèn có biết dường bằng chẳng biết, lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

                            với thủ pháp điệp từ: “đèn biết chăng”; “đèn có biết”. tác giả đã vẽ nên dòng tâm trạng triền miên, day dứt, không nguôi của người vợ trẻ. Thêm vào đó, với câu hỏi tos từ ”đèn cóết dường bằng chẳng biết” như là một nỗi am ảnh, như là một tiếng lòng thổn thức không nguôi người ườt ườt ườt. hai câu thơ này đã cho ta thấy tâm trạng buồn rầu, xót xa của người vợ khi ella chờ đợi mãi mà chưa có tin tức gì. không chỉ thế, 2 câu thơ với câu hỏi tu từ đã tạo nên một dòng chảy tâm trạng triền miên, day dứt. và dòng tâm trạng ấy lại trở nên dai dẳng hơn nữa, triền miên hơn nữa khi nó ặt giữa một không gian và thời gian chẳng ừng

                            t

                            buồn rầu nói chẳng nên lời, hoa đèn kia với bóng người khá thương.

                            bên cạnh việc sử DụNG pHéP điệp, câu hỏi từ, đoạn thơ còn sửng dụng nhiều hình ảnh mang tinh ước lệ tượng trưng: hoa đèn, bong ng ng ng ng với những hình ảnh và cụm từ ấy, tác giả một lần nữa cho ta thấy sự cô đơn, sầu muộn. Đặc biệt hình ảnh hoa đèn khiến ta liên tưởng đến những câu ca dao thật hay thật đẹp về chuyện tình yêu:

                            khĂn thương nhớ ai, khĂn rơi xuống ất.khĂn thương nhớ ai, khĂn vắt lên vai.khĂn thương nhớ ai, khĂn chùi nước mắt.đn thương nhớ ủ ươt. không yên.Đêm qua em những lo phiền,lo vì một nỗi không yên một bề…

                            gai trong bài ca dao there are người vợ trrong chinh phụ ngâm khúc ều phải mòn mỏi từng ngày, từng that, từng năm ể ngóng trông tin tức của người y, người ườm. không chỉ thế, hình ảnh hoa đèn và bóng người khá thương còn gợi ta liên tưởng đến chuyện người con gái nam xương của nguyễn. cả vũ nương trong tác phẩm này và người chinh phụ của đặng trần côn. cảnh vật trong đoạn trích này vẫn không thay đổi, nhưng thời gian lại trôi chảy tuần hoàn:

                            gà eo óc gáy sương năm trống,hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

                            cụm từ âm thanh “gà eo óc” đã diễn tả được sự trôi chảy của thời gian. nếu như ở các câu thơ trước xuất hiện hình ảnh đèn -báo hiệu đã tối, hoa đèn – báo hiệu đã khuya, và cuối c c c caciong là ã. không chỉ có âm thanh tiếng gà eo óc mà còn có cả không gian qua hình ảnh lá hèo. hình ảnh hòe phất phơ rủ bóng bốn bên gợi lên một không gian vắng lặng, tĩnh mịch, hoang vắng. người xưa đã nói: thức đêm mới biết đêm dài. phải thức đêm mới biết được cái khoảng thời gian ấy trôi qua một cách lê thê. người chinh phụ đã cảm nhận được dòng thời gian trôi chảy:

                            khắc giờ đằng đẵng như niên,mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

                            thủ pháp so sánh “trib thơ” c cùng với các từ láy ằng ẵng dằng dặc đã cho chúng ta cảm nhận ược cái âm điệu sầu ằƑ cứ não, day dầỡ Không chỉ tạo nên cai âm điệu sầu não, tac giả đã sử dụng thủ phap phapấy cảnh ngụ tình ểể thể hiện nỗi cô ơn, vắng bong, sầu khổ của người chinh pHụ. nỗi nhớ ấy dài lê thẻ tựa cả một năm. không những dài mà nỗi nhớ ấy còn rộng, sâu tự biển cả rộng lớn. ai có thể thấu được bờ bến của biển khơi, ai có thể thấu được cái lòng đại dương kia đến tận đâu. tấm lòng của người chinh phụ được ví von với những hình ảnh mang đậm sắc thái biểu cảm như thế.người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng ella vẫn không sao thoát nổi .

                            hương gượng đốt hồn đà mê mải,gương gượng soi lệ lại châu chan.

                            trong đoạn thơ này tác giả đã liệt kê hàng loạt hành động của người chinh phụ. người chinh phụ đốt hương, soi gương, gảy đàn. thế nhưng những hành động ấy đều gượng gạo và miễn cưỡng. nằng làm đó nhưng đó là hành động của người có xác mà không hồn. ella nàng làm đó nhưng bên trong de ella tư tưởng de ella tâm trí ella lại nghĩ về điều khác. người chinh phụ đốt hương cầu mong hạnh phúc gđ, nhưng ella nàng đốt hương mà hồn đà mê mải. ella nàng soi gương nhưng ella soi gương làm chi, trang điểm làm gì khi ella không có chồng bên cạnh. hình ảnh người chinh phụ soi gương khiến ta liên tưởng đến bài thơ khuê oán của vương xương linh. trong bài thơ này, tác giả đã khắc họa hình ảnh người chinh phụ trang điểm sau đó lên lầu để ngắm cảnh. nhưng she lên đến lầu she mới nghiệm ra nhiều điều:

                            hốt kiến ​​mạch đầu dương liễu sắc,hối giao phu tế mịch phong hầu.

                            khi trông thấy dáng liễu bên ường mới nhận ra thời gian trôi chảy vô tình, nhan sắc của nàng dần tàn fhai và người chồng ngày ra đi chưa biết ngày trở về về. nhân vật trữ tình con gảy đàn. she nàng gảy đàn để tìm đến thú vui tao nha. she between rằng tiếng đàn kia sẽ làm vơi bớt nỗi muộn phiền. thế nhưng, she gảy đàn mà lại dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng:

                            sắt cầm gượng gảy ngón đàn,dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.

                            câu thơ sử dụng điển tích dây uyên và phím loan. chính 2 điện tích này đã diễn tả tâm trạng tiếp theo của người chinh phụ. không chỉ cô đơn, không chỉ lẻ loi, không chỉ sầu muộn mà lúc này đây tràn đầy nỗi lo lắng và sợ hãi. she nàng sợ dây uyên ngại chùng sợ điềm gở sẽ đến, sợ of her vợ chồng chia lìa xa cách.

                            người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. she nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng from her. chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc. khi hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. lúc gương gượng soi thì she nàng lại không cầm ược nước mắt bởi vì her nhớ gương này her mình cùng of her chồng of her đã từng chung bong, bởi vì her phải ối diệi hình ảnh ảnh đ Nàng Cố Gảy Khúc đàn Long Phụng Sum Vầy Thì she lại chạnh Lòng vình cảnh vợ chồng đang chia lìa đyi ngả, ầy những dựmm chẳng lành: dây uyên kinh ứ ứ ứ ứ ứ rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi of her cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.

                            sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. DườNG NHư NGườI CHINH PHụ KHôNG DAMA ụNG TớI BấT Cứ THứ Gì vì vì chung nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm ến sự chia tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, hồng chí còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió

                            với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nhi tâm, 16 câu thá đ đ ển một cách tếhhhhh ìc ìc b kc ìc tc ìc t. nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở người chinh phụ, luôn khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chynh đáng của người thiếu phụ, cất ti ếng kng kng kng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng ếng k, phi ếng.

                            tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu – mẫu 8

                            tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một trong những tac pHẩm văn học trung ại xuất sắc nhất trong lịch sử văc việt nam mà ở đ đ đ tiếp miêu tả chân thực bức tranh hiện thực xã hội cay đắpông, bắt>

                            “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

                            ngay từ những vần thơ ầu đã gieo vào lòng người ọc những cảm nhận u buồn, kết hợp với các ộng từnhư như như nh ặg nh ầng ầng ầng ầng nh ầng ầng nh ầng nh ầng ầng nh th ầng ầng nh th ầng ầng nh TH ầNG ầNG NH TH ầNG NH TH ầ NH ầ NH ầNG NH TH ặNG NH TH ầNG NH TH ầNG NH TH ầ NH ầ NH ầNG NH TH ° Tâm TRạNG Bâng Khuâng, LO mái hiên nghèo, những ngày ộng cứ lặp lại vô nghĩa, càng thể hiện sự sự hog vàríng. và rồi dường như, nhân vật đang phân tâm để đối thoại độc thoại với chính mình, mà lậi vừa có cảm giác nhưchờt

                            “ngoài rèm thước chẳng mách tin,trong rèm dường đã có đèn biết chăng.Đèn có biết dường bằng chẳng biết,lòng thiếp riêng bi thithôt mà.”

                            bắt ầu từ đy, người chinh phụ bộc lộ nỗi lòng cô ơn và sự nhớ mong, nhớ thương khôn xiết ến người chinh ỿn phỺ chi. ella nàng không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà con mang trong lòng sự khắc khoải khôn nguôi, trằn trọc khi ella không nhận được tin ức v hình ảnh chim thước – loài vật báo tin tốt lành xuất hiện chính là sự minh họa rõ nhất cho nỗi lòng ấy. nghệ thuật ối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” ể cho thấy nỗi cô ơn ấy bao trùm mọi không gian, thậm chí lan thấm vào nhuốm vôm gian bu mᓙ.c càng nhớ, càng mong mỏi được giãi bày, và ngọn đèn trở thành người tri kỉ trong vò võ cô đơn để người chinh phụ tâm sự. ca dao xưa đã từng cói ca dao khĂn thương nhớ ai, cũng miêu tả hoàn cảnh của người pHụ nữ trong vò vò võ đêm trường, một mình bầu bạn với ngọn đèn khuya, chính ng they tình cảnh trơ trọi lẻ loi của người chinh phụ:

                            “buồn rầu nói chẳng nên lời,hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

                            người chinh phụ tự thương cho thân phận mình, bỗng nhận thấy trong bóng đèn dầu kia phản chiếu lên bức tường với số phận, thân phận mình như nhập hòa làm một, nỗi buồn mượn ngọn đèn để san sẻ nhưng cũng chẳng thể thỏa nỗi nhớ mong, niềm khát khao đồng điệu.

                            “gà eo óc gáy sương năm trống,hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.khắc giờ đằng đẵng như niên,mối sầu dằng dặa mi tựp.”tực tực

                            không gian khi càng về sáng, càng yên tĩnh, đó cũng là không gian mà tâm trạng những người cô đơn càng thêm đơn độc, lẻ loi biết nhƝƝi. cảnh vật xung quanh cũng heo hút, phất phơ, các từ eo óc, phất phơ, càng gợi cho ta cảm giác rằng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. nỗi nhớ vốn vô hình, vốn không thể cân đong đo ếm, nay ược ịnh lượng hóa bằng sự ằng ằng của tháng năm, bằ d ng sị Và giờ đy, nỗi nhớ đã trở thành mối sầu tựa miền ải xa, nghĩa là nó không chỉ thuộc về cảm xúc, mà còn đang mang những âu lo, khắc khuải, rợn ngợp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp v vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp vềp về

                            những phím đàn gảy lên càng gợi cảm giác về sự ơn ộc, về sự hoang hoải trống vắng trong tm hồn, và tràn ngập những nỗi sợ hãi vã tươnns lai, về, về cát.

                            BằNG BUTI PHAPP Tả CảNH NGụ TìnH, Tac Giả đã Lột Tảt Một Cách Sống ộng chân Thực Cảm xúc cô ơn và nỗi nhớ thương khắc khoải ến quặn thắt của người ng của chế độ chiến tranh phi nghĩa năm xưa, khiến gia đình phải tan tác, đau thương.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *