bổ sung hoàn thiện 89 bài thành 100 bài thơ con cóc ngắn, cũng là 100 cách chữa bệnh dân gian ược mình sưu tầm, đúc kết lại, diễt bẺ. xem thơ về cây thuốc nam bên dưới sau bài chữa bệnh:
1. lẹo mắt, đũa cả thường dùng đánh cơm/ hơ nóng ấn vào chỗ lẹo vài lần khỏi ngay
2. Đi mưa lạnh , nổi dị ứng mề đay/ lấy quần áo khô, hơ nóng ta đem mặc vào.
3. bị with ong đốt dùng lá aunt tô/ bóp nát lấy nước, ta đem rịt vào
4. chẳng may rết cắn đã có lá Ớt/ đem giã lấy nước bôi cho mau lành
5. rắn độc cắn, cấp cứu bôi nhựa Đu đủ xanh/ rùi quả thái nhỏ, sắc uống, ta đem uống liền
6. trẻ with hay khóc dạ đề, đã có xác ve sầu đừng lo/ sao vàng, tán bột, uống cùng nước cơm
7.nếu bị dị ứng mề đay đã có lá Đinh lăng/ kinh giới, aunt tô, rau má, diếp cá trộn vào mà đun
8. trẻ em lên quai bị, hoặc muỗi , côn trùng đốt/ lấy hạt gấc nướng chín, ngâm giấm hoặc mà bôi
9. muốn trị sốt vi rút mùa hạ/ kinh giới, diếp cá, đun lên uống liền
10.trong đời trẻ em, không tránh được có lần bị kiết lỵ/ cỏ sữa đun nước uống, vài ngày cầm ngay
11. muốn trị bạch điến (lang ben)/ riềng tươi, hay phá cố chỉ ngâm rượu mà bôi
12. muốn cho thải độc mạnh trong gan/ phan tả diệp sắc uống cho sổ hết độc ra
13. muốn cho hết bệnh vàng da/ nhân trần sắc uống thay trà sớm khuya
14. trời lạnh trúng gió méo mồm/ để lâu khó trị, kinh giới uống liền
15. muốn cho miệng hết hôi/ súc miệng nước lá Ổi, ta đun đặc vào
16. khi sâu răng mà chưa hư tủy/ rượu hạt cau ta đem súc miệng
17. muốn cho thận khỏe, răng chắc/ cẩu tích, ta đun nước uống hằng ngày
18. muốn cho mụn nhọt, mẩn ngứa hết mau/ lá Đinh lăng đem sắc, nước uống hằng ngày
19. muốn bà mẹ không sữa tắc/ mộc thông hoặc lá mít, lá Đinh lăng đun nước uống
20. lại muốn ngừng ra sữa/ lá dâu tươi đun nước uống
21. muốn cho hết táo bón, sữa bò tươi uống thật nhiều/ hoặc rau dền đỏ, diếp cá, rau Đay, mùng tơi nấu canh ăn
22. muốn cho hết tiêu chảy, đã có lá Ổi, hồng xiêm xanh/ hoặc vỏ quả măng cụt, ta đem đun nước uống
23. muốn cho sáng mắt, mát gan/ trà hoa cúc cùng đem ra đãi bạn
24. muốn cho áp huyết lên cao/ trà gừng vài cốc lại tăng lên liền
25. muốn cho áp huyết xuống thấp/ trà hoa Đại vài bông xuống liền
26. muốn trẻ em hết rôm sảy/ nước dừa tươi uống vào rất ngon
27. muốn trẻ lâu, đẹp da/ ta dùng nhiều kỷ tử
28. muốn chóng béo, đỡ gầy/ ta uống nhiều sữa ngô
29. muốn giảm cân, tiêu mỡ/ táo mèo, vỏ bưởi, sắc uống tạo niềm vui
30. muốn cho chân được khỏe/ ngũ gia bì sắc uống
31. muốn cho khỏi đại tràng/ ta ăn nhiều lá mơ
32. muốn cho khỏi đau dạ dày/ vỏ trứng gà sấy khô, nghiền bột, ta đem uống
33. muốn cho khỏi quáng gà, khô mắt/ ăn bí đỏ hằng ngày, chớ quên
34. muốn cho bụng đỡ lạnh/ củ riềng đun nước uống
35. muốn cho bụng được mát/ ta uống bột sắn dây
36. muốn cho phần ngực được ấm/ ta đem uống gừng tươi
37. muốn cho phần ngực mát/ hạt cây mã đề sắc uống
38. muốn cho khỏi đái đụ/ rễ cỏ tranh sao vàng sắc uống
39. muốn cho được ngủ tốt/ lạc tiên đun nước uống
40. muốn cho da mặt trắng mịn/ lá dâu, vừng đen, đun nước với mật ong
41. muốn cho khỏi bệnh trĩ/ hoa thiên lý ăn hằng ngày
42. nếu ta tieu hóa kém/ củ sả đun nước uống
43. bị ho, đờm nhiều đến khổ/ vỏ quýt đun nước uống
44. miệng nôn, trôn tháo, thật là sợ ghê/ hoắc hương, vỏ quýt, ta đun uống liền
45. thời tiết thay đổi khàn tiếng, mất giọng/ vỏ quýt đun nước uống thấy hay liền
45. chanh leo đừng bỏ hạt đi/ đó là thần dược phòng ngừa ung thư
46. hóc xương nhỏ, niệm câu thần chú/ “gần thì ra, xa thì vào” cho họng dãn, xương trôi ra
46. đi đám tang, bốc mộ chớ quên/ dùng gừng, tỏi, chống khí hàn, ma nhập
47. cam tẩu mã, không có gì đáng sợ/ cóc cả con, nướng cháy, nghiền bột rắc vào
48. mồ hôi trộm trẻ con hay mắc/ lá dâu buổi sớm hái về mà đun
49. mồ hôi chân tay xin đừng quên lá lốt/ vừa uống, vừa ngâm cũng giảm đi
50. trời qua lạnh áp huyết lại vọt lên cao/ ngâm chân nước gừng, muối đưa hư hỏa về
51. mặt tái mét, môi thâm, rét run do lạnh/ giã củ gừng tươi, uống ấm áp cả người
52. vỏ bưởi sao vàng, đun nước uống/ gan nhiễm mỡ, béo bụng dùng rất hay
53. trong dạ dày có with vi khuẩn hp/ đừng quên uống cạn trà dây
54. lại hay bị đau lưng/ đừng quên củ cẩu tích
55. hay bị đau xương khớp/ đã có dây Đau xương
56. đau vai gáy, không quên cành dâu/ sao vàng, hạ thổ mà đun nước uống
57. rau dền, rau má, cải xoong/ là những món bổ máu
58. nhân sâm, củ Đinh lăng/ dùng vào bổ khí, thêm sức lực
59. bí trung tiện thì có hạt mít/ luộc lên mà ăn, đảm bảo thông liền
60. bí đại, tiểu tiện đã có phèn chua/ đem nung lên, tán bột, rắc lên rốn
61. muốn giảm đi tiểu nhiều/ nấu cháo củ súng mà ăn
62. lại muốn đi tiểu nhiều/ nên ăn đều rau cải
63. nếu bị chứng giời leo/ nhựa cỏ sữa đừng quên bôi vào
64. trẻ em lưỡi giống bản đồ/ cà tím cô nước thật đặc, lấy bông thấm vào
65. tưa lưỡi thì có lá rau ngót/ giã lấy nước bôi vào chỗ tưa
66. muốn ra nhiều mồ hôi/ đừng quên củ khúc khắc
67. bị nhịn đói đã lâu/ chỉ nên ăn cháo loãng
68. bị ngộ độc thức ăn/ cũng nên tạm dừng ăn
69. bị đỉa chui vào người/ đã có mật ong đặc trị
70. mật ong … dưới 12 tháng tuổi/ chẳng nên cho trẻ dùng
71. suy dinh dưỡng trẻ nhỏ/ cao ban long là thần dược
72. bị vết thương nhỏ, chảy máu/ giấy đốt lấy tro rịt vào cầm máu
73. muốn máu não lưu thông/ không quên món ngải cứu
74. muốn cho người đỡ sốt/ diếp cá bạn đừng quên
75. hoa mào gà trắng giúp cầm máu tử cung/ sao cháy đen đun nước uống
76. để tieu sỏi gan, mật/ đừng quên củ nghệ vàng
77. để tiêu đi sỏi thận/ trái dứa (thơm) nướng ăn
78. bệnh gota cần phải phòng ngừa/ Đỗ xanh cả vỏ, ta ăn cho nhiều
79. trẻ ho đã có lá hẹ tươi/ hấp với Đường phèn khỏi cần kháng sinh
80. đau mắt đỏ có lá cây diếp cá/ ta đem giã nhuyễn rùi đem đắp vào
81. viêm họng đã có quả trám đen/ bỏ hạt, ninh nhừ, thêm đường uống cho ngon
82. bong gân đã có lá cây hoa láng trắng/ nướng nóng, giã nhuyễn, ta đem đắp vào
83. chẳng may bỏng lửa, nước sôi/ lá bỏng giã nhuyễn, đắp vào vết thương
84. chốc đầu, ghẻ lở, mồ hôi trộm ở trẻ nhỏ/ lá bỏng vắt nước, uống vào thật hay
85. bị kiết lỵ cũng thật là khổ ghê/ rau sam đun nước uống, thêm đường cho ngon
86. để phòng ngừa nguy cơ xơ vữa động mạch/ rau sam, gừng sống, đun lên mà dùng
87. viêm loét dạ dày có bắp cải rất hay/ trần qua, vắt nước, ta đem uống liền
88. trên đường đi xa, viêm loét dạ dày chưa có thuốc/ xin cốc bột sắn dây uống ngay để tạm hàn vết loét
89. chẳng may bị bỏng Ớt/ lá Ớt giã nát ta đem đắp vào
90.Đi ngoài ra cả máu tươi/ hoa hòe sao cháy, ta đun nên dùng
91. máu nóng quá bức ra đằng mũi (máu cam)/ cỏ nhọ nồi mát máu đun nên mà dùng
92.dạ dày xuất huyết, cần cứu ngay/ củ bạch cập nướng cháy mà dùng cực hay
93. Đừng dại mà nghịch nhựa xương rồng/ nó có chất độc có ngày loét da
94.nếu sốt xuất huyết, mới mắc/ diếp cá, cỏ nhọ nồi kết hợp cùng nhau
95. trời lạnh, huyết áp lên cao đột ngột/ ngâm chân nước ấm, hạ liền áp ơi
96.trời mưa lạnh đâu nhức khớp xương/ cây lá lốt sao vàng ,vừa ngâm vừa uống
97. mùa Đông lạnh không sao ngủ được/ củ gừng nướng cháy, rùi đun uống liền
98. trời lạnh bị chứng đau nửa đầu/ gội đầu nước quế thế là hết đau
99. quả dâu ta chín, thật hay/ dùng nhiều bổ huyết, sáng mắt , tóc lại thêm đen.
100. nước bọt , là thứ nước ” cam lồ”/ nuốt ực xuống bụng,tiêu tan bệnh mà.
những đoạn thơ về cây thuốc nam
Ốm đau là việc khó lường bao cây thuốc quý ta thường bỏ qua.
những ai vàng mắt, vàng da
nhân trần, cỏ mực, cau trời uống đi. ai mà thân thể béo phì
nên chuyên ăn bưởi vậy thì giảm cân. cà chua là món bình dân
đn để điều trị mạch vành, ung thư… ai bị băng huyết, khí hư
lá tre, huyết dụ uống như nước chè. phụ nữ bí tiểu khó đi
rau muống đắp rốn tiểu thì thông ngay. ai đau quai bị sưng cằm
rau muống một bó uống, ăn xẹp liền. tiểu tiện ra máu mỗi khi
cỏ tranh sắc uống tức thì khỏi ngay. diếp cá trị trĩ rất hay
ai mà bị bệnh xông ngay đỡ phiền. trẻ kinh giật sốt liên miên
tinh tre sắc uống thuốc tiên trong vườn. trẻ ho muốn khỏi mất tiền
hoa đu đủ đực uống liền đỡ ngay. bệnh xoang ngạt mũi thật phiền
vòi voi vắt nước nhỏ liền nhẹ thông càng cua, chín mé ở tay
trầu không giã nát uống ngay dịu liền. nhọt nhức ngồi đứng không yên
giã lá dâm bụt đắp lên nhẹ nhàng. bị thương máu chảy, vội vàng
Đâm gừng rịt lại – máu cầm, liền da ai ơi thuốc có đâu xa
thuốc nam – truyền thống ông cha lưu truyền
¡thơ về cây thuốc chữa bệnh trong đông y!
nhÂn sÂm
1 xưa, hai vợ chồng nọ Đều đặn ngày một lần vào rừng hái củi bán mà vẫn không đủ ăn.
họ đi từ sáng sớm, Đến tối mịt mới về. nhà có đứa with nhỏ, bé tí, there is khóc nhè.
thường ngày họ để lại bát cơm hay bắp ngô, thế mà nó chóng lớn còn hồng hào, cao to.
họ lấy thế làm lạ. mãi khi with lên ba, gặng hỏi mãi được biết rằng khi họ vắng nhà
có đứa bé nào đó, cũng trần truồng như con, Đến chơi thân với nó, nhờ thế mà béo tròn.
cơm và ngô bố mẹ thật lạ, nó không ăn, mà đem cho lũ khỉ. luôn lảng vảng đến gần.
nghe thằng with nói thế, họ thấy lạ lùng sao, vì xung quanh mười dặm, không có láng giềng nào.
rồi họ đưa sợi chỉ, bảo thằng bé thế này: “khi cậu bạn with đến, hãy lén buộc vào tay.”
họ vờ đi hái củi, nhưng quay về, đứng rình, rồi thấy có cậu bé Đến chơi với with mình.
con họ, như được dặn, buộc chỉ tay cậu kia. chúng đang chơi vui vẻ thì bất chợt họ về.
thằng bé thấy, bỏ chạy. biết chắc chắn không lầm, họ lần theo dấu chỉ tìm thấy cây nhân sâm.
Đúng như họ ngờ vực, rằng chính thằng bé này là người sâm béo bổ Được truyền tụng xưa nay.
vậy phải bắt lấy nó Để béo bổ, hồng hào. rồi anh chồng vội vã lấy cuốc xẻng ra đào.
tiếc anh ta nóng vội, sơ ý, đào quá tay, làm chết mất thằng bé, thần người sâm, thần cây.
do vậy mà từ đó thần người sâm, than ôi, không làm ai bất tử, chỉ bổ dưỡng mà thôi.
vì đào mạnh, cây chết, thân lá bay khắp nơi, nên nay ta chỉ có những rễ sâm hình người.
2 nhân sâm là loại thuốc nổi tiếng từ rất lâu. trong sâm, nhung, quế, phụ, nó thuộc loại hàng đầu.
sở dĩ có tên ấy vì trông nó giống người, Được xem là thứ thuốc chữa bách bệnh trên đời.
nhân sâm có nhiều loại, loại mọc hoang, loại trồng. bạch sâm là loại trắng. hồng sâm là loại hồng.
cây sâm cao nửa mét, thuộc loại cây lưu niên, rễ mẫm to thành củ, trồng được ở nhiều miền.
loại cây này mọc chậm, ba năm cho hoa tươi, sáu năm mới có củ, thu hoạch vào tháng mười.
trung quốc trồng nhiều nhất Ở liêu ninh, cát lâm, bảy mươi lăm nghìn tấn là sản lượng hàng năm.
Ở khai thành, hàn quốc, sâm cũng trồng lâu đời, hai trăm năm kinh nghiệm, nay có bán khắp nơi.
ta mới trồng thí nghiệm, tạm thời chưa thành công – có, nhưng ít và xấu, cả sâm trắng, sâm hồng.
về tác dụng dược lý: tốt cho hệ thần kinh, ngừa các bệnh tim mạch, hô hấp và kháng sinh.
cách dùng: thái miếng mỏng rồi ngậm mủn, hay ăn. hoặc đem cho vào chén, Đun cách thủy, uống dần.
về liều lượng, tốt nhất, hai – sáu gam một ngày. bổ thì sâm bổ thật, what liều cũng không hay.
người ta lấy dung dịch sâm chỉ hai mươi phần. tiem cho chuột, chuột chết sau mười giờ, chết dần.
tuy nhiên, dung dịch ấy nếu uống thì không sao. Độc tính sẽ rất ít cũng chẳng biết thế nào.
nghe người ta kể lại, thời nhà thanh, một lần bà từ hy thái hậu mở tiệc đãi sứ thần.
trong hàng mấy trăm món có món “độc” chuột hầm. một loại chuột đặc biệt ba đời ăn nhân sâm.
vì vậy thành bổ dưỡng, có cả tính bổ dương, khiến ông cụ đại sứ của nước anh siêu cường
làm bà vợ đại sứ, cũng gần đất xa trời, sinh được một quí tử, khiến kinh ngạc mọi người.
truyền thuyết là truyền thuyết, chưa chắc đúng hay không, nhưng nhân sâm quả có chất kích thích đàn ông.
bẠch chỈ
1 ngày xưa có cậu tú, tuổi mới khoảng ba mươi, một hôm đầu đau nhức, Đau đến buốt khắp người.
không thuốc nào chữa được. các thầy lang bo tay. và thế là cậu tú Ôm đầu rên suốt ngày.
một hôm, được người mách rằng ở núi vu lương, có một thầy thuốc giỏi. she chàng vội vã lên đường.
Ông thầy không cho biết chữa bằng loại thuốc gì. he chỉ biết là thuốc tán, vo tròn như viên bi.
cậu tú uống thuốc ấy thấy bệnh tình đỡ dần. rồi đầu không đau nữa chỉ trong vòng một tuần.
cậu tò mò muốn biết cây thuốc đó thế nào. À, một loài thảo dược, thân mềm, cây không cao.
rễ của nó màu trắng, có mùi thơm hơi nồng, mới được thầy tìm thấy trên núi chứ chưa trồng.
phải đặt tên cho nó. thế là hai ông with, Đặt là hương bạch chỉ. thơm, màu trắng, rễ non.
sau người ta rút gọn, cho tiện gọi hàng ngày, Đơn giản thành bạch chỉ. không quan trọng điều này.
2 bạch chỉ là vị thuốc bằng rễ cây cùng tên, nằm trong họ hoa tán, công hiệu như thuốc tiên.
xuất xứ từ trung quốc, Được nhập vào nước ta, trồng nhiều ở tam Đảo, và vùng lạnh sapa.
cho đến nay, bạch chỉ chưa dùng trong thuốc tây. một vị thuốc quan trọng, có tính ôn, vị cay.
nó được dùng chủ yếu như loại thuốc giảm đau, chữa cảm mạo, hoa mắt, nhức răng và đau đầu.
bạch chỉ giúp cầm máu, chảy máu cam thường xuyên, hoặc đại tiện ra máu. uống vài thang, khỏi liền.
dùng dưới dạng thuốc sắc, năm – mười gam một ngày. hoặc dùng dưới dạng bột, ngày vài gam cũng hay.
khi trẻ with nóng sốt, bố mẹ hoặc ông bà nấu bạch chỉ, để nguội, tắm cho chúng trong nhà.
ai mắc chứng hôi miệng, lấy bạch chỉ, xuyên khung, ba mươi gam một vị, tán thành viên mà dùng.
ĐƯƠng quy
1 ngày xưa có làng nọ Ở gần song bạch long, nay thuộc tỉnh cam túc, Đất tốt, người lại đông.
trong vùng có ngọn núi tên chữ là Đại tieu. Đó là kho thuốc quí, nhưng thú dữ rất nhiều.
nên tiếc thì tiếc thật mà không ai dám vào. trai làng quả không ít, nhưng kém mặt anh hào.
Ấy thế mà bất chợt có một chàng thư sinh quyết vào rừng hái thuốc, bỏ cô vợ rất xinh
Ở với mẹ, và dặn ba năm về, nếu không coi như chàng đã chết, nàng cứ việc lấy chồng.
sau ba năm chờ đợi, mãi không thấy chồng về. cô vợ đi bước nữa, lấy một ông nhà quê.
thật oái oăm, bất chợt, chàng thư sinh về nhà. nhà trống hoang, lạnh lẽo, chỉ còn lại mẹ già.
vợ chàng thì hối hận Đã không ráng chờ thêm, rồi đổ bệnh, ốm yếu vì than thở ngày đêm.
chàng hay tin, đem thuốc vừa lấy được trong rừng, nhờ người bạn mang đến, còn hướng dẫn cách dùng.
sau một thời gian uống, bệnh của nàng đỡ dần, rồi đột nhiên khỏi hẳn, cứ như có phép thần.
lại nói anh chồng mới, nhà quê, rất thật thà. thấy vợ ốm khỏi bệnh và chồng cũ về nhà,
bèn đem vợ đến trả rồi bỏ đi biệt tăm. một người vừa biết nghĩ và cũng rất có tâm.
câu chuyện này có thật loan truyền trong đám đông. ai cũng mừng, rốt cuộc, nàng trở về với chồng.
nên mới có huyền thoại là Đương qui sau này. Đương qui là quay lại về với chồng, may thay.
2 Đương qui là vị thuốc chữa các bệnh phụ khoa, như bần huyết, đau bụng, các rắc rối đàn bà.
phụ nữ bốn mươi tuổi thường dùng đương qui tinh Để điều chỉnh huyết mạch trong những ngày có kinh.
Đương qui cây không lớn, khoảng sáu, bảy mươi phân, sống lâu năm, nhiều lá, có rãnh tím quanh thân.
nó được trồng chủ yếu Ở triều tiên, trung hoa, gần đây được trồng thử vài nơi ở nước ta.
là một vị thuốc chính, như đã nói, đương qui Được sử dụng rộng rãi trong các bài đông y.
chữa bệnh rối kinh nguyệt – trước có kinh bảy ngày, uống dưới dạng thuốc sắc, hoặc rượu ngâm cũng hay.
thuốc sắc uống liên tục từ một đến hai tần. mươi gam một lần uống và uống ngày hai lần.
nó còn giúp bổ máu, tay chân lạnh, nhức đau, giúp giảm bớt mệt mỏi, khó chịu và đau đầu.
kỶ tỬ
1 theo truyền thuyết kể lại, tể tướng phòng huyền linh kiệt sức vì vất vả giúp vua Đường của mình.
các thái y thấy thế thường xuyên nấu ông ăn cháo quả cây kỷ tử, sức khỏe bình phục dần.
lại có một truyền thuyết rằng xưa ở ninh an, nay thuộc tỉnh ninh hạ, có người with gái ngoan
tên là cẩu hồng quả. cha cô sớm qua đời. mẹ cô thương xót khóc Đến mù mắt, rạc người.
rồi không quản vất vả, cô đến núi hoàng du mong tìm thấy thuốc quí chữa cho bà mẹ mù.
tiên ông bạch hồ tử cảm cái lòng của cô chỉ chỗ cây kỷ tử, cô hái nó, không ngờ
mẹ cô uống khỏi bệnh. từ đó, dân vùng này gọi là “minh mục tử”, thuốc chữa mắt rất hay.
2 thời xa xưa, kỷ tử Được gọi là “địa tiên”, hay “thiên tinh”, “khước lão”, coi như vị thuốc tiên.
nguồn gốc ở trung quốc, Đã nhập trồng nước ta. nó là cây thuốc quí, Được xếp vào họ cà.
cây cao khoảng một mét, cành nhỏ và có gai. hoa có màu tím đỏ, quả mọng, hình trứng dài.
khi jue hoạch, lấy quả, quả chín hoặc phơi khô. quả hái vào buổi sáng, mùa hè và mùa jue.
nó là vị thuốc bổ, lợi cho bệnh đái đường, ho lao và viêm phổi, bổ khí huyết, bổ dương.
dùng dưới dạng thuốc sắc, hoặc ngâm rượu cũng hay. nhớ nên dùng đều đặn, khoảng mươi gam một ngày.
lá kỷ tử rửa sạch nấu canh với thịt bò hay thịt lợn đều tốt, chữa bệnh sốt, bệnh ho.
rễ củ cây kỷ tử cùng các vị thuốc nam có thể chữa nhiều bệnh, Đơn giản và dễ làm.
theo các nhà nghiên cứu, kỷ tử là loài cây dược lý rất phong phú Được biết đến gần đây:
cải thiện hệ miễn dịch, tuyến thượng thận, tuyến yên, chống loạn lipid máu, chống mỏi mệt, ưu phiền;
làm giãn mạch, hạ áp, tái sinh tế bào gan, làm chậm sự lão hóa, ngừa phóng xạ, vân van.
chuỐi
1 thời xa xưa, thượng đế, cứ ba năm một lần tổ chức chọn cây đẹp Để làm lễ tế thần.
có một chàng trai nọ tên gọi là lan tiêu, vợ mới sinh with gái, bụ bẫm và đáng yêu.
chàng yêu và chiều nó, chơi với nó suốt ngày, bất chợt nẩy ý định tạo ra một giống cây
thân mềm mềm và mát như da thịt của con, các lá to và rộng, chụm lại thành hình tròn.
quả màu vàng, da mịn, thon dài như ngón tay trên bàn tay năm ngón, cứ to thêm từng ngày.
cô bé chơi với nó, như đôi bạn rất thân trong bóng râm tàu lá, Đói thì hái quả ăn.
một lần, khi thượng đế cho mở hội thi cây, chàng lan tieu quyết định dự thi cây mới này.
thượng đế xem, thích lắm. sau khi nghe lan tiêu giảng giải về ý nghĩa, về cả đứa with yêu,
ngài tuyên bố chàng thắng, rồi về ngồi trên ngai. lát sau, vì đãng trí, ngài hỏi: “cây của ai,
cây của ai thắng nhỉ? cây tên gì, ở đâu?” mọi người đáp: “cây cuối”. vì lan tieu đến sau.
và rồi, loài cây ấy do đứng cuối, người đời gọi chệch thành cây chuối, một loài cây tuyệt vời.
2 cây chuối có nhiều loại: chuối tây rồi chuối ta, chuối rừng rồi chuối hột, chuối nước rồi chuối hoa…
theo các nhà khoa học, có hai mươi lý do Để ta nên ăn chuối, yên tâm ăn kỳ no.
nó bổ sung năng lượng, chữa trầm cảm rất tài, giảm bớt sự khó chịu khi phụ nữ mang thai.
chữa bệnh cao huyết áp, hoặc suy yếu thần kinh, bệnh đường ruột, thiếu máu, làm tăng trí thông minh.
chuối giúp cai thuốc lá, chữa béo phì, khó tiêu, giảm nguy cơ đột quị, tóm lại là rất nhiều.
chuối hột, there is chuối chát, cũng là vị thuốc there is. dưới đây xin được trích một số bài thế này:
chuối hột chữa tieu chảy – bóc vỏ, thái thành khoanh, Ăn sống, nên chấm muối khi muốn ăn chuối xanh.
chữa hắc lào – đơn giản lấy chuối xanh thái dày rồi xát lên chỗ ngứa, Độ năm đến bảy ngày.
trẻ em khi táo bón, lấy chuối chín nướng lên, rồi ăn khi chuối nẫu, bên ngoài, vỏ sạm đen.
chữa phát cuồng, cảm sốt, cũng thế, bệnh tiểu đường – củ chuối giã, uống nước, bệnh hết, lại bình thường.
ngoài ra, rễ chuối hột chữa cảm mạo cũng hay. phơi khô vỏ và lá sắc nước, uống hàng ngày
rất tốt cho lợi tiểu, chữa đái dắt, biếng ăn… nhắc lại: Ăn chuối tốt. vậy hãy ráng mà ăn.
cÂy Đu ĐỦ
1 ngày xưa có người nọ, nghèo, nhưng sống an nhàn. Ông thích nuôi chim cảnh. nhà lại gần nhà quan.
một hôm, with chim ấy bay sang nhà quan chơi, Ăn vụng ba hạt bắp trong nong bắp đang phơi.
ba năm sau bất chợt quan sang nhà bắt đền. bắt đền ba hạt bắp? Ừ, muốn đền thì đền.
Ông xuống bếp, wharf lại, ba hạt bắp trên tay. quan lắc đầu, rồi nói: “không đơn giản thế này.
ba hạt bắp, anh biết, mọc thành ba cây ngô. mỗi cây có hai bắp, hạt mẩy và rất to.
hạt của sáu bắp ấy lại gieo cho mùa sau. thế thì sẽ nhiều lắm. anh thử nhẩm trong đầu.
rồi đến mùa sau nữa. cứ nhân lên, rất nhiều…” quan lấy bàn tính tính, net mặt rất đăm chiêu.
cuối cùng quan tuyên bố: “anh phải trả cho ta không dưới ba tấn bắp, mà phải mang tận nhà!”
anh kia nghe, sợ qua, chắp tay rồi dập đầu: “bẩm, nhà with nghèo đói, with biết lấy ở đâu?”
“Ở đâu tao không biết. hay muốn tù mọt gong?” anh nghèo cực chẳng đã, thất thểu đi ra đồng.
anh ta bò lổm ngổm nhặt từng hạt bắp rơi, “Ôi, nhặt đâu cho đủ? chắc phải nhặt suốt đời.”
cuối cùng, anh ta chết, xác nằm bên bờ mương. rồi ở đó xuất hiện một loài cây khác thường.
thân nó mềm, nhiều đốt, lá nó rộng và to. trái nhiều, trông na ná như những hạt bắp ngô.
dân làng gọi “đâu đủ”, kiếm đâu đủ ngô đây… sau chệch thành “đu đủ” nên mới có tên này.
2 trong dân gian, đu đủ là vị thuốc xưa noy. trái chín giúp tieu hóa, khó tieu và bụng đầy.
Đu đủ xanh nấu kỹ cho thêm ít thịt gà chữa dạ dày rất tốt, khỏi bệnh, lại béo ra.
Đu đủ xanh vắt nước xoa lên mặt và tay, các nốt tàn hương nhỏ sẽ mờ dần từng ngày.
nước sắc lá đu đủ rửa vết loét trên da, tẩy vết máu trên vải, sắc sẵn, để trong nhà.
lá đu đủ thái nhỏ Đem trộn với cỏ khô chữa được bệnh ăn biếng cho ngựa và trâu bò.
nước sắc rễ đu đủ uống mỗi ngày một lần giúp cầm máu băng huyết, sỏi thận cũng tan dần.
lấy hoa đu đủ đực, hoa tươi hoặc phơi khô, hấp với đường mà uống, chữa mất tiếng, hen, ho.
quẢ mƠ
1 xưa, một người trẻ tuổi có tài làm thơ hay. bố từng là thầy thuốc, nên he cũng biết nghề này.
chàng yêu một cô gái with một nhà trong làng. she nàng cũng yêu chàng lắm. nàng xinh và dịu dàng.
thế mà họ, thật tội, không thể nào lấy nhau, vì gia đình hai họ có tư thù từ lâu.
bố mẹ nàng thề độc, thà con ế suốt đời, nhất định không chịu gả, bất chấp ý hai người.
chàng làm thơ than thở, bốc thuốc giúp dân làng, chữa khỏi bệnh người khác, trừ người yêu và chàng.
một tối nọ, đang ngủ, chàng mơ thấy cụ già mặc áo xanh, mắt sáng, mái tóc bạc lòa xòa.
cụ bảo cụ rất hiểu nỗi đau của hai người. vậy thì mai sáng dậy, cứ nhằm hướng mặt trời,
Đi, đi mãi, đi mãi, Đi cho tới lúc nào gặp một dòng suối nhỏ có một cây thông cao.
một cây with kỳ lạ mọc dưới tán cây thông, với một quả duy nhất, bé, màu vàng, có lông.
con hãy đi tới đó hái nó đem về đây, ngâm rượu mời bố vợ, mọi việc sẽ xong ngay.
có điều, đường xa đấy, vượt chín suối mười non. ta sẽ cho chim phượng bay, dẫn đường cho with.
sáng hôm sau, lập tức chia tay với người thương, Đi tìm trái cây quí, chàng khăn gói lên đường.
Đúng là đường xa thật, vừa xa vừa khó khăn, Đi một ngày, một tháng, một năm, rồi ba năm.
cuối cùng, chàng trở lại, ngâm rượu trái cây này. Ông bố người yêu uống, cứ gật gù khen hay.
cũng nhờ rượu ngâm ấy, ngâm trái cây phương xa, hai nhà quên hiềm khích, sống với nhau thuận hòa.
2 cái quả gì quả ấy, mà hòa giải họ hàng, vợ chồng thêm hạnh phúc? Đó là quả mơ vàng.
không nói ai cũng biết nước mơ ngon thế nào. rất tiếc, ít người biết mơ chữa bệnh ra sao.
mơ cũng có nhiều loại. có nơi gọi ô mai, Được trồng khá phổ biến, cả miền trong, miền ngoài.
ngoài việc dùng ngâm rượu, mơ làm thuốc rất hay, dưới dạng hạt khô sấy, nước hạt cất lâu ngày.
mơ khô chữa viêm họng, trị long đờm, chữa ho. dùng dưới dạng thuốc sắc hay mứt ô mai khô.
cùng với vị thuốc khác, mơ chữa giun cũng tài, như giun chui ống mật, giúp rụng trĩ, chân chai…
dầu hạt mơ rất bổ. là thuốc chữa nhuận tràng. làm thuốc bôi chống nẻ, bôi cho tóc mịn màng.
chữa kiết lỵ, khát nước: hai hay ba quả mơ, Đun sôi mười lăm phút, uống thay nước hàng giờ.
chữa giun chui vào mũi cũng dùng nước sắc này, thêm đường, uống đều đặn trước khi ngủ hàng ngày.
còn chữa bệnh băng huyết: bảy quả mơ khô nhăn, rang chín rồi tán nhỏ, uống mỗi ngày ba lần.
cÂy tre
1 xưa có một người nọ loại thường thường bậc trung, có một cô with gái cũng xinh đẹp vô cùng.
Ông ta mướn người ở – một chàng trai nhà quê, khỏe mạnh và chăm chỉ, thường ít nói, rụt rè.
Ông ta muốn lợi dụng anh chàng này hiền lành, nên hứa làm việc tốt, sẽ gả with cho anh.
thế là anh cố gắng làm việc suốt đêm ngày. Ông chủ thành giàu có, quên lời hứa trước đây.
Ông đem gả with gái cho with một phú ông, nhưng bảo anh người ở rằng ông sẽ vui lòng
cho anh chàng làm rể nếu mang được về đây một cây tre trăm đốt, loại đốt cứng và dày.
tre trong rừng không ít, nhưng cây dài và già cũng chỉ hơn mươi đốt. trăm đốt tìm đâu ra?
nên chàng ôm mặt khóc, ngồi trong rừng một mình. she bụt đi đến, hỏi chuyện, chàng kể hết sự tình.
bụt bảo chàng đừng khóc, hãy đốn trăm đốt tre, cột chúng thành hai bó rồi cứ thế gánh về.
khi chàng nói “khắc nhập”, các đốt dính vào nhau. ngược lại, she nói “khắc xuất”, lại rời như ban đầu.
chàng về nhà đúng lúc lễ cưới đang linh đình, chỉ bây giờ mới biết Ông chủ đã lừa mình.
chàng mời ông ra đếm xem các đốt đủ chưa. Đúng cây tre trăm đốt, không thiếu cũng không thừa.
Ông kia ngạc nhiên lắm, thử nhắc nó trên tay. she chàng kêu to “khắc nhập”, liền dính chặt vào cây.
Ông kêu lên hoảng sợ. nghe tiếng, ông sui gia chạy tới định giúp đỡ thì dính vào ông ta.
cả hai họ thấy thế, không ai dám lại gần. Để hai ông than khóc, phơi giữa nắng ngoài sân.
cuối cùng, họ sụp lạy, xin chàng tha, và thề họ nhà trai lập tức từ hôn và quay về.
Ông chủ cũng thề độc gả with cho anh ta, cho cưới ngay luôn thể, chỉ cần thả ông ra.
vậy là anh chàng ấy và con gái của ông nhờ cây tre trăm đốt Được thành vợ thành chồng.
dẫu không thể làm khác, Ông chủ vẫn xót xa. nhưng cây tre còn đó. thôi thì đành cho qua.
2 cuốn “danh and biệt lục”, một cuốn sách lâu đời nói về việc tre, trúc chữa bệnh cho with người.
lá tre non sắc uống giúp thanh nhiệt, giảm sầu, sinh tân dịch, lợi niệu, chữa miệng lở loét đau.
tre non tươi đem chặt thành từng đoạn, nướng lên, vắt lấy nước để uống trị hen xuyễn kinh niên.
ngoài ra nó cũng tốt giúp thanh nhiệt, ho khè, chữa đàm nhiệt khái suyễn, hoặc trúng gió hôn mê.
chữa sốt do viêm não: bốn mươi gam nước này, pha nước sôi để nguội, chia đều uống trong ngày.
thân cây tre, cạo sạch, chỉ chọn lấy phần non, thái thành từng lớp mỏng sắc uống, chữa buồn nôn,
hoặc chữa ho đờm đặc, hoặc mất ngủ dài ngày. dân gian vẫn dùng thế, Đơn giản và rất hay.
cùng một số vị khác, nước tre và thân tre còn chữa được nhiều bệnh, Đơn do thầy thuốc kê.
sẦu riÊng
1 vua gia long nguyễn Ánh, khi giành được giang sơn, Đã thẳng tay đàn áp những người giúp tây sơn.
có một chàng trai trẻ vì vậy phải xa làng, chạy sang tận căm bốt, thủ đô là nam vang.
Ở đấy chàng đã gặp và rồi yêu một người with gái xứ chùa tháp, xinh đẹp và hay cười.
họ sống thật hạnh phúc, yêu thương, giúp đỡ nhau, dẫu cuộc sống vất vả, phải mưa nắng dãi dầu.
một hôm cô vợ trẻ mang về nhà cho chồng một trái cây kỳ lạ có mùi hăng và nồng.
chàng vội vàng bịt mũi, lúc đầu không dám ăn. cô vợ cười: “cứ thử, rồi sau sẽ quen dần.”
và rồi chàng quen thật, rồi nghiện trái cây này, Đến mức phải ra chợ mua nó ăn hàng ngày.
chàng thấy như thể nó có cái gì khác thường, vừa xao xuyến, day dứt, vừa thầm kín yêu thương.
bỗng vợ chàng lâm bệnh rồi chẳng may qua đời. she chàng vô cùng đau khổ, tiếc thương người bạn đời.
chàng quyết định về nước, mang theo giống cây này như kỷ niệm về vợ, một mối tình riêng tây.
mấy năm sau, hái quả, chàng đem mời xóm giềng, và âu yếm gọi nó là trái cây sầu riêng.
sau, trái sầu riêng ấy trở thành trái cây chung, Được nhân giống, yêu thích không chỉ ở trong vùng.
2 Đây là loại cây lớn, còn có tên thu-ren, trồng nhiều ở nam bộ, thuộc giống cây lưu niên.
sầu riêng là cây quả, quả to, hình trứng, dài, ruột có năm ngăn nhỏ, ngoài mặt quả có gai.
lần đầu ăn không thích, nhưng ăn rồi thích dần. không ai giải thích nổi vì sao minh thích ăn.
các thầy thuốc cho biết Ăn loại trái cây này làm kích thích sinh dục, vậy nhớ ăn hàng ngày.
rễ và lá của nó sắc uống, chữa suy gan, chữa cả bệnh cảm sốt – toa thuốc của dân gian.
dùng lá nấu nước tắm, chữa được bệnh da vàng. hạt thì ăn rất bổ, có thể luộc hay rang.
cÂy dỨa
1 xưa, có một bà góa sống với cậu con trai. cậu with thì lười nhác, chỉ suốt ngày nằm dài.
một phần cũng tại mẹ chiều anh with cực kỳ, nên anh with lớn xác mà chẳng biết làm gì.
một hôm, bà ốm nặng, không thể dậy hầu with. mà anh with thì đói, thức ăn vẫn đang còn.
anh ta đành xuống bếp tìm cái ăn, than ôi, tìm mãi vẫn không thấy, dù thức ăn trong nồi.
chỉ vì anh ta vụng, mắt cứ nhìn đâu đâu, cứ luôn miệng hỏi mẹ, mà mẹ thì đang đau.
bực mình, bà mẹ ước: “Ước gì thằng con tôi có trăm mắt để thấy thức ăn để trong nồi!”
tiếp đến là im lặng, sự im lặng ngỡ ngàng. bà mẹ bò xuống bếp rồi dụi mắt, bàng hoàng:
anh con trai yêu quí, than ôi, nay chẳng còn, mà biến thành quả dứa với trăm mắt tí hon.
2 không nói, ai cũng biết giá trị loại cây này. ngoài thơm ngon bổ dưỡng, nhân dân ta xưa no
dùng rễ nó làm thuốc chữa đi tiểu khó khăn, hay đái ra sỏi sạn. cứ sắc uống nhiều lần.
có thể ép lá dứa hay quả dứa chưa vàng làm vị thuốc hiệu quả trong việc tẩy nhuận tràng.
sắc hay giã nõn dứa, ba mươi gam mỗi ngày, có thể chữa cảm sốt, Đơn giản mà rất hay.
ngoài ra còn dứa dại, hay dứa gỗ, dứa gai, cũng chữa bệnh rất tốt, cả dùng trong, dùng ngoài.
Đặc biệt loại dứa dại chữa tốt bệnh lòi dom – ngày uống mười gam rễ, hai mươi gam đọt non.
cÂy ĐÀo
nghe người ta kể lại, xưa ở núi sóc sơn có cây đào đại thụ tán rộng, lá xanh rờn.
có hai thần trú ngụ trong thân cây đào này, là trà và uất lũy, loại cây cao, bóng dày.
mọi người nhờ hai vị mà được sống yên thân. nhờ họ luôn canh giữ, ma quỉ không dám gần.
chúng sợ thần một nhẽ, còn sợ cả cây đào. hễ thấy nó là chạy, không ngoái lại lần nào.
như các vị thần khác, khi đông hết, xuân sang, Đăc biệt mấy ngày tết, họ lên chầu ngọc hoàng.
nhân dịp ấy, ma quỉ liền kéo đến hoành hành. Để xua quỉ, dân chúng cắm đào trong nhà mình.
rồi vẽ hình hai vị Đem dán lên cột nhà. cột nhà đen, giấy đỏ là bùa yểm trừ ma.
sau, dần dần thành lệ, một tục lệ lâu đời, tết có câu đối đỏ và cành đào hồng tươi.
2 Đào là cây thuốc quí, xếp vào họ hoa hồng. nhân, lá, hoa – dùng hết, không thứ gì là không.
nhân đào chữa hen xuyễn, khoảng mười gam một ngày, uống dưới dạng thuốc sắc. not with thuốc there is
giúp phụ nữ sinh đẻ cầm máu và điều kinh. nên thêm các vị khác – hỏi bác sĩ của mình.
lá đào chữa ghẻ lở, sưng tấy, viêm kẽ chân – lấy lá tươi giã nhỏ, Đắp lên sẽ đỡ dần.
hay nấu lá để tắm cũng rất tốt, có điều lá đào độc, vì vậy nên sử dụng đúng liều.
lá đào chữa sốt rét – bảy mươi gam lá tươi, sắc uống ngày một lượt, năm ngày là nhẹ người.
bác nào phải khổ sở vì đại tiện không thông, giã lá đào, lấy nước uống vài lần là xong.
hoa đào cũng là thuốc thông đại tiện, ngoài ra nó còn chữa thủy thủng, và các bệnh ngoài da.
dùng dưới dạng thuốc sắc, ba, bốn gam một lần. hoa để lâu không tốt, do công hiệu giảm dần.
hoa mỘc lan
1 ngày xưa, ở nước nhật có cô gái rất xinh, sớm mồ côi cha mẹ nên cô sống một mình.
cô phải gấp hoa giấy bán kiếm tiền hàng ngày, Ăn bữa no, bữa đói, không mua nổi đôi giày.
một hôm có with vẹt bị mèo đuổi, cuối cùng may mắn được cô cứu, từ đó họ sống chung.
Để trả ơn, with vẹt bày cho cô cách này kiếm nhiều tiền hơn trước, vừa dễ lại vừa hay:
khi gấp xong hoa giấy, cô hà hơi vào hoa. hoa sẽ thành hoa thật như mới hái sau nhà.
có điều, nó báo trước, cứ mỗi lần hà hơi, cô mất một giọt máu, Để hoa đỏ và tươi.
vậy là cô từ đấy kiếm tiền nhiều và nhanh, vì hoa của cô đẹp, do máu nhuộm mà thành
cô bắt đầu ăn diện, mua áo lụa, giày hồng, rồi bắt đầu giao tiếp, rồi cuối cùng lấy chồng.
rồi sắm sanh đủ thứ cho cuộc sống gia đình, cho anh chồng thích diện mà không chịu học hành.
tất cả những thứ ấy rất tốn kém, tất nhiên, nên cô cứ thổi mãi, thổi hoa để kiểm tiền.
da mặt cô xanh nhợt cơ thể thành gầy gò. chú vẹt with tốt bụng Đã mấy lần nhắc cô.
vậy mà cô quát nó, bảo cô còn cần nhà, một ngôi nhà thật đẹp, nhiều ban-công có hoa.
bị ước mơ thôi thúc, cô làm việc đêm ngày, có hôm mệt, suýt ngất, rã rời cả hai tay.
bỗng người của thái tử Đến tìm cô đặt hoa, Đặt với khối lượng lớn, Đủ tiền xây ngôi nhà.
vậy là cô thức trắng gấp hoa rồi hà hơi, Để có hoa màu đỏ, tuyệt đẹp và thật tươi.
hoa cô làm bằng máu kịp đám cưới hoàng cung, nhưng than ôi, cô chết, mất giọt máu cuối cùng.
anh chồng vô tích sự lấy tiền xây ngôi nhà rồi cưới cô vợ khác. cô chết, biến thành hoa,
một loài hoa tuy đẹp nhưng nhợt nhạt, tính hàn, vì cô không còn máu, gọi là hoa mộc lan.
2 mộc lan là hoa cảnh, còn gọi tân di hoa, Được trồng khá phổ biến nhiều nơi ở nước ta.
vì có nhiều hóa chất và tinh dầu, cây này chữa nhiễm trùng hô hấp, hoặc hen xuyễn lâu ngày.
mộc lan rất công hiệu chữa chứng bệnh viêm xoang hoặc nhiễm trùng khoang mũi, khi thuốc khác đầu hàng.
cách dùng: sắc hoa uống, hoa không dập, còn tươi, ba đến mười gam nhỏ, tùy thể trạng từng người.
trị viêm xoang mãn tính, uống mỗi ngày ba lần, sắc còn một nửa nước, uống liên tục bốn tuần.
thỦy tinÊn
1 xưa, có ông phú hộ sinh được bốn contra trai. trước khi he chết, ông dặn các with chia gia tài
làm bốn phần đều đặn, và công bằng như nhau. thế mà bố vừa chết, lập tức ba anh đầu
giành lấy phần tốt nhất chỉ chừa cho em mình mảnh đất bé ngập nước nằm sát một đầm sình.
chàng út vừa thương bố, vừa oán giận các anh, ngồi trên mảnh đất ấy tấm tức khóc một mình.
một bà tiên xuất hiện, nhẹ nhàng nói với chàng: “mảnh đất with đang có là cả một kho vàng.”
nói đoạn, bà biến mất. và rồi, khi she xuân sang, một loài hoa mới lạ mọc trên đất của chàng.
một loài hoa tuyệt đẹp, có hương thơm lạ lùng, như những chiếc chén nhỏ trên bàn ăn hoàng cung.
vì thế, người tìm đến ngắm hoa, chen chúc nhau, họ mua, trả giá đắt. chàng thành người rất giàu.
cứ mỗi dịp tết đến, chàng thu được bộn tiền. she chàng đặt tên hoa ấy là hoa của bà tiên.
thủy tiên, cái tên đẹp, sau gọi chệch mà thành. không ngẫu nhiên mà nó Được vào thơ, lên tranh.
theo thần thoại hy lạp thì tên hoa thủy tiên là tên chàng narcis, một chàng trai dịu hiền
và xinh đẹp đến mức chàng đâm ra yêu mình, yêu, suốt ngày soi bóng xuống dòng sông trong xanh.
chàng ngắm minh say đắm, không thể ngước nhìn lên, rồi ngã xuống song, chết, hóa thành hoa thủy tiên.
2 thủy tiên có nguồn gốc từ nhật bản, trung hoa và một số nước khác, sau mới nhập vào ta.
nó là loại cây cảnh, nhưng thân và rễ cây có thể dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh rất hay.
thân và rễ của nó có độc tố khá cao, khi dùng phải cẩn thận và theo dõi sít sao.
người ta sắc thân rễ chữa long đờm, gây nôn, phối hợp với cà độc, giúp hen xuyễn cắt cơn.
dùng dưới dạng thuốc sắc, hai, ba gam một ngày, theo chỉ dẫn bác sĩ, thường sẽ tác dụng ngay.
có thể giã nát rễ rồi đắp lên chỗ đau, chữa ung thũng rất tốt, hoặc xoa như xoa dầu.
hƯỚng dƯƠng
1 xưa, có chàng trai nọ phải đi chinh chiến xa, Để lại vợ chưa cưới phải một mình ở nhà.
chàng mở tung lồng ngực, giờ chia tay lên đường, lấy trái tim nóng hổi trao cho người yêu thương.
“no anh đã là là lính. lính không cần trái tim. anh trao nó em giữ, Để anh luôn bên em.”
cô giữ trái tim ấy trong chiếc tráp bạc con, và bắt đầu chờ đợi, chờ đợi trong héo mòn.
tháng năm trôi chậm chạp, chậm chạp tháng năm trôi. năm năm nàng chờ đợi, rồi with số gấp đôi.
bố mẹ muốn có cháu, bảo nàng đi lấy chồng. em gái nói chàng chết. nàng lắc đầu bảo không.
rồi thêm mười năm nữa, người yêu vẫn chưa về. tóc bắt đầu điểm bạc, dáng đi đã nặng nề.
chỉ trái tim vẫn thế, vẫn tràn đầy thương yêu. bà vẫn chờ trước ngõ hàng ngày, vào buổi chiều.
một hôm, bà bỗng gặp một người bạn của chàng. người này nghe kể chuyện, mắt rơm rớm, ngỡ ngàng.
sau một hồi do dự, Ông nói người yêu bà Đã chiến đấu dũng cảm, ngã xuống chiến trường xa.
Ông bỏ đi như chạy, luôn cúi mặt xuống đường vì đang tâm nói dối người đàn bà đáng thương.
thực ra hắn chưa chết, mà còn sống vùng này. hắn là tên thủ lĩnh một băng cướp gần đây.
số là khi đi lính, hắn để tim ở nhà, thành người vô tri giác, luôn xa lánh đàn bà.
hắn chỉ thích chém giết, nên khi hết chiến tranh lập một băng cướp lớn Ẩn náu ở rừng xanh.
Ông, dẫu căm ghét hắn, thương bà, lòng xót xa, nên buộc phải nói dối, cả việc hắn yêu bà.
người đàn bà tội nghiệp một hôm vội lên đường, Ôm theo chiếc tráp bạc, tìm mộ người yêu thương.
khi qua khu rừng rậm, một toán cướp nhảy ra. mặc nạn nhân que khóc, kể về người yêu bà,
bọn cướp hung dữ ấy, lấy chiếc tráp mang đi, về đưa cho thủ lĩnh. tên này mở, tức thì
nhận ra tim của hắn, trái tim vẫn còn tươi. bỗng trái tim lên tiếng bằng giọng nói with người:
“hãy vì tình nghĩa cũ, Đừng làm bà đau lòng, Để bà tiếp tục nghĩ mày là thằng đàn ông!”
tên cướp nghe, ra lệnh trả chiếc tráp cho bà, còn sai chúng dẫn đến một chiếc mộ giả vờ.
bà ngồi bên ngôi mộ, Ôm chiếc tráp, khóc thầm, thương người chồng chưa cưới bà chờ đợi nhiều năm.
rồi bà chết, sau đó, từ mộ đất ven đường mọc lên loài hoa mới, gọi là hoa hướng dương.
Đó là hoa chung thủy, cao thượng và trắng trong, hoa của những người vợ không ngừng thôi chờ chồng.
2 hoa hướng dương còn gọi nôm na là mặt trời. một loài hoa quen thuộc, Được trồng ở nhiều nơi.
hạt hướng dương vị ngọt, mát bổ, có tính bình, lại hoàn toàn vô độc, rất tốt cho thần kinh.
nó còn chữa ăn biếng, chảy máu khi đi ngoài. vỏ hạt dùng làm thuốc chữa chứng bệnh ù tai.
lá giúp tieu hóa tốt, chữa huyết áp cao lâu. hoa trừ phong, sáng mắt, chữa mặt phù, váng đầu.
rễ chữa nhọt lở loét, mưng mủ, chảy nước vàng, giúp thông đại, tiểu tiện, giảm đau và nhuận tràng.
chữa đại tiện xuất huyết: bóc vỏ hạt hương dương, ba mươi gam, sắc uống, nên cho thêm ít đường.
chữa ù tai, đơn giản lấy vỏ hạt sắc lên, mười lăm gam là đủ, uống sẽ thấy đỡ liền.
chữa tiểu tiện bị tắc – cành lá hay thân cây, khoảng hai mươi gam nhỏ, sắc uống đều nhiều ngày.
day hẤu
1 vào thời xa xưa ấy Đất nước còn hoang sơ, chưa có nhiều quả ngọt, trái thơm như bây giờ.
vua hùng thứ mười bảy có một người with nuôi là an tiêm hoàng tử, giỏi, thông minh hơn người.
vua yêu chàng nhất mực, thường ban thưởng nhiều quà. thế mà chàng, thật lạ, không cảm ơn vua cha.
ai cũng thích quà tặng, nhưng chàng thì khác người. she chàng nói: “quà được tặng là món nợ ở đời.”
vua biết chuyện, tức giận bèn nói với quần thần: “vậy thì ta để nó phải tự mình kiếm ăn.”
thế là một sáng nọ cả gia đình, vợ chồng bị lính bắt, lập tức phải ra đi tay không.
một thanh kiếm cùn gỉ phải nằn nì nhiều lần mới được chúng cho phép mang theo để phòng thân.
có một chiếc thuyền lớn Đang đợi sẵn hai người. rồi thuyền đi ra biển, mênh mông nước và trời.
gặp gió, thuyền lướt nhẹ Đi không nghỉ một ngày thì đến một đảo nhỏ chỉ toàn cát và cây.
hai người bị bỏ lại với năm ngày thức ăn Ở hòn đảo hoang vắng, không nhà cửa, không dân.
chàng an tiêm và vợ bế with đứng nhìn theo bong with thuyền bé nhỏ mất hút giữa nắng chiều.
thế là họ ở lại trên hoang vu đảo này, không nhà cửa, đồ đạc, biết sống sao qua ngày?
giỏi lo toan, tháo vát, an tiêm đưa gia đình vào hang núi ở tạm, còn chàng thì một mình
cầm kiếm dạo quanh đảo. Đảo toàn đá chỏng chơ, chỉ vài loài chim biển và cỏ dại lơ thơ.
tìm mãi, chàng cũng thấy mọc dại, không ai trồng, một ít rau và trái Ăn tạm, đỡ đói lòng.
rồi hàng ngày, từ đó vợ xuống biển mò ngao. she cá nhiều, she không có lưới, she chẳng bắt được with nào.
chàng và thằng with lớn làm bẫy bẫy chim rừng cũng có hôm bẫy được, Đốt lửa, nướng thơm lừng.
lúc đầu thật vất vả cùng muôn vàn khó khăn, nhưng họ vẫn không nản, cuộc sống cũng khá dần.
bỗng ngày nọ, chàng thấy có một with chim gì Đậu ngoài bãi, chàng đến nó liền vội bay đi.
with chim lớn bỏ lại miếng dưa bằng bàn tay. vì she thấy chim ăn được, she chàng ăn miếng dưa này.
Ôi, thật mát, thật ngọt! she chàng nhặt lấy hạt dưa, Đào lỗ, trồng xuống đất. mấy hôm sau gặp mưa,
hạt nẩy mầm xanh tốt, rồi hé nụ, đâm hoa, rồi cuối cùng kết trái, thành vườn dưa xùm xòa.
khi đến mùa jue hoạch. cả nhà bổ dưa ăn. dưa đỏ và ngọt lịm, quà tặng của thánh thần.
ruộng dưa chàng thêm rộng. Được chăm sóc hàng ngày, trái càng sai, càng lớn, vỏ mỏng, ruột càng dày.
chàng thường thả xuống biển những trái dưa của mình, mong ai đấy vớt được, dù hy vọng mong manh.
thế mà rồi bất chợt có with thuyền ghé vào. họ muốn biết dưa ấy ai trồng, và nơi nào.
từ đấy, đem dưa hấu chàng đổi lấy thức ăn và những đồ vật khác mà gia đình đang cần.
ngày càng nhiều người biết, thuyền tấp nập vào ra. cuộc sống thành dễ chịu, còn dựng được ngôi nhà.
vua hùng vương mười bảy, thường hay nhớ thương chàng, vẫn nghĩ chàng và vợ Đã chết ngoài đảo hoang.
một hôm, đang ngồi nghỉ, có người từ phương xa dâng vua quả dưa lạ. ngài ăn, khen xuýt xoa.
hỏi thì biết dưa ấy vợ chồng an tiem trồng, vua trầm tư suy nghĩ, rồi sai đem thuyền rồng
và quân lính ra đảo Đón họ về kinh đô, cùng những quả dưa hấu rất tròn và rất to.
từ đấy, dân khắp nước trồng loại dưa quí này. nhờ an tiem và vợ, ta có nó ngày nay.
nhờ phù sa bồi đắp thành đất liền, núi non, hòn đảo hoang ngày ấy nay là huyện nga sơn,
có lẽ cũng vì thế mà dưa hấu ở đây thuộc vào loại ngon nhất, ngọt, vỏ mỏng, ruột dày.
2 dưa hấu họ bầu bí, trồng nhiều ở nước ta. còn gọi là dưa đỏ, thủy qua và hàn qua.
Ở miền bắc, dưa hấu thu hoạch vào mùa hè. miền nam vào dịp tết, ngập thành thị, thôn quê.
về tác dụng dược lý, theo and học dân gian, dưa hấu giải nhiệt tốt, có vị ngọt, tính hàn.
khi dùng làm vị thuốc chỉ lấy lớp vỏ trong, gọi là tây qua thủy, Đem phơi khô trên nong.
lớp vỏ ngoài xanh cứng gọi là tây qua bì. hai loại vỏ đều tốt, cứ cất đấy, phòng khi.
dùng chữa bệnh ỉa chảy: tây qua thủy sắc dần, còn hai phần ba nước, uống mỗi ngày ba lần.
chữa bệnh cao huyết áp, viêm thận, nóng bàng quang, vàng da hoặc phù thũng, Đái buốt, đái tháo đường,
thì lấy hai loại vỏ cứ sắc lên uống dần. uống hàng ngày thay nước, không hạn chế số lần.
nước ép rễ dưa hấu Được người dân mã lai cầm máu sau khi đẻ hoặc không may sẩy thai.
còn người dân marôc có cách này rất hay: họ lấy quả dưa hấu, khoét lỗ bằng ngón tay
rồi rót mật vào đó, lấy nút đậy, và rồi vùi trong đống ngũ cốc, chỉ sau mấy ngày thôi
là dưa có men rượu, uống ngon, và cũng say. kể dân ta có lẽ cũng nên thử cách này.
cÂy hÀnh
1 ngày xưa, một nhà nọ có ba người con trai, nghèo đến mức bố chết, không mua nổi quan tài.
ba người with buộc phải lấy chiếu bọc xác cha, chọn lúc mọi người ngủ, chôn ngoài bãi tha ma.
Đêm ấy trời rất tối, lại lất phất mưa ngâu. hai người khiêng xác chết, một người cầm đèn dầu.
xác chết gầy nên nhẹ, dọc đường đã tuột rơi mà người khiêng không biết, nên khi ra đến nơi
họ chỉ chôn chiếc chiếu rồi vội vã về nhà. trời tối, đèn lại tắt họ vấp phải xác cha.
họ tưởng đó là xác của ai đấy chết đường, bèn đem chôn làm phúc ngay sát một bờ mương.
Đêm ấy người anh cả thấy có con rồng già Đến báo mộng rằng họ Đã chôn nhầm xác cha
vào đúng giữa răng nó, gây khó chịu và đau. nó bảo hãy dời mộ, rồi anh sẽ rất giàu.
anh cả sáng tỉnh dậy, thấy vàng bạc đầy nhà. không cho hai em biết, lặng lẽ dời mộ cha.
Đêm sau rồng lại đến, gặp anh hai, yêu cầu nhanh chóng dời mộ bố, rồi cũng sẽ thành giàu.
sáng dậy anh hai thấy kim cương rải đầy nhà. cũng không cho ai biết, lặng lẽ dời mộ cha.
thực chất mộ cha họ vẫn chưa được dời đi, nên đêm tiếp rồng tới gặp anh ba, nằn nì.
nó xin dời ngay mộ, hứa cho lọ nước thần. anh ba dời, việc ấy cũng giấu diếm người thân.
sáng dậy anh ba thấy một chiếc bình bình thường, hình như trong đựng nước. anh đặt nó đầu giường.
trong khi chồng đi vắng, nhìn thấy chiếc bình này, vì tò mò, cô vợ Đổ ít nước ra tay.
lập tức tay cô trắng, trắng như lông thiên nga. cô lấy nước trong lọ Đem ra tắm, thế là
nhờ phép thần nước lạ, từ cô gái nông dân cô trở thành xinh đẹp như nàng tiên giáng trần.
anh chồng về, kinh ngạc thấy vợ đẹp tuyệt vời. nên suốt ngày she ngồi ngắm, một phút cũng không rời.
việc thì nhiều, do vậy cô vợ giận, bảo anh lấy chiếc mo cau trắng vẽ hình vợ lên tranh.
anh làm theo, từ đấy, cứ đi ra khỏi nhà là mang theo tranh vợ, ngắm gần rồi ngắm xa.
một hôm, anh sơ ý ném trúng con quạ đen. nó trả thù bằng cách cắp bức tranh bay lên.
nó đem tranh đến thả Đúng chỗ vua đang ngồi. vua nhìn thấy người đẹp, mắt long lanh, và rồi
cho quân đi khắp nước tìm người vẽ trong tranh. vợ anh ba vì thế Đã được đưa vào thành.
vua thấy cô tuyệt đẹp nên đem lòng yêu ngay, phong “tây cung hoàng hậu”, mở yến tiệc đêm ngày.
thế mà cô rầu rĩ, chẳng chịu cười nói gì, dù mua vui sẵn có Đúng một nghìn nô tỳ.
vua cho mở hội lớn, hứa trọng thưởng cho người làm “tây cung hoàng hậu” dù một lần, mỉm cười.
còn cái chức tể tướng sẽ được giành cho ai làm được nàng đồng ý ngồi chơi cờ với ngài.
từ khi mất vợ đẹp, anh ba khóc suốt ngày, không còn vợ để ngắm, ngồi đực như thằng ngây.
À mà quên chưa nói. cô vợ tắm nước thần, nước thải cô đem tưới cho luống hành thay phân.
nên nó tốt kinh khủng: củ đúng bằng bình vôi, lá dài như đòn gánh, Đem nấu canh không tồi.
phần vì do buồn chán, phần cũng bởi hết tiền, anh ba đem hành bán vào những ngày chợ phiên.
anh rao to giữa chợ: “nào, ai mua hành tôi. lá dài như đòn gánh, củ to bằng bình vôi…”
thế mà ngồi cả buổi, không ai chịu mua hành. hôm sau anh quyết định vào bán dạo trong thành.
anh rao to giữa phố: “nào ai mua hành tôi. lá dài như đòn gánh, củ to bằng bình vôi…”
tiếng rao dai dẳng ấy lọt được vào hoàng cung, làm “tây cung hoàng hậu” vui, thích thú vô cùng.
vua còn thích gấp bội, bèn cho gọi anh vào. Để kiểm tra, lần nữa ngài bắt anh lại rao.
và lần nữa hoàng hậu mỉm cười khi thấy anh. Ông vua thì lại nghĩ bí quyết ở gánh hành.
thế là ngài liền bắt anh đổi áo cho vua. vua thành anh bán dạo, vừa rao vừa vui đùa.
vua bắt chước rất giống: “nào ai mua hành tôi. lá dài như đòn gánh, củ to bằng bình vôi…”
còn anh ba lúc ấy là vua, ngồi trên ngai. anh liền quát quân lính tóm cổ, bỏ tù ngài.
anh làm vua từ đấy. vợ vui, cười suốt ngày. thỉnh thoảng họ lại nhớ những tháng năm đi cày.
anh ba thì như cũ, ngắm vợ, ngắm cả tranh. nhiều hôm ra ngoài phố giả làm người bán hành.
anh lại rao vui vẻ: “nào ai mua hành tôi. lá dài như đòn gánh, củ to bằng bình vôi…”
2 hành là rau, có mặt trong bữa ăn hàng ngày, thế mà ta biết ít giá trị cây thuốc này.
hành nhiều công dụng lắm: giúp phát biểu, hòa trung, thông dương và hoạt huyết, rất lợi tiểu, sát trùng.
chữa đau răng cũng tốt, giúp tiết mồ hôi mau. nước hành sắc giảm sốt, chữa cảm cúm, nhức đầu.
ngoài ra còn tác dụng kích thích hệ thần kinh, tăng bài tiết, tiêu hóa, góp phần diệt ký sinh.
cách thức dùng: sắc nước, hay giã nhỏ hành tươi lấy nước ép mà uống hoặc xoa đều lên người.
tinh dầu hành sát khuẩn, dùng chữa bệnh ngoài da. giã hành tươi, lấy nước tưới lên mụn rồi xoa.
chữa nhức đầu, cảm mạo, vừa ngon lại vừa nhanh thì thần dược duy nhất là một bát cháo hành.
quẢ khẾ
1 hai anh em nhà nọ sớm mồ côi mẹ cha. người anh, khi lấy vợ, Đuổi em ra khỏi nhà.
ruộng đất và nhà lớn anh ta giữ cho mình. chỉ cho em cây khế và một túp lều tranh.
người em, vốn dễ tính, không một lời cằn nhằn, chỉ chăm sóc cây khế và làm thuê kiếm ăn.
không hiểu sao năm ấy cây khế trái rất nhiều. người em mừng, nghĩ bụng bán khế lấy tiền tiêu.
thế mà rồi bất chợt có with chim khổng lồ không biết từ đâu đến, mổ khế ăn kỳ no.
người em nhìn, tiếc của: “tôi chỉ có cây này. nếu chim ăn hết khế, tôi sống thế nào đây?”
with chim đáp: “Đừng sợ, tôi là người đàng hoàng. cứ ăn một quả khế, tôi trả anh cục vàng!”
hôm sau và sau nữa with chim ấy khổng lồ tiếp tục đến ăn khế, Ăn nhiều, ăn thật no.
cuối cùng with chim nói: “hãy may túi ba gang, ngồi lên lưng, tôi chở Đi đến chỗ lấy vàng.
with chim bay, bay mãi chàng chẳng nhớ bao lâu, cuối cùng đến hòn đảo Đầy bạc vàng, ngọc châu.
chàng đi dạo quanh đảo, rồi nhặt một ít vàng cho vào chiếc túi vải rộng vừa đúng ba gang.
chim bảo lấy thêm nữa nhưng chàng chỉ lắc đầu. she trở về nhà, từ đó thành một người rất giàu.
người anh, khi biết chuyện, liền đến gạ gẫm chàng, xin đem hết nhà cửa Đổi lấy cây khế vàng.
thương anh, lại dễ tính, cuối cùng chàng gật đầu. người anh tham, háo hức chờ mùa khế năm sau.
with chim kia lại đến, Ăn khế, hứa trả vàng. Ăn sắp hết, lại dặn may túi vải ba gang.
chim không biết trước đấy hai vợ chồng anh này Đã may sẵn chiếc túi rộng đúng bằng sải tay.
thành ra khi đến đảo lấy vàng xong, quay về, chim nặng, bảo vứt bớt, nhưng anh chàng không nhe.
anh ta ôm chặt túi, nhất quyết không chịu rời. chim tức giận, nghiêng cánh, rơi cả túi lẫn người.
2 Đọc truyện này, ta hiểu không ngẫu nhiên đại bàng khi ăn một quả khế hứa trả một cục vàng.
chắc chắn chim biết rõ quả khế quí thế nào, cả về mặt dinh dưỡng và chữa bệnh ra sao.
khế là cây thân gỗ thuộc họ cây chua me, thân cao năm, sáu mét, lá nhiều, mọc so le.
quả khế vị chua ngọt, lại có tính sáp bình, chữa phong nhiệt rất tốt, không độc, mà rất lành.
trị dị ứng, lở loét hay da bị sơn ăn, có thể nấu lá khế rồi xông tắm nhiều lần.
lá khế được nấu chín, liên tục ba bốn ngày Đắp lên chỗ lở loét là sẽ thấy đỡ ngay.
trẦu cau
1 ngày xưa ở làng nọ, hai anh em họ cao rất giống nhau, khó biết người nào là người nào.
năm tròn mười tám tuổi, cha mẹ họ qua đời. trước thương yêu nhau lắm, nay yêu thương gấp mười.
lưu Ông là đạo sĩ rất nổi tiếng trong làng. hai người đến tìm học. Ông cũng yêu hai chàng.
nhà có cô with gái vừa đến tuổi cập kê, nết na và xinh đẹp, thêm sắc sảo nhiều bề.
vì hai người học giỏi, cũng tuấn tú, khôi ngô, nên một người trong họ Đã lọt vào mắt cô.
khốn nỗi do giống qua, nhiều khi cô thở dài, vì chính mình không thể phân biệt ai là ai.
một hôm cô muốn thử, liền đặt bát cháo hành. họ nhường ai ăn trước, chắc chắn đó là anh.
rồi lưu Ông làm lễ cho cô và người này. có điều sau khi cưới, mọi việc khác xưa nay.
người anh, vì có vợ, dường như quên mất em. anh kia, do tủi phận, thường nằm khóc trong đêm.
người em, một ngày nọ, quay về từ cánh đồng. chị dâu ở trong bếp chạy ra, tưởng là chồng,
liền ôm hôn, nũng nịu, vừa đúng lúc người anh xuất hiện ngay trước cửa. Đúng là việc chẳng lành.
anh ta nghĩ: thật láo, thằng em tán vợ mình. nên tình vốn đã nhạt, nay càng thêm cạn tình.
người em thấy oan ức, bèn bỏ nhà ra đi. Đi, đi mãi, đi mãi, tới dòng suối rầm rì.
suối thì rộng, nước xiết, không thể qua, đành ngồi, khóc đến cạn nước mắt, chết, thành hòn đá vôi.
lại nói người anh cả, về nhà không thấy em, ngày hôm sau, giấu vợ, lặng lẽ bỏ đi tìm.
anh cũng đi đường ấy, gặp suối, không thể qua, bèn ngồi bên hòn đá, rồi khóc, lệ ướt nhòa.
anh khóc mãi, khóc mãi, chết, thành một cây cao, thân rất thẳng, thật lạ, không có một cành nào.
vợ ở nhà lo lắng, không biết chồng đi đâu. she rồi she lên đường tìm kiếm, Đi rất lâu, rất lâu.
cuối cùng đến with suối, cô ngồi khóc não lòng, không biết ngay bên cạnh là chồng và em chồng.
cô khóc hết nước mắt, người cô cứ gầy teo, rồi cô chết, lặng lẽ biến thành một dây leo.
day I read ấy quấn quít Ôm quanh cây cao kia. bên dưới là tảng đá, bộ ba không chia lìa.
khi mọi người biết chuyện, tỏ lòng thương xót thay. vua hùng một lần nọ dừng lại ở nơi này.
sau khi nghe hết chuyện, vua bèn lấy trái cây, nhai với lá day cuộn, thấy có vị cay cay.
vua nhổ vào tảng đá, thấy mặt đá sùi sôi, rồi ngả dần màu đỏ. Đó là hòn đá vôi.
cái cây cao cao ấy vua gọi là cây cau. còn lá leo quanh nó thì đặt tên lá trầu.
còn tảng đá, nung chín, sẽ có màu trắng tinh, nhai với trầu, cau ấy, môi đỏ, trông rất xinh.
từ đấy dân nước việt có tục lệ ăn trầu Để nhớ ba người chết còn gắn bó bên nhau.
2 một câu chuyện cảm động, Được truyền tụng bao đời về tình của cây cối, và cũng là tình người.
không cần thiết mô tả hình dáng cây trầu, cau. vườn nhà ai chẳng có hàng cau và bụi trầu.
cây cau có hai loại, cau rừng và cau nhà. cau rừng hạt chắc, nhỏ nhưng ăn lại đậm đà.
hạt cau rất hiệu nghiệm chữa giun sán cho người, và cả cho gia súc, một bài thuốc lâu đời.
nó còn giúp tiêu hóa, chữa viêm ruột kinh niên, uống vài gam một lượt bột hạt cau khô nghiền.
trẻ chốc đầu, đơn giản mài hạt cau, và rồi hòa một ít nước ấm cứ thế mà đem bôi.
cây trầu không, ta biết, thường đi liền với cau làm nên phong tục đẹp Đó là tục ăn trầu.
Ăn trầu, ngoài môi đỏ, nó còn làm răng đen, gái răng đen mới đẹp, ngừa sâu, lại có duyên.
lá trầu không giã nhỏ, cho thêm ít nước sôi, cứ nhằm chỗ lở loét và mẩn ngứa mà bôi.
hoặc có thể dùng nó chữa các bệnh hen ho bằng cách đắp lên ngực, làm giảm cả giật co.
nước trầu không pha loãng chữa kết mạc bị viêm. nó cũng rất công hiệu chữa chàm mặt trẻ em.
phụ nữ mới sinh đẻ sữa qua nhiều, hàng ngày có thể đắp lên vú, sẽ hạn chế điều này.
cÂy vÚ sỮa
1 ngày xưa có cậu bé ham chơi làm mẹ buồn. một lần cậu bị mắng, thế là he bỏ đi luôn.
không có gì đáng trách bằng with bỏ nhà đi. làm bố mẹ lo lắng: with ở đâu, làm gì?
cậu bé ấy lếu láo bỏ nhà đi khá lâu. làm gì không ai biết. không ai biết ở đâu.
rồi một hôm, đói khát, lại bị đánh sầy da, không biết đi đâu nữa, cậu bèn mò về nhà.
Ở nhà, vẫn như cũ, nhưng không thấy mẹ đâu. mà cậu thì đang đói, khóc, hai tay ôm đầu.
cậu khóc a gọi mẹ: mẹ ơi, mẹ về đi! thật tội cho cậu bé, muốn ăn, chẳng có gì.
cậu vừa mệt, vừa đói vì nhịn ăn suốt ngày, bèn ra ngồi trước ngõ, tựa lưng vào gốc cây.
một sự lạ xuất hiện: cái cây ấy nở hoa, rồi nhanh chóng thành trái, rơi vào lòng cậu ta.
những trái cây rất lạ, da mềm và màu xanh, có nước ngọt màu trắng như sữa mẹ ngon lành.
trên quả có đôi chỗ màu đo đỏ, tròn tròn thoáng nhìn trông thật giống Đôi mắt mẹ chờ with.
về sau loại cây ấy Được đem trồng khắp nơi. người ta gọi vú sữa, Để with cái nhớ đời.
2 câu chuyện trên có thể chỉ là chuyện ngụ ngôn. Để thêm một lần nữa nói về tình mẹ with.
có lẽ không cần thiết phải mô tả cây này, vì chúng nhiều, phổ biến Ở miền nam xưa nay.
vú sữa có xuất xứ từ quần đảo angti, nhập vào ta thời pháp, rồi nội hóa tức thì.
nó cũng là cây thuốc, rất bổ dưỡng, ngoài ra có tác dụng kích thích, giàu celluloza.
dùng dưới dạng thuốc sắc, sắc vỏ của cây này, sáu, mười gam mỗi bận, làm liều dùng hàng ngày.
cÂy Đa
1 vào những đêm trăng sáng, khi ta ngước nhìn lên mặt trăng vàng, ta thấy có hình người đen đen.
hình người đen đen ấy, lúc rõ, lúc nhạt nhòa ta thường gọi chú cuội Đang ngồi gốc cây đa.
chú là người có thật, sống từ thời xa xưa. sáng vào rừng đốn củi, ra về vào buổi trưa.
một hôm, chú bỗng gặp bốn with hổ mới sinh. chú dùng rìu đập chết mà chẳng chút rùng minh.
nhưng cũng liền sau đó chú bỗng nghe tiếng gào của hổ mẹ đang tới, liền leo lên cây cao.
thương đàn with đã chết, hổ mẹ gầm rồi rên. sau đó she nó lẳng lặng ra with suối kề bên.
nó đến một bụi rậm, cắn một nhúm lá non, rồi mang về, nhai lá, mớm cho bầy hổ with.
bầy hổ with sống lại, như không hề hấn gì. nhìn xung quanh một lượt, hổ mẹ dẫn with đi.
chú cuội liền tụt xuống, Đi tìm cây thuốc thần, nghĩ có lúc cần đến, bèn đem trồng trước sân.
thực ra cây thuốc ấy chỉ là một cây đa. cây còn non, mơn mởn, lớn nhanh, lá xùm xòa.
chú quí cây này lắm, chăm tưới nước hàng ngày, dặn đi dặn lại vợ không được tè lên cây.
bị nhắc nhiều, khó chịu, nhân hôm chồng vắng nhà, cô nàng đã vén váy tè vào gốc cây đa.
bỗng như có phép lạ, cây đa non xanh tươi vươn lên cao, bật rễ, từ từ bay lên trời.
Đúng lúc ấy chú cuội vừa đi đâu về nhà, thấy thế liền nhanh chóng Định níu giữ cây đa.
chú ngoắc rìu vào nó. nó bay lên phăng phăng, và chỉ chịu dừng lại khi lên đến mặt trăng.
và thế là chú cuội kẹt không về được nhà. Đêm nhìn trăng ta thấy chú ngồi gốc cây đa.
2 câu chuyện cổ tích ấy Đã đi vào lòng người khi ta còn bé tí rồi theo ta suốt đời.
ai một lần ngày nhỏ không ngồi gốc cây đa, chăn trâu rồi tắm mát, Đùa nghịch giữa chiều tà.
nhưng không nhiều người biết rằng chính loại cây này lại là vị thuốc quí dân gian dùng xưa nay.
Đa là cây đại thụ, thuộc họ cây dâu tằm, mà có những mấy loại, tán rộng, cho bóng râm.
rễ mọc từ cành xuống, cả lõi và da mềm, tươi, sao khô đều được, không chế biến gì thêm.
rễ tươi sắc rồi uống, chống cổ chướng xơ gan, rất lợi tiểu, liều lượng: mỗi ngày khoảng trăm gam.
thời gian uống: liên tục từ bảy đến mười ngày. lá đa tươi giã nát lấy nước dùng hàng ngày
chữa đi ngoài rất tốt. khi uống cho thêm đường. hai giờ một lần uống, khoảng một thìa bình thường.
nghe nói xưa các cụ lấy vỏ đa bồ đề làm trầu ăn rất thích, vừa đỏ lại vừa phê.
p/s: trên đây là 100 bài thơ về cây thuốc nam, cách chữa bệnh trong dân gian. nếu hữu ích mong chia sẻ cho cộng đồng, chỉ xin để lại nguồn tác giả phuc toan anh