blog Hôm Nay MUốN CHIA Sẻ ếN BạN ọC TOP NHữNG Bài THơ ườNG Luật there
giới thiệu về thể thơ Đường luật
thơ Đường luật hay thơ luật Đường là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ đời nhà Đường ở trung quốc. là một trong những dạng thơ ường bên cạnh thơ cổ phong (cổ thể thi), từ, thơ ường luật đã phat triển mạnh mẽi tại chynh hương của và lan tỏa nhi ều noi chung. thơ Đường luật còn được gọi với tên thơ cận thể để đối lập với thơ cổ thể vốn không theo cách luật ấy.
thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở 5 điều sau: luật, niêm, vần, Đối và bố c. về hình thức, thơ Đường luật có các dạng “thất ngôn bát cú” (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng chuẩn; biến thể có các dạng: “thất ngôn tứ tuyệt” (bốn câu, mỗi câu bảy chữ), “ngũ ngôn tứ tuyệt” (bốn câu, mỗi câu năm chữ), “ngũ ngôn tám chữ, m c chữ), “ngũ ngôn bát cú” (tám, m, mỗi c. năm chữ) cũng như các dạng ít phổ biến khác. người việt nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy tắc này.
những bài thơ Đường luật không nên bỏ lỡ
1. hoàng hạc lâu (黃鶴樓)
chữ hán 芳草萋萋鸚鵡洲。 日暮鄉關何處是, 煙波江上使人愁。
phienâm
tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, thử địa không dư hoàng hạc lâu. hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, bạch van thiên tải không du du. tình xuyên lịch lịch hán dương thụ, phương thảo thê thê anh vũ châu. nhật mộ hương quan hà xứ thị? yên ba giang thượng sử nhân sầu.
dịch nghĩa
người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi, nơi đây chỉ còn lại lầu hoàng hạc. hạc vàng một khi bay đi đã không trở lại, mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không. mặt song lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối hán dương rõ mồn một, cỏ thơm trên bãi anh vũ mơn mởn xanh tươi. trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi đâu? trên song khói toả, song gợn, khiến người sinh buồn!
lầu hoàng hạc ở phía tây nam thành vũ xương.
bài thơ này được sử dụng trong các chương trình sgk văn học 10 giai đoạn 1990-2006, sgk ngữ văn 10 giai đoạn tọm. 20/>
2. tĩnh dạ tứ (靜夜思) (cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh)
chữ hán 床前明月光, 疑是地上霜。 舉頭望明月, 低頭思故鄉。
phien âm
sàng tiền minh nguyệt quang, nghi thị địa thượng sương. cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương.
dịch nghĩa
Đầu tường trăng sáng soi, ngỡ là sương trên mặt đất. ngẩng đầu nhìn vầng trăng sáng, cúi đầu lại thấy nhớ quê nhà.
thuở nhỏ, lý bạch thường lên đỉnh núi nga mi ở quê nhà ngắm trăng. từ năm 25 tuổi, ông đã xa quê và xa mãi. bởi vậy, he cứ mỗi lần thấy trăng là nhà thơ lại nhớ tới quê nhà.
3. phong kiều dạ bạc (楓橋夜泊) (nửa đêm đậu bến phong kiều)
chữ hán 月落烏啼霜滿天, 江楓漁火對愁眠。 姑蘇城外寒山寺, 夜半鐘聲到客船。
phien âm
nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên, giang phong ngư hoả đối sầu miên. cô tô thành ngoại hàn san tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
dịch nghĩa
trăng lặn, quạ kêu, sương phủ đầy trời. hàng phong bên song, ngọn đèn thuyền chài ở trước người đang ngủ buồn. ngoài thành cô tô là chùa hàn san, tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.
(name 756)
4. hoàng hạc lâu tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng (黃鶴樓送孟浩然之廣陵) (lầu hoàng hạc tiễn mạnh hạo nhiên đi quảng)
chữ hán 故人西辭黃鶴樓, 煙花三月下陽州。 孤帆遠影碧空盡, 惟見長江天際流。
phien âm
cố nhân tây từ hoàng hạc lâu, yên hoa tam nguyệt há dương châu. cô phàm viễn ảnh bích không tận, duy kiến trường giang thiên tế lưu.
dịch nghĩa
bạn cũ từ biệt tại lầu hoàng hạc đi về phía tây, tháng ba hoa khói, xuống dương châu. bong chiếc buồm đơn màu xanh mất hút, chỉ thấy trường giang vẫn chảy bên trời.
(name 726)
hoàng hạc lâu ở tây nam huyện vũ xương, tỉnh hồ bắc. quảng lăng nay thuộc huyện giang Đô, tỉnh giang tô.
bài thơ này được sử dụng trong các chương trình sgk văn học 10 giai đoạn 1990-2006, sgk ngữ văn 10 giai đoạn từ 2007
5. Đề đô thành nam trang (題都城南莊) (thơ đề ở ấp phía nam đô thành)
chữ hán 去年今日此門中, 人面桃花相映紅。 人面不知何處去? 桃花依舊笑春風。
phien âm
khứ niên kim nhật thử môn trung, nhân diện đào hoa tương ánh hồng. nhân diện bất tri hà xứ khứ, Đào hoa and cựu tiếu xuân phong.
dịch nghĩa
năm trước ngày này ngay cửa này, mặt người, hoa đào ánh hồng lẫn nhau. mặt người chẳng biết đã đi đâu, vẫn hoa đào năm ngoái đang cười giỡn với gió xuân.
theo tình sử của phùng mộng long, thôi hộ nhân tiết thanh minh một mình đi chơi về phía nam đô thành, thấy một ấp trại chung quanh đầ. Thôi hộ gõ cửa xin nước uống, một người with gai mở cổng, hỏi tên họi rồi bưng nước ến, người with gai sắc ẹp ậm đà, duyên dáng, tình ý, dịu dàng k. NăM SAU, CũNG Vào Tiết Thanh Minh, Thôi Hộ Lại ến tìm người cũ thì cửa đegon Then cài, nhân đó mới ề lên canh cửa bên trai bày.ơ người with gai xem thơ, nhớ thớng rồ chợt thôi hộ đến, nghe tiếng khóc bèn chạy vào ôm thây mà khóc. người with gái bỗng hồi tỉnh rồi sống lại. Ông bố bèn đem cô gái gả cho thôi hộ. cũng từ điển này, người ta thường ví mặt người con gái đẹp với hoa đào.
6. mao ốc vị thu phong sở phá ca (茅屋為秋風所破歌) (bài ca nhà tranh bị gió thu phá)
chữ hán 八月秋高風怒號, 卷我屋上三重茅。 茅飛渡江灑江郊, 高者掛罥長林梢, 下者飄轉沉塍。童欺 我 無力 , 忍能 對面 為 盜賊 公然 抱茅 入竹去 , 唇焦口 燥呼不得 , 歸來 歎息。 俄 頃風 定雲墨色 , 秋天 漠 漠 向 昏 黑。 布衾 多 多 年 冷 冷 似 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵 鐵。。。。 黑 黑 黑驕兒 惡。 床頭 屋 漏無干處 , 雨腳 如 麻未斷。 自 經 喪亂少 睡眠 , 長夜 何由 徹! 安得 廣廈 千萬 間 , 大庇 天下 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 寒士俱歡顏 間 間 間 間 間 間 間風雨不動安如山! 嗚呼!何時眼前突兀見此屋, 吾廬獨破受凍死亦足!
phiên âm bát nguyệt thu cao phong nộ hào, quyển ngã ốc thượng tam trùng mao. mao phi độ giang sái giang giao. cao giả quai quyến trường lâm sao, hạ giả phiêu chuyển trầm đường ao. nam thôn quần đồng khi ngã lão vô lực, nhẫn năng đối diện vi đạo tặc. công nhiên bão mao nhập trúc khứ, thần tiều khẩu táo hô bất đắc. qui laiỷ trượng tự thanán tức. nga khoảnh phong định vân mặc sắc, jue thiên mạc mạc hướng hôn hắc. bố khâm đa niên lãnh tự thiết. kiều nhi ác ngoạ đạp lý liệt. sàng đầu ốc lậu vô can xứ, vũ cước như ma vị đoạn tuyệt. she tự kinh táng loạn thiểu thuỵ miên, trường dạ chiêm thấp hà do triệt. an đắc quảng hạ thiên vạn gian, Ðại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan, phong vũ bất động an như san. Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc, ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc.
dịch nghĩa
tháng tám, trời thu cao, gió giận dữ gào thét, cuốn đi ba lớp cỏ tranh trên mái nhà ta. cỏ tranh bay qua song, rải xuống miền đất bên song. cao thì vắt vẻo treo trên ngọn cây rừng; thấp thì tả tơi rơi chìm xuống ao nước. lũ trẻ xóm nam khinh ta già yếu, nhẫn tâm làm giặc cướp ngay trước mặt ta. chúng công khai ôm cỏ tranh đi vào trong xóm trúc; ta khô môi rát miệng, kêu thét mà không được. trở về, chống gậy, thở that. một lát sau, gió yên mây đen như mực. trời thu bat ngát đen tối lúc chiều tà. chiếc chăn vải dùng nhiều năm, lạnh như sắt, bị đứa with thơ khó ngủ đạp rách toang. Ở đầu giường mái nhà dột, không chổ nào khô; vết mưa nhiều như gai vẫn còn chưa hết. từ khi gặp cơn loạn lạc, minh ít ngủ, suốt đêm dài ướt đẫm, biết làm sao hết được! Between sao có được ngàn vạn gian nhà lớn, Để giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ, không bị kinh động vì mưa ổ, yn i nonưúgó! hỡi ôi, biết bao giờ ược trông thấy nhà này ứng cao sững trước mắt, dù cho riêng nhà ta bị phá vỡ, mình có chịu réc n chết, cũng long thong! (name 761)
7. vọng lư sơn bộc bố (望廬山瀑布) (xa ngắm thác núi lư)
chữ hán 日照香爐生紫煙, 遙看瀑布掛前川。 飛流直下三千尺, 疑是銀河落九天。
phien âm
nhật chiếu hương lô sinh tử yên, dao khan bộc bố quải tiền xuyên. phi lưu trực há tam thiên xích, nghi thị ngân hà lạc cửu thiên.
dịch nghĩa
mặt trời chiếu xuống núi hương lô sinh ra màu khói aunt, từ xa nhìn thác nước treo như with song trước mặt. bay chảy thẳng xuống từ ba nghìn thước, ngỡ là ngân hà rơi khỏi chín tầng mây.
(name 725)
8. thu hứng kỳ 1 (秋興其一)
chữ han 玉露 凋傷楓樹林 , 巫山 巫 蕭森。 江間 波浪 兼天湧 , 塞上 風雲 地 陰。 叢菊 兩 開 他 日淚 , 孤舟 孤舟 一繫 故 故 園心 園心 園心 園心 園心 園心 園心 園心 園心 園心 園心 園心 園心 園心 故 故 故 故 故 故 故 故 故 故 故。 寒衣處處催刀尺, 白帝城高急暮砧。
phien âm
ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, vu sơn, vu giáp khí tiêu sâm. giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, tái thượng phong vân tiếp địa âm. tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, cô chu nhất hệ cố viên tâm. hàn y xứ xứ thôi đao xích, bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
dịch nghĩa
móc ngọc tơi bời ở rừng phong, khí ở núi vu và kẽm vu ảm đạm mịt mờ. trên song, nước và trời cùng trôi chảy, ngoài ải, gió và mây liên tiếp mù đất. cúc từng chòm nở hai lần dòng lệ xưa, thuyền lẻ loi buộc chặt mối tình quê cũ. nơi nơi giục giã dao thước may áo rét, tiếng chày chiều dồn dập thành cao bạch Đế.
(name 766)
bài thơ này được sử dụng trong các chương trình sgk văn học 10 giai đoạn 1990-2006, sgk ngữ văn 10 giai đoạn từ 2007
9. lương châu từ kỳ 1(lương châu từ kỳ 1) (涼州詞其一)
chữ hán 葡萄美酒夜光杯, 欲飲琵琶馬上催。 醉臥沙場君莫笑, 古來征戰幾人回。
phien âm
bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi. tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu, cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi.
dịch nghĩa
rượu bồ đào c cùng với chén lưu ly muốn uống nhưng đàn tỳ bà đã giục lên ngựa says khướt nằm ở sa trường, anh chới xia nay chinh chiến mấy ai trở đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ
lương châu nay thuộc tỉnh cam túc, giữa lan châu và vũ uy, trước đây là nơi hàng bao thế kỷ người hồ và người hán đánh nhau. lương châu từ là một điệu hát cổ của nói về chuyện trận mạc biên ải. những điệu hát cổ như: thượng chi hồi, chiến thành nam, thương tiến tửu, quân mã hoàng, viễn như kỳ, hoàng tước hành, lạc mai ưc há, v.v.
10. hiệp khách hành (俠客行)
chữ hán 趙客縵胡纓, 吳鉤霜雪明。 銀鞍照白馬, 颯沓如流星。 十步殺一人, 千里不留行。 事了拂深藏身 與。 閑過 信陵飲 , 脫劍膝 前 橫 將 炙啖 朱亥 , 持觴 勸侯嬴 三 杯 吐然諾 , 五岳倒 輕。 眼花耳熱 後 後 , 意氣素 霓生。 救 救 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙 趙揮金鎚, 邯鄲先震驚。 千秋二壯士, 烜赫大樑城。 縱死俠骨香, 不慚世上英。 誰能書閣下, 白首太玄。
phien âm
triệu khách mạn hồ anh, ngô câu sương tuyết minh. ngân an chiếu bạch mã, táp đạp như lưu tinh. thập bộ sát nhất nhân, thiên lý bất lưu hành. sự liễu phất and khứ, thâm tàng thân dữ danh. nhàn qua tin lăng ẩm, thoát kiếm tất tiền hoành. tương chích đạm chu hợi, trì thương khuyến hầu doanh. tam bôi thổ nhiên nặc, ngũ nhạc đảo vi khinh. nhãn hoa nhĩ nhiệt hậu, Ý khí tố nghê sinh. cứu triệu huy kim chuỳ, hàm Đan tiên chấn kinh. thiên thu nhị tráng sĩ, huyên hách Đại lương thành. túng tử hiệp cốt hương, bất tàm thế thượng anh. thuỳ năng thư các hạ, bạch thủ thái huyền kinh.
dịch nghĩa
khách nước triệu đeo giải mũ thô sơ thanh thanh ngô câu sáng như sương tuyết y y lo de logno de m. Áo ra đi ẩn kín thn thế cùng danh tiếng lúc nhàn rỗi qua nhà thin lăng qun cởi kiếm ra ểể ngang gối đem chảng mời chu hợi cầm ch énhărượan dont bant hà l. là nhẹ sau khi mắt hoa, tai nóg bừng ý khí như cầu vồng trắng bốc sinh vung cây chuỳ cứu nước triệu thành hàm đan trước tiên đ -chấn kinh hai tráng sĩ ngàn n n n n n n n thế gian ai là người có thể ngồi viết sách dưới gác bạc đầu với cuềán thốn huy>
nguỵ vô kỵ được anh là nguỵ an ly vương phong làm tín lăng quân. Ở thành Đại lương, kinh đô của nước nguỵ, có một ẩn sĩ 70 tuổi tên là hầu doanh. tín lăng quân rất trọng hầu doanh, tôn làm thượng khách. hầu doanh tiến cử người đồ tể tên là chu hợi, cũng là một ẩn sĩ hiền tài. năm thứ 20 đời nguỵ an ly vương, quân tần vây thành hàm Đan của nước triệu. vua nguỵ sai tướng tấn bỉ mang quân sang cứu triệu, nhưng sau sợ uy thế của tần, do đó không tiến quân. tín lăng quân vì bạn là bình nguyên quân đang bị vây ở triệu, hết lời xin vua nguỵ cho tiến quân, nhưng vua nguỵ không nhe. theo kế của hầu doanh, tín lăng quân nhờ vương phi như cơ, lấy trộm được binh phù của vua nguỵ, đem đi ra lệnh cho tấn bỉ qu tin. tấn bỉ nghi ngờ không tuân lệnh. chu hợi liền rút cây chuỳ sắt nặng 40 cân, giết chết tấn bỉ. nhờ đó tín lăng quân dem quân đánh đuổi được quân tần, cứu nguy cho thành hàm Đan và bình nguyên quân.
11. Đáp hồ châu ca diệp tư mã vấn bạch thị hà nhân (答湖州迦葉司馬問白是何人)
chữ hán 青蓮居士謫仙人, 酒肆藏名三十春。 湖州司馬何須問?金粟如來是後身
phiên âm thanh liên cư sĩ trích tiên nhân,
tửu tứ tàng danh tam thập xuân.
hồ châu tư mã hà tu vấn ?
kim túc như lai thị hậu thân.
dịch nghĩa
cư sĩ làng thanh liên người vốn là tiên bị đày
uống rượu thoải mái mai danh đã ba mươi năm
tư mã hồ châu hỏi tới làm gì ?
kiếp sau sẽ là kim túc như lai đấy.
12. quân hành (軍行)
chữ hán 騮馬新跨白玉鞍, 戰罷沙場月色寒。 城頭鐵鼓聲猶震, 匣裏金刀血未乾。
phiên âm lưu mã tân khoa bạch ngọc an,
chiến bãi sa trường nguyệt sắc hàn.
thành đầu thiết cổ thanh do chấn,
hạp lý kim đao huyết vị can.
dịch nghĩa
ngựa hoa lưu mới cưỡi, yên cẩn ngọc trắng,
sa trường sau cuộc chiến mặt trăng sắc lạnh lẽo.
Ở đầu thành tiếng trống sắt như còn vang động,
Đao mạ vàng trong bao còn chưa khô máu quân thù.
trên đây là những bài thơ Đường luật được yêu thích nhất. chắc hẳn ai trong số mỗi chúng ta đều đã được nghe hoặc đọc qua một trong số những sáng tác này. Đy ều là những sáng tac there are và ặc sắc ược viết bởi các tên tổi ại thụ như thôi hiệu, lý bạch, ỗ phủ … blog Hy vọng bạn sẽ thích những bài thơ ơ ơ ườ ườ ườ ườ ườ ườ ườ ườ ườ