Trong bài viết này chúng tôi sẽ giúp các bạn tìm hiểu thông tin và kiến thức về Nghi luan van hoc van te nghia si can giuoc hay nhất được tổng hợp bởi mvatoi.com.vn
phân tích văn tế nghĩa sĩ cần giuộc – văn tế nghĩa sĩ cần giuộc là một trong những tác phẩm tiêu biểu của nguyễn đình chiểu ược ưa vào giêng dạn ăng n ă n ăng trìng trĩng trĩng trĩng trĩng trĩng trĩng trĩng t. cần giuộc để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. dưới đy là mẫu dàn ý pHân tích văn tế nGhĩa sĩ cần giuộc c cùng với các bài văn pHân tích vă tế nGhĩa sĩ cần giuuộc there are nhất đâược hoatieu tổp xin xin nin ch.
- the 6 best bài phân tích câu cá mùa jue
- phân tích việt bắc hay nhất
- 6 bài phân tích tây tiến của quang dũng hay nhất
- top 8 mẫu phân tích hình tượng người nông dân nghĩa si trong văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
văn tế nghĩa sĩ cần giuộc là một bài văn tế được tác giả nguyễn Đình chiểu sáng tác để ngợi ca, thương tiếc và kính phục những nghĩa quân đã anh dũng đứng lên chống thực dân pháp tại cần giuộc vào năm 1861. qua bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc, người đọc có thể thấy được những người chiến sĩ áo vải can trường, bất khuất chỉ là những người nông dân nghèo khổ nhưng họ đã anh dũng đứng lên để đấu tranh khi thực dân pháp sang xâm lược. trong bài viết này hoatieu xin chia sẻ một số bài văn mẫu phân tích văn tế nghĩa sĩ cần giuộc hay và chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo.
mời các bạn cùng tham gia group bạn Đã học bài chưa để cập nhật các kiến thức mới bổ ích về học tập cùng với hoatieu>.
1. dàn ý phân tích văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
i. mở bài
– vài nét về nguyễn đình chiểu: một tác giả mù nhưng nhân cách vô c cá, cao ẹp, là một ngôi sao sáng thn bầu trời văn hộàn v. ọc dân v. ọc dân v. ọc dân t
– Đôi nét về văn tế nghĩa sĩ cần giuộc: bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương nhưng câp</
ii. thanks bài
1. phần lung khởi: khái quát bối cảnh thời đại và lời khẳng định sự bất tử của người nông dân nghĩa sĩ
+ “hỡi ôi!”: câu cảm thán thể hiện niềm tiếc thương chân thành, thiết tha, thương tiếc
+ “sung giặc đất rền”: sự tàn phá nặng nề, giặc xâm lược bằng vũ khí tối tân
+ “lòng dân trời tỏ”: đánh giặc bằng tấm lòng yêu quê hương đất nước ➨ trời chứng giám
nghệ thuật đối lập nhằm thể hiện khung cảnh bão táp của thời đại, những biến cố chính trị lớn lao.
2. phần thích thực: hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân cần giuộc
a. nguồn gốc xuất thân
+ “cui cut làm ăn”: hoàn cảnh sống cô đơn, thiếu người nương tựa
– nghệ thuật tương phản “chưa quen – chỉ biết, vốn quen – chưa biết.
➨ tác giả nhấn mạnh việc quen và chưa quen của người nông dân để tạo ra sự đối lập về tầm vóc của người anh.</p.
b. lòng yêu nước nồng nàn
khi thực dân phap xâm lược người nông dân cảm thấy: ban ầu so sợ ➨ trông chờ tin quan ➨ ghét ➨ că thieve ➨ ứng lên chống lại.➨ diễn biến tâm trạng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng Thai độ
– thái độ đối với giặc: căm ghét, căm thù đến tột độ
– nhận thức về tổc quốc: họ không tha tha những kẻ thù lừa dối, bịp bợm ➨ họ chiến ấu một cach tự nguyện: “nào ợi đòi ai bắt …”
c. tinh thần chiến đấu hi sinh của người nông dân
– quân trang rất thô sơ: một manh áo vải, ngọn tầm vông, lưỡi dao phay, rơm con cúi đã đi vào lịch sử.
– lập được những chiến công đáng tự hào: “đốt xong nhà dạy đạo”, “chém rớt đầu quan hai nọ”
– “ạp rào”, “xô cửa”, “liều mình”, “đâm ngang”, “chém ngược” …: ộng từ mạnh chỉ hành ộng mạnh mẽ với mật ột ộ ộ ộ cao nh soi n. /p>
➨ tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân nghĩa sĩ đánh giặc cứu nước.
3. phần ai vãn: sự tiếc thương và cảm phục của tác giả trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ
– hình ảnh gia đình: tang tóc, cô đơn, chia lìa, gợi không khí đau thương, buồn bã sau cuộc chiến.
– sự hi sin
➨ tiếng khóc lớn, tiếng khóc mang tầm vóc lịch sử
4. phần kết: ca ngợi linh hồn bất tử của người nghĩa sĩ
– tác giả khẳng định: “một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ: danh tiếng nghìn năm con lưu mãi
– Ông cũng nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân
– Đây là cái tang chung của mọi người, của cả thời đại, là khúc bi tráng về người anh hùng thất thế.
➨ khẳng định sự bất tử của những người nghĩa sĩ.
iii. kết bài
– trình bày suy nghĩ bản thân.
2. phân tích văn tế nghĩa sĩ cần giuộc there is nhất
văn tế nghĩa sĩ cần giuộc như một “bức tượng đài nghệ thuật sừng sững hiên ngang” mà lạ thay gót thời gian khôn hề t. nguyễn Đình chiểu – with người ấy đã đi xa chúng ta từ lâu lắm rồi nhưng những áng văn thơ của người còn trẻ mãi,
ỏ
hỡi ơi
sung giặc đến rền lòng dân trời tỏ.
câu thơ tứ tự mở đầu tách đôi ra làm hai vế gãy gọn nhưng sức khái quát của nó thật lớn. chỉ ngần ấy câu chữ đã vẽ lên một cách, toàn diện về những điều mà người viết muôn gửi gắm: tội ác và nghĩa v. cág tan cá v. give.
mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn mà danh nổi tợ pha
một trận nghĩa đánh tây tuy là mất mà tiếng vang như mỏ.
Đã rõ hơn rồi, tác giả muốn nói điều gì. Câu thơ phản ang sự tương pHản, giữa “mười năm công vỡ ruộng” và “một trận nGhĩa đánh tây” – sức vùng lên mạnh mẽ, quyết liệt, mau lẹ của những người người người người người ngườ mười năm vỡ ruộng ít ai biết đến, thế một trận nghĩa đánh tây, những con người nghĩa sĩ đã gây được “tiếng m vang nh”. tứ thơ như báo trước cái anh hùng của họ, sức mạnh của họ và cả cái bi thương tất yếu nữa.
nhớ linh xưa cui cut làm ăn
riêng lo nghèo khó.
hình ảnh những with người bình thường hiện lên, những with người sẽ làm nên lịch sử ấy, họ chẳng phải là ai cả, chỉ là những with người sống sau l là ặng, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, , sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau, sau. mà hello sinh. họ hi sinh khi “tổ quốc cần”. và hình ảnh của họ trở nên cao đẹp từ đó. họ chỉ là những người quen lấm láp với công việc cấy cày.
chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhưng, chỉ biết:
ruộng trâu ở trong làng bộ.
việc cuốc việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm.
tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó.
CUộC SốNG CủA Họ LặNG THầM, NGày NGày Chỉt Biết Lăn Cùng miếng cơm Manh Áo NHưNG CUộC SốNG NGHèO đói vẫn ghì sat đ họ chưa bao giờ hình dung nổ lần đầu nghe tin giặc pháp giày xéo họ cũng có tâm lí chung của những người “dân đen” “with đỏ”, lo sợ, trông đợi rồi thất vọng.
tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng trông tin quan như trời hạn trông mưa mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm ghét thói mọi như nhé. chờ mong “tin nhạn” nhưng rồi nhạn vắng bong. họ đi từ thắc thỏm hi vọng đến vô vọng, từ lo sợ, hoảng loạn đến căm ghét – cái căm ghét trong mơ hồ.
bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan
ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.
cho dù sự căm ghét chỉ được phôi thai qua ý niệm mơ hồ nhưng sự phẫn nộ đã dâng lên ngùn ngụt. họ muốn lao ra bằng tay không để “ăn tươi nuốt sống kẻ đã gây bao tội ác”. Ọc tới đy, ta chợt nhớ lại lời hịch sag sảng, vag vọng một thời của trầc quốc Tuấn “ta thường tới bữa quên Ăn, nửa đm vỗ gối, ruột đt đt ắt, n ịm ớn vò xé tâm can thôi thúc with người hành ộng, thôi thúc with người muốn “nuốt gann uống Máu quân thù” Cho hả dạ. thấy nhục nhã nếu như cứ ể ể cho lũ “chó má” ấy giày xéo lên những giá thinh thần của tộc ngàn thu vte n.
một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu
hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Ý thức được như thế, họ đã đi đến quyết tâm làm một cuộc nổi dậy. họ vùng lên tinh thần sẵn sàng tự nguyện.
nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình
chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
họ đã hình dung ra một cuộc chiến tranh chính nghĩa. họ chẳng cần phải trốn tránh khi tiếng gọi của quê hương tha thiết đến thế. Họ Biết phải chiến ấu, xả thân ể giữy bờ ao bụi chuối, giữ lấy mảnh ất biết mấy thân yêu gắn bó, giữ lấy những đuều thiêng lêng mà hwn ọng. hình ảnh của họ thật đẹp, những tấm lòng của họ thật cao cả. hình ảnh ấy thật khác xa với người lính trước kia khi phải ối mặt với tiếng trống giục quân bắt bớ “bước chân xuống thuyền nướt như mưa”. <.
người nghĩa sĩ của nguyễn Đình chiểu bước vào cuộc chiến đấu vẫn mang một màu bình dị sáng trong. Họ là những người “dân ấp dân lân” với những vũ khí thô sơ, chỉ là một ngọn tầm vông, một nùi rơm, with Cúi, thế nhưng họ đt nhữn những trang sử hàe h. họ thật cao đẹp, thật anh hùng và tràn đầy dũng khí. bên trong “manh áo chật” đáng thương, nhỏ bé lại chứa đựng bao điều lớn lao, cao cả.
hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong nhà dạy đạo kia gươm đeo dùng hằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai họ.
họ là những with người bình dị nhưng anh hùng. khi cầm cuốc làm ruộng họ là những con người hiền như đất, như khoai song khi đối mặt với kẻ thù, họ không kém phần dợn. họ hòa hợp bằng tinh thần đoàn kết của người dân áo vải đất việt. cái tinh thần đoàn kết mà trước đây nguyễn trãi từng ngợi ca trong cáo bình ngô.
nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới.
nguyễn đình chiểu đã vẽ lên hình ảnh của họ – của những con người cụ thể trong công cuộc đánh tây bằng một tâm n trôn, ᥥchng
chi nhọc quan quản gióng, trống kỳ, trống giục đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không
nào đợi thằng tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có
kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho mã tà ma ní hồn kinh
bọn hè trước lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
ngòi Bút của nguyễn đình chiểu Sung sướng vung lên như một thanh gươm trên chiến trường trước sức mạnh ồ ạt, tấn công dồn dập như vũ bão của những ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng cách ngắt nhịp ngắn gọn đã tạo nên một khí thế xông trận bừng bừng, mang hơi thở gấp gáp của cuộc hỗn chiến. trong khung cảnh ấy, tung hoành giữa chiến địa chỉ còn có người nông dân mộ nghĩa anh dũng, oai phong lẫm liệt. giọng thơ có khác nào hồn cáo của nguyễn trãi mấy trăm năm về trước.
ngày mười tám trận chi lăng, liễu thăng thất thế
ngày hai mươi trận mã yên, liễu thăng cụt đầu
ngày hăm lăm, bá tước lương minh bại trận tử vong
ngày hăm tám, thượng thư lí khánh cùng kế tự vẫn
nguyễn Đình chiểu có lẽ cũng muốn lắm, để viết được những sự thất bại chồng chất của kẻ thù. nhưng ở đây ta thấy trận đánh dù có rầm rộ đến đâu đi nữa nó cũng mang tính chất của người dân cầm cuốc, đãm cày. họ thất bại là phải, bởi lẽ:
mười ban võnghệ nào đợi tập rèn
chín chục trận binh thư không chờ bày bố.
Đấy là những cơn người anh hùng nhưng rất đáng thương. nhìn hoàn cảnh đánh giặc của họ, ai mà không xót xa cho những con người cụ thể và xót xa cho cả toàn đất nước. bởi thế âm điệu thơ như mặt hồ đang nổi song bỗng dưng lắng xuống, đang hừng hực lửa chi ến trận bỗng chốc trởc hoang vắng lạnh lùng, mang m ắc Bi ươt.
những lăm lòng nghĩa lâu dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ …
Đoái sông cần giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng.
nhìn chợ trường bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
những câu thơ như câm lặng trôi trong niềm kí ức của tác giả. nhà thơ gửi một nỗi tiếc thương vô hạn cho những người đã khuất. cái chết của họ làm cho cả trời đất, cây cỏ tang thương, nhỏ lệ, cái chết nhuốm màu sầu ải lên vạn vật. cả một bầu trời âm u, tối tăm trước sự hi sinh mất mát của những người nghĩa sĩ.
chùa tông thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm.
Đồng lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều.
não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bong xế dật dờ trước ngõ.
những hình ảnh thương tâm ấy gặm nhấm tâm can ta, linh hồn ta đau nhức. nguyễn Đình chiểu đã nhân danh lịch sử mà cất tiếng khóc cho những người anh hùng hi sinh vì tổ quốc. từ những âm thanh sầu thảm vang vọng lên qua đoạn văn, chúng ta không phân biệt ược đu là tiếng khóc của tác giả, Ƒnhă mănh dân thht tht. ngòi bút của nguyễn Đình chiểu đã hội tụ lại mọi nỗi đau để cất lên tiếng khóc cao cả.
Sau Phút Giây đau Thương, NứC Nở, Lời Ván đang ắm Chìm Trong Thảm ạM Bỗng Tỉnh Táo Hẳn Lên, Nêu Bật Một Quan Niệm Tuyệt Vời về nhân Sinh, về sết.
sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn.
sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh.
hơn còn mà chịu chữ đầu tây, ở với man di rất khổ.
nguyễn đình chiểu đã ưa ra một quan điểm mang tính nhân văn sâu sắc: thà chết chứt nhất ịnh không chịu làm nô lệ, làm những điều nhơ bẩn, ô. câu thơ “sống đánh giặc thác cũng đánh giặc” dược nêu cao như một chân lí sống rực rỡ, chói ngời. chân lí ấy đã xua tan bao cảm giác bi thương, mất mát của người nghĩa sĩ đã dâng trọn tấm thân mình cho đất nước, quê hương.
thác mà trả nước non rồi nợ, sánh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen.
thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ.
họ là những tấm gương sáng cho muôn đời with cháu mai sau. Linh Hồn NGườI NGHĩA Sĩ Trong Tưởng niệm Thành Kính của tac giả vẫn níu lấy cuộc sống ể ể Theo đuổi ến cùng sự nghiệp giết giặc cứu nước, vớ.
Ôi chết thế không thể nào chết được
không thể chết những người dân yêu nước
những with người không chịu ô danh.
(tố hữu)
họ đã vui vẻ hoàn thành nghĩa cả cao đẹp như một người nông dân “cày xong thửa ruộng”. cái chết của họ như một giấc ngủ trưa yên lành, bình thản. nhưng cái yên lành, bình thản ấy lại gợi nỗi đau nhức nhối trong tâm tưởng của bao kiếp người.
với lối văn bình dân, giản dị, dùng nhiều thành ngữ, lời Ăn tiếng nói ời thường, nguyễn đình chiểu đã xây dựng lênh tượng ng nghi ngh. qua “bức tượng đài nghệ thuật” ấy tác giả gửi gắm một quan niệm sống tốt đẹp. văn tế nghĩa sĩ cần giuộc là tiếng khóc cao cả của một tấm lòng giàu tình dân, nghĩa nước.
văn tế nghĩa sĩ cần giuộc đã khép lại nhưng lịch sử dân tộc vẫn được mở ra. Và chung ta – những người with của ất nước phải nhớ giữy giá trị ngàn ời mà bao thế hệ, bao lớp người từng xây dựng nên giang sơn, gấm vócày nay. Điều mà nguyễn khoa Điềm đã xúc động viết lên những lời thơ xiết bao ân nghĩa.
có biết bao người con gái con trai
trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
họ đã sống và chết
giản dị và bình tâm
nhưng họ đã làm nên Đất nước.
(Đất nước)
3. phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc ngắn gọn – mẫu 1
nguyễn Đình chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. cuộc đời ông phải trải qua nhiều bi kịch đau khổ và bất hạnh. có lẽ vì vậy mà hơn ai hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân pháp sang xâm lược nước ta. năm 1859 giặc pháp tràn vào sông bến nghé chiếm thành gia Định, ông phải vào quê vợ ở thanh ba, cần giuộc lánh tạm. về phía thực dân pháp sau khi chiếm được thành gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng lâ. cần giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc pháp tràn đến. những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đã đứng dậy đấu tranh. họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Ỗ Quang, Tuần Phủ Gia ịnh Giao Cho Nguyễn đình Chiểu Làm Bài Văn Tế ọc tại Buổi Truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sin với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, nguyễn Đình chiểu đã viết bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc. bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ cần giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh tây.
hỡi ôi!
sung giặc đất rền; lòng dân trời tỏ…
khi tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Chynh từ sự gian nguy, đau thương đó, tình yêu ất nước của những người nông dân bình thường mới ược thể hi ẹp thực sự của tâm hồn trong hhn ỏc.
tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổc của những người nông dân bình dị càng ược thể hiện một cach rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã lín tục dùc dùc dùn tục dù. salt.
nhớ lính xưa:
cui cut làm ăn; toan lo nghèo khó,
chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó…
trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. trong cuộc sống, họ có nỗi lo toan “miếng cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nhà nông: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. họ chưa biết đến “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. những người nghĩa sĩ ở đy chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận, chưa ược luyện rèn, chỉ vì lòng y chính ghís
thì ra cái bi kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, không hiểu được lòng dân yêu nước. lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm chế:
mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ…. bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. lòng yêu đất nước tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh. vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính từ lòng căm thù giặc sục sôi. chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
trong những tac pHẩm pHản ối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đy, người nông dân khi pHải đi làm lynh biên thú phương xa , người nông dân của nguyễn Đình chiểu lại hoàn toàn khác. Họ tự giac, tự nguyện ứng lên chiến ấu ể bảo vệ giang sơn, tổcc, ấy là nét ẹp bản chất nhất trong hành ộng của người nông dân – nghĩa sĩc. Ến đy không chỉ vẻ ẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ ẹp trong hành ộng của những người nghĩa sĩ nông dân y y nước cũng ốãc ư từ cái động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo ra cho họ sức mạnh vô cùng lớn. họ đã hành động, đứng lên chống giặc ngoại xâm. không chờ bày bố mà chỉ “ngoài cật có một manh áo vải nào dại mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắnón dao”. hình ảnh người nông dân được hiện lên trong tác phẩm khiến cho chúng ta vừa cảm thấy tự hào và xen lẫn niềm xót xa. những người nghĩa sĩ dường như đóng vai trò là hiện thân của cả một sức mạnh dân tộc. Ối mặt với kẻ thù lớn mạnh với “ạn nhỏ, ạn to”, “tàu thiếc, tàu ồng” với ội quân xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí ể họng chống chống lại một ngọn tầm vông”, “chỉ có” lưỡi dao phay “và chỉ là những” hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. thử hỏi rằng đem những thứn đó ra ối chọi với àn củn thá. . cái sự thật phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ cần giuộc, cũng là tấn bi kkc ủt. tấn bi kịch này đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
nhưng cũng chính từ cái tấn bi kịch này mà đà làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa Ựnông n. Bằng sự ngoan cường, Lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên ược những điều phi thường, chính họ đã cất lên ược bản anh hùng ca chiến tranh của tộc. Bất chấp sựmm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sựi lập của hoàn cảnh chiến ấu, họ vẫn quyết chiến và quyt thắng, lấy tinh thần xả thhn vì ngh ể ĩ ì thu. Hoàn cảnh chiến ấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến ấu bằng chinh tinh thần sự quyết chiến không sợ hi sin ni hiệu quiến ấu lạt c.
chỉ với những vũ khí thô sơ như:
hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
gươm đeo dùng bằng lười dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh..
chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ ẹp rực rỡ hào quang của chủa nghĩa yêu nước, dường như đ lu mờ đi cai thời kì đen tiối >
cảm xúc chủ đạo của bài văn tế là cảm xúc bi tráng, lời văn rắn rỏi, âm điệu sôi sục, dồn dập. nghệ thuật đối đã phát huy hiệu quả cao nhất của nó. tất cả hợp thành một âm hưởng chiến trận hào hùng, phấn khích của một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi Bút tac giả hoàn toàn xứng đáng với hành ộng cao cả của người nghĩa sĩ nông dân, với những tưng cực kì lớn lao mà tac giả đ đ ớn ra ọ >
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khác nên hình tượng những người nGhĩa sĩ nông dân hào hùng mà tráng, tượng trưng cho thần ông c c c. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cảt bi kịch lớn của dân tộc – bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta – thời kì một kì một kì một kì một kì một kì m nhưng thật hào hùng, trong cái bi kịch lớn ấy, tinh thần bất khuất của nhân dân dân bộ nói riêng và nhân dân việt nói chung vẫng à à. nghĩa lớn, vì dân tộc.
4. phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc ngắn gọn – mẫu 2
nguyễn Đình chiểu là nhà thơ, nhà văn hàng đầu ở nam bộ thời kì văn học trung đại, là ngôi sao sáng của văn học dân t. Ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ, thể hiện lí tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước sâu sắc. trong hệ thống tác phẩm đó ta không thể không nhắc đến văn tế nghĩa sĩ cần giuộc, một trong những tác phẩm xuất sắt ô>
văn tế nGhĩa sĩ cần giuộc sáng tác trong hoàn cảnh thực dân phap nổ sung xâm lược ta, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân cần giuộc nổ ra và giành thắng lợc c c c u. sau đó giặc phản công dữ dội, 20 nghĩa sĩ bị giết chết. bấy giờ, tuần phủ gia ịnh là ỗ quang đã yêu cầu nguyễn đình chiểu viết 1 bài văn tế ể ọc trong lễ truy điệu củĩa ccngh. <
mở đầu tác phẩm, nguyễn Đình chiểu luận bàn về lẽ sống chết: “sung giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. tác giả vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp: giặc được trang bị vũ khí tối tân, đã tàn sát biết ết ờ i. chính trong hoàn cảnh ấy đã thử thách tấm lòng của con người đối với đất nước. người dân nam bộ đã không nề hà sống chết, đem thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù. họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lại danh tiếng, tiếng thơm lưu truyền với. qua đó đã làm sáng tỏ chân lí của thời đại: chết vinh còn hơn sống nhục.
phần tiếp Theo của tac phẩm, chân dung hình tượng người nghĩa sĩ nông dân hiện lên vừa mộc mạc, giản dị nhưng ồng thời cũng vô c cùng anhng kiên cường. TRướC KHI GIặC NGOạI XâM ếN Họ VốN CHỉ Là những người nông dân vông thuần phac, họ sống cuộc ời bình dị, “cu cút làm Ăn” với biết bao toan, bộn bền bền củ họ chỉ biết đến nơi làng quê nghèo, mà chưa từng biết đến thế giới ngoài kia. quanh năm suốt that những người nông dân ấy bận rộn với công việc nhà nhà nhg: “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn leb” Tê, têt, tê, tật, tậ, tật, tậ, tậ, tật, tậ, tậ, tật, tậ, tật, tậ, tật, tậ, tật, tậ, tật, tậ, tật, tậ, tậ, tật, tậ, tật, tậ, tật, tậ, tậ, tật, tậ, tật, tậ, tật, tậ, tật, tậ, tậ, tật, tậ, tật, t. mắt chưa từng ngó”. nhưng khi giặc xâm lược ến bờ cõi, ến sự bình yên vốn có, họ sàng ứng lên, trong họ có sự chuyển biến lớn vền nhận thức và tình cảm. trước hết đó là sự chuyển biến trong tình cảm. họ đã nghe ngóng “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng” – tin giặc đến phong thanh họ đã nghe từ lâu. Không chỉ nghe họ còn ngửi thấy cả mùi ấu tranh: “Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm” và cuối cùng họ đã nhìn thấy tận mắt sự xâm lược, ộc c c c c c c c c muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Ến lúc này họ đãc những chuyển biến ràng về nhận thức, nếu ban ầu trong những người nông dân ấy vẫn còn có niềm tin vào triều đình, trông chờ và qân qu có nhận thức rõ ràng về nền độc lập và danh dự của tổ quốc; về kẻ thù – những kẻ đi xâm lăng thì không có díro ể tồn tại dưới ang sáng chynh nghĩa và hơn thế họ nhận thy trach nhiệm của bản thòn với ất ni n n. đoạn kình, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. sự chủ động của họ thật oai phong, lẫm liệt đầy dũng khí.
Trong trận đánh tây họ không ược trag bị binh phap, chưa một ngày ược rèn luyện võ nghệ, trag bị của họt sức thô sơ chỉ là những vật dụng sinh Hoạt và lao lao ộ Manh Áo Vải ”“ Trong Tay Cầm Một ngọn tầm vông ”“ Hỏa Mai đánh Bằng rơm with Cúi ”,… ngược lại, ịch ược trang bị vũ khí tối tân, hơn nữa chung còn ượ nhỏ đạn to” “tàu đồng súng nổ”. sự tương quan lực lượng hai bên đã thấy riqu, nhưng người nghĩa sĩ nông dân vẫn “ạp rào lướt tới”, “coi giặc cũng nhưng”, “xôce xông v ào m. không hề sợ hãi trước uy lực của kẻ thù. bằng việc sử dụng liên tiếp các động từ mạnh, nhịp điệu nhanh, gấp gáp tác giả đã vẽ lên khung cảnh chiến trường ác liệt, đồng thời cũng ánh lên vẻ đẹp của người nông dân nghĩa sĩ: hiên ngang, kiên cường, dũng cảm, bất khuất.
những vũ khí hiện đại của kẻ thù đã khiến biết bao nghĩa sĩ ngã xuống, gây nên niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc. tiếng khóc của tac giả, của người thân và của toàn thể non sông dân tộc cho sự hi sinh unh anh dũng của những with người quảm cảm, đó cũng là sự khóc thương cho số bộc của kẻ thù. Ồng thời tac giả cũng bộc lộmmm cảm pHục sâu sắc ến những người nghĩa sĩ nông dân cần giuộc: “Thà thác mà ặng câu ịch khái, về The tổ pHụ cũng vinh vinh; hơn con mà chịu chữ đầu tay, ở với man di rất khổ”. Đoạn thơ không chỉ bày tỏ lòng tiếc thương trước những người đã mất mà còn khẳng ịnh những điều bất tửi vời gian và hướng tới sự ti -p nối củt th. bởi vậy câu thơ có bi thương, xót xa nhưng không phải là bi lụy, yếu đuối.
những vần thơ cuối cùng đã khẳng ịnh sự bất tử của những nghĩa sĩ nông dân cần giuộc trong sự tiếc thương và cảm pHục của những ngườii còn lại. Đồng thời biểu dương công trạng xả thân vì nghĩa lớn của các nghĩa sĩ. Đặc biệt trong câu: “nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiêng dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ ”vừa thể hiện ược nỗi xót thương và lòng tưởng nhớng người đt vừa tôn vinh c c c cng tạng những người đ— vừa tôn vinh c c c cng tạng những người đ— vừa tôn VINH C C C CNG TạNG NHớNG NGườI đã MấT VừA Tôn Vinh C C C Cưởng nhớng người đã mất vừa tôn vinh c c c c cn tạng nhng người đt vừa tôn vinh c c c c c c c
ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày, đặc biệt ngôn ngữ đậm màu sắc nam bộ. xây dựng hình tượng nghệ thuật – nGhĩa sĩ nông dân chân thực, chi tiết, sinh ộng, lần ầu tiên người nông dân ược xuất hiện ầy ẹp ẽp ẽ hiện ầy ẹy ẹp ẽp ẽ, traọng dân ược xuất hi ầy ẹy ẹp ẽp ẽ, trag trọng dân ược xuất hiện ầy ẹy ẹp ẽp ẽ, trag trọng dân ược xuất hi hi ầy ầ KếT HợP Hài Hoà Các Chi Tiết Thể Hiện Tình Cảm Cảm xúc của người viết, tăng chất trữ tình choc bài vĂn tế, ồng thời giúp dàng đi vào lòng người ọc.
bằng ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc văn tế nGhĩa sĩ cần giuộc đã khắc họa thành công bức tượng đài bi tráng, bất tử về người nghĩa sĩ nônes. Ồng thời qua tac pHẩm, nguyễn đình chiểu đã bày tỏ lòng cảm pHục cũng như nỗi tiếc thương trước những công trạng và sự hi sin bất khuất của họ.
5. phân tích bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc học sinh giỏi
“Trên Trời CO NHữNG Vì Sao Có Sáng Khac Thường … with MắT Chung ta pHải chăi mớn thì mới thấy và càng nhìn thì mới càng thấy sáng” dành sho nhà thơ mù lòa nhưng tâm ông vẫn luôn sáng. nhắc ến ông người ta không quên nhắc ến “văn tế nghĩa sĩ cần giuộc” tc phẩm tiêu biểu và thành công nhất cho thể loại văn tế ể ội ấn tượng sắng sắc. tác phẩm thể hiện lòng biết ơn, sự xót thương, cảm pHục của tac giả dành cho những người nông dân nGhĩa sĩ cần giuộc anh dũng, quảm cảm quên mình nước. mắt nhìn và điểm nhìn từ tinh thần yêu nước cờa d i nô></
những người nông dân họ vốn là những con người thuần phác của nhà nông nhưng nay vì lòng yêu nước thương nòi, lòng căm thát th đtnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhnh nhntnhnd November 11, 1861 _ thời điểm cam go của những ngày đầu chống pháp.
tại vì sao mà lại như vậy? bởi “sung giặc đất rền; lòng dân trời tỏ” câu tứ tự hai vế tuy ngắn gọn nhưng khái quát được hoàn cảnh, tình thế của đất nước lúc bấy. năm 1858 thực dân pháp xâm lược nước ta chúng đánh chiếm, thi hành những chynh sách áp bức bóc lột nặng nề ẩy nhân ta vàl cảo cẩ câu văn trên đã cho ta thấy sự dã man của thực dân. chúng có vũ khí tối tân, sức công phá dữ dội, súng nổ vang rền mặt đất. Điều đó khiến cho ta nhớ tới tội ác của giặc pháp được nhà thơ tố cáo trong bài “chạy giặc”:
“tan chợ vừa nghe tiếng súng tây
một bàn cờ thế phút sa tay
bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
mất ổ bầy chim dáo dác bay
bến nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng nai tranh ngói nhuốm màu mây”
tiếng súng vô tâm vô tình của quân giặc không bỏ sót một ai, không trừ một cảnh vật nào. tất cả trở nên hoang tàn, xơ xác, lũng loạn sau “tiếng sung tây”. Giặc Thì như vậy chung hiện ại hơn ta rất nhiều về trag thiết bị, vềt chất, sống binh linh còn ta chỉcc Có một tấm lòng, một truyền thống yêu nước ménh li . nghệ thuật tiểu đối được sử dụng rất thành công đối rất chỉnh, rất chuẩn: mười năm <> một trận, công (vật chất)<> nghĩa (tinh thần), chưa ắt còn danh nổi như phao<> tuy là mất tiếng vang như mõ đã khẳng định tinh thần quyết tâm đánh giặc, làm nền để người nông dân xuất hiện. tiếng khóc “hỡi ôi” quen thuộc mở đầu cho bài tế. tiếng khóc lớn bày tỏ nỗi niềm đau xót, khóc thương cho linh hồn của những nghĩa sĩ đã hy sinh oanh liệt.
nhà thơ đã hồi tưởng và khắc họa lại hình ảnh những người nông dân nghĩa sĩ cần giuuộc những ản thuphqu nông dân. Trước tiên họ là with người của ruộng ồng, của nông nghiệp, lam lũ mưu sinh “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó” đúg như hoài Thanh nhận xét “biết bao yêu yêu thươt”. nhà thơ bày tỏ lòng thương cảm đối với con người hiền lành, dáng dấp vất vả đến tội nghiệp. họ là những con người chất phác, thuần nông ngoài việc ồng áng “chỉ biết ruộng trâu”, không gian giao tiếp bó hẹp “ở trong làng bộ” cô công. cấy tay vốn quen làm”. Nào Họ Có Biết Chi ến Việc Binh đao, Giáo Mác “Chưa Quen Cung Ngựa, đâu tới Trường nhưng” rồi “tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờt chưa từng ngó”. Biết bao cai chưa biết ấy thế mà khi giặc xâm lăng nhũng nhii, triều ịnh chống cự yếu ớt họ can ảm bỗng chốc trở thành những người nghĩa sĩ anh hù nc.
lúc đầu họ cũng trông cũng mong vào sự phản công của triều đình. NHưNG trước bối cảnh nguy kịch, triều đình bạc nhược ể cho with dân của mình thốt lên “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi -Than, trông tin quan như trờ Thanh hạc lệ, thảo mộc giai binh ”ể chỉ nỗi lo âu, hồi hộp, sợ hãi trước sự tấn công hung bạo của kẻ thù. bình yên ể họ an tâm lập nGhiệp nhưng chỉ làn mỏi trong chời mươi -Than vời vợi vợi. và tất nhiên họ không thể dương with mắt nhìn ất nước rơi và va vấy vá ”tức chỉ mùi hôi tanh của giặc phap với hình ảnh so sánh rất ộc đao“ Ghét Thói mọi như nông cỏ. đó là một cai lẽ tự nhiên. nông dân. sự căm ghét ược ẩy lên mức ộ cao hơn khi “bữa thấy bòng bong che trắng lốp”, “ngày xem ống khói chạy đen sì” mà “muốn tới Ăn ga sực nhức nhức nhức nhức nhức nhức nhức ến tột ột phải ến câu sau mới lên ến ỉnh cao “một mối xa thư ồồ sộ, háể ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó”. Điển tích, điển cố, từ ngữ Hán việt ặc biệt thành ngữ “treo dê bán chó” ược tập trung ể thể hiện ý chí qết tâm chống giặc, with mắt tinh tường của nhhhn dân. mặt nạ “khai hóa”, “truyền đạo” của giặc pháp bị bóc trần phơi bày dã tâm cướp nước ta của chúng.
Truyền thống và tinh thần của dân tộc c cùng với tội ác của giặc phap đã thôi thúnc họ ứng lên ấu tranh với tất cả tấm lòng của người with việt. nhà thơ cảm phục trước tinh thần và việc làm của họ điều đó đối lập hoàn toàn với thực lực của người nông dân. họ không ợi ai đòi ai bắt mà tự nguyện chiến ấu “phen này ra sức đoạn kình, chẳng thèm trốc ngược trốc xuôi, chuy à n ộ n ột ột ột ột ộ n ộ n ộ hở, khí thế hào hùng tiếp nối hào khí Đông a của thời đại nhà trần. họ “rũ bùn ứng dậy sáng lòa” chiến ấu khi trong tay là những vật dụng thô sơ, là những công cụ lao ộng thường ngày của nhà nhà, Ỻo nhà nhà họ không phải dòng dõi nhà binh, không được tập luyện, không có tổ chức, không có hiệu lệnh, đội ngũ, kỷ luật, vši khí thlô. chính những “cái không” ấy làm nổi bật lên “cái có” vô giá tiềm ẩn trong with người cần giuộc. bởi họ ý thức quyết tâm đánh giặc, có một tinh thần yêu nước không đổi, có một lòng căm thù giặc đến vô cùng. Điều đó đã làm nên sức mạnh vô song ể họ ạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không, không sợ ạn to ạn nhỏ mà liều mình xông vào như chẳng có, rồi kẻ so. Giọng điệu hào hùng, sục sôi qua cach ngắt nhịp, nhịp điệu gấp, dồn dập c c ”với những ộng từ mộnh” ạp rào lướt tới “,” xông v ìm ng v quật cường với thái độ căm thù giặc như muốn ăn gan, uống máu quân thù.
niềm thương tiếc của nhà thơ dành cho những người nghĩa sĩ đã khuất được thể hiện bằng cụm ừ mở đầơu “khá thơu”. he sang đoạn kết từ “Ôi” xuất hiện bày tỏ lòng xót thương và lời cầu nguyện của người đứng tế. giọng điệu bi ai trùng xuống đến thống thiết đau buồn. tác giả thương xót cho những người dân phải chịu khó, chịu khổ “ăn tuyết nằm sương” làm “xiêu mưa ngã gio”. Ông khẳng định ý chí quyết tâm của dân tộc thà “về theo tổ phụ cũng vinh” chứ chẳng chịu khom lưng uốn gối làm nô lệ. Đằng sau tiếng khóc lớn, tiếng khóc ròng xót thương là mong muốn, ước nguyện của tác giả. Ông mong cho đất nước được thái bình, dân đen thoát cảnh lầm than cơ cực, mong cho dân tộc sạch bóng quân thù. dù bị mù không thể ra trận chinh chiến nhưng nguyễn Đình chiểu vẫn cùng với các lãnh tụ nghĩa quân họp bàn bày mưu đánh giặc. Ến khi giặc đánh chiếm nam kì ông ở lại ba tri chung ra sức dụ dỗ, mua chuộc ông nhưng with người kiên trung ấy khảng khái chối từ, giữ tữn tấnm lòng
“văn tế nghĩa sĩ cần giuộc” là bài văn thành công nhất cho thể loại văn tế của nguyễn Đình chiểu. bài văn đã có những đóng góp mới mẻ nền văn học dân tộc cùng với nghệ thuật đắt giá được sử dụng tài tình. thứ nhất những đóng góp mới: hình tượng người nông dân việt nam lần ầu tiên đi vào trong văc với những n ét. Đề tài gắn liền với thực tế mang tính thời sự lúc bấy giờ của đất nước. Đáng chú ý là sự chuyển biến của tư tưởng trung quân theo hướng gia tăng chất hiện thực, giảm bớt “khẩu khí” lí tưởng. tác phẩm đã đưa văn học giai đoạn này trở thành vũ khí đấu tranh chống quân thù, chống tư tưởng đầu hàng và bọn ưn tay. thứ hai là những thủ pháp nghệ thuật đắt giá được sử dụng thành công. bài văn tế được viết theo thể phú Đường luật có vần, có độc vận. từ ngữ biểu cảm trực tiếp, gọi tên các trạng thái đa dạng như buồn thương, sầu tủi khi thì tự hào. hệ thống các từ láy gợi hình gợi cảm được dùng linh hoạt: cui cut, leo lét, não nùng, dật dờ. ngôn ngữ bình dị, đậm màu sắc thôn dã của vùng đất nam bộ: cui cut, vấy vá, rơm con cúi, dao phay. kết hợp tài tình những điển tích điển cố, ước lệ tượng trưng như: tiếng phong hạc, mùi tinh chiên, mối xa thưỰu chém rắn nghệ thuật tiểu ối ặc trưng của thể loại văn tế ược thể hiện riqu nét qua các câu văn cùng vớt cấu ngôn ngữ pHủ ịnh trùng điệp: “nào ợi/ chẳng. ..” nghệ thuật tương phản hai cấp ộ ượ ượ ược sử dụng thành công là sợ thằng tây …/ kẻ đm ngang bọn hè trước … sung no. “Giọng điệu linh hoạt lúc thì hùng oai, sục sôi khi diễn tả cai hiên ngang, lúc thì bi ai, thống thiết khi nói về sự mát, đau buồn.
chính những điều đó đã khắc họa được hình tượng người nông dân nghĩa sĩ cần giuộc những con người anh dũng dám hy sinh vì nghĩa lớn với một lòng nồng nàn yêu nước “nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. tinh thần ấy, with người ấy trở thành hình tượng đẹp, đáng nể phục và là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ việt nam. nếu như trước khi thực dân phap xâm lược thơ văn của ồồ chiểu chủ yếu là thể loại Tryy thơ dài vớn vật tiêu biểu là lục vân tiên ển tryn bá ạ ề n v ề n v ề v Đồ chiểu là lá cờ đầu cho văn thơ chống pháp đầu thế kỉ xix, cổ vũ lòng yêu nước. bài văn tế đã góp phần để nguyễn Đình chiểu ngôi sao sáng thực sự tỏa sáng theo cách của riêng mình trong bầu trời văn nghệd c.
6. bài cảm nhận văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
NHữNG NGườI NGHĩA Sĩ CầN GIUộC NăM XưA đà ứNG DậY CHốNG PHAPP Và LựA CHọN CHO MìnH MộT CAI CHếT THậT OANH LIệT: “Thác mà trảc nước non rồi nợi nợi nợi nợ thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ”. Có thể nói, Bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc là “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” Theo như cố thủ tướng phạm văn ồng đã nó.
hơn một thế kỷ đã trôi qua, cuộc khởi nghĩa của những người nông dân cần giuộc đã đi vào thất bại. họ phải ngã xuống giữa những chiến trường trong cảnh da ngựa bọc thây, xác phàm vội bỏ. họ là những người thất thế, quả thực là như vậy. nhưng bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc của nguyễn Đình chiểu đã khiến cho họ sống lại trong những hình tượng mang đầy. những tấm gương đại nghĩa vằng vặc như trăng sao đã hiển hiện trong bài văn tế với âm hưởng của một khúc ca bi tráng. người nGhĩa quân cần giuộc chỉ là những nông dân hiền lành, quanh nĂm côi cút làm Ăn, toan what NGhèo khó, chưa quen cung ngựa đu tới trường nhung … ở họ tự giác tham gia đánh giặc: “nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sᬩnc; chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
trong khi triều đình nhu nhược, chỉ bàn những kẻ nhượng bộ, đầu hàng quân giặc thì họ đã tự mình đứng dậy. tinh thần: mến nghĩa làm quân chiêu mộ của những người dân cày thật là đáng khâm phục. cuộc chiến ấu của họ rất nhiều khó khĂn với những gian nan: lực lượng ịch, lực lượng ta qua chênh lệch, thiếu kĩt quân sự, thiếu qua trag, vũ khís. Đoàn nghĩa quân nông dân lại rất nghèo khổ, lam lũ. họ gần như đi thẳng ến chiến trường từ những túp lều tranh rach nát và những luống cày quen thuộc, không mũ nón, không giáp trụ và cũng gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm gươm g
tất cả trang bị của họ đều rất thô sơ, là những đồ dùng thường ngày, quen thuộc nhưng lại khiến cho kẻ thù đthích b.t sức mạnh của họ không chỉ là sức mạnh thể lực mà đó còn là sức mạnh tinh thần. họ đã lấy danh vàng đỏ với đạo, lấy lòng dũng cảm để chống lại những chiếc tàu sắt, tàu đồng.
“bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
ngày xem ống khói chạy đèn xì, muốn ra cắn cổ”
lòng căm thù giặc ấy đã đem đến cho những người nghĩa sĩ sự dũng cảm và sức mạnh đến phi thường. họ tả xung hữu đột, tung hoành ngang dọc như ở chỗ không người.
nguyễn đình chiểu đã ca ngợi những nghĩa sĩ nông dân bằng những hình tượng thật chói lọi và những lời văn ẹ ầ and trag, ỽ tr and trag tế còn là ời ai oán, là tiếng khóc của ông trước sự thất thế và cái củt của ngha qui ĩn cầc. cái chết của họ khiến cho những người đọc chúng ta cảm thấy đau lòng. Đất trời, cỏ cây cũng phải line động:
“Đoái trông cần giuộc; cỏ cây mấy dặm sầu giăng, nhìn chợ trường bình già trẻ hai hàng luỵ nhỏ.”
Đó con là tiếng khóc của chính tác giả:
“Ôi thôi thôi!
chùa tân thạnh năm canh ưng đegon lạnh, tấm lòng are gửi lại bong trăng rằm, ồn Lang sa một khách ặng trản hờn, tủi phận bạc trôi dòng nước ổ ổ ổ ổ ổ ổ ổ ổ ổ
cái bi bao trùm lên cả đoạn văn, nhưng đại bi ở đây không phải là bi thảm mà là bi tráng. Đây là nỗi đau đớn vì nước nhà, vì nhân dân. Đau mà không khiến cho người ta nản lòng thối chí, bi mà giục giã mọi người đứng dậy, hiên ngang chống lại kẻ thù. cuộc khởi nghĩa tuy đã thất bại, nhiều người đã phải ngã xuống nhưng chết vinh còn hơn sống nhục. họ đã để lại danh thơm muôn đời. ra đi như những tấm gương sáng, trái lại vẫn còn sống mãi và có sức động viên lớn đối với cuộc chiến sau này…
7. phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ
các bạn tham khảo theo đường link bên dưới:
8. cảm nhận 15 câu đầu văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
thể nhận ịnh rằng, tac pHẩm “văn tế nghĩa sĩ cần giuộc” của nguyễn đình chiểu đã dựng lên một bức tượng đài nghệ thuật về nhhg ng ng ng Đặc biệt chúng ta cảm nhận được rõ nhất vẻ đẹp của những người nông dân đó trong 15 câu thơ đầu.
mở ầu bài thơ là tiếng que “hỡi ơi!”, đó chính là tiếng khóc cất lên giữa ất trời, khóc cho linh hồn của những ngƺờgi Ằħngi ấnga. “Súng Giặc ất rền, Lòng dân trời tỏ”, câu thơ thứ nHất này tuy ngắn gọn nhưng đã khai quát ược hoàn cảnh lịch sử ất nước ta lúc bấy giờ: giặc xâm sung nổ rền vang cả mặt đất. còn ta chỉ có tấm lòng và ý chí quyết tâm giữ nước của nhân dân. câu thơ thứ hai, nhà thơ đánh giá người nghĩa sĩ nông dân qua hai gia đo đn cuộc ời của họ: mười nĂm có công vỡng chắa chắc đi nhưng tĂm vag như m.
tiếp theo, hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân đã được thể hiện qua hồi ức của nhà thơ. họ vốn xuất thân là những người nông dân lam lũ, “cui cút làm ăn, lo toan nghèo khó”, có thểy tác giả ồ ồ, thunce thù cút. , cặm cụi làm ăn nhưng vẫn đói nghèo. rồi họ là những người thuần nông, chất pHác, ngoài những việc ồng ang, họ chẳng biết ến việc gì khác “chưa quen cung ngựa, đu tới trường nhung; chỉt biết ruộng Việc của họ chỉ thu gọn lại trong ngôi làng, quẩn quanh và bé nhỏ. Chuyện “Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ” lại chưa từng biết ến. , họ cố cố gắng đ đ đ đ đ đ c.
thế rồi giặc tới, suốt ba nĂm chịu khổ, họ đã ứng lên, trở thành những anh hùng nghĩa sĩ cứu nước, “tiếng phong hạc” thể hện cho sựng lo trước tông c c quân triều đình e sợ, người nông dân chịu cảnh khổ, chỉ biết “phập phồng” trông chờ vào bậc quan quân của mình. thế nhưng trông chờ trong mỏi mòn, lòng căm thù bọn giặc cướp nước đã rực lửa, hừng hực trong with người họ. lúc đầu họ chỉ căm ghét chúng như loài dị tộc tanh hôi “mùi tinh chiên vấy vá”, ghét chúng như người nông dân “ghét cỏ” trên ruủnh.
nhưng rồi cứ thế ngày ngày giặc thùn ra ngang nhiên như đâm vào mắt “bòng bong che”, người nông dân lúc ấy chỉ còn thấy nhức nhối và gay gy g “muốn ra cắn cổ”. tuy nhiên, sự căm thù ẩy lên ến ỉnh điểm khi nhắm tới một điều hết sức cao cả, Thiêng liêng, đó là sự tự do và thốtt của dân t, sự giả dối, mặt nạ nhân dạo “khai hóa”, “truyền đạo” của thực dân pháp đã bị vạch trần, dã tâm của chúng đã đyưbà. từ đó người nông dân đã tự nguyện ra đánh giặc, và họ đã trở thành nghĩa sĩ:
“nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.
chẳng ai thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.”
câu thơ thể hiện khí thế hào sảng và hăm hở, dũng mãnh của người dân binh mộ nghĩa. Một lần nữa, nhà thơ lại nhắc lại tới nguồn gốc của họ, họ là người “dân ấp dân lân”, bước vào chiến ấu nhưng không ược tập luyện there cũng không hay biết “mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn”, “chín chục binh thư không chờ bày bố”. Tuy Họ Không Có Kĩ Thuật, Không Có Võ NGHệ Và Không ượC TậP DượT NHưNG Họ LạI RấT CHủNG “Không chờ”, “Không Nài” Mà đánh Giặc, tự nhhh ”ấ ấ đ đ đ đ , vũ khí là “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”. hai câu thơ 14 và 15 đã thể hiện một cách rất sống động và chân thực hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ trong giây phút công đ>ồn:
ồ
“chi nhọc quan quản trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không…
bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.”
câu văn với nhiều ộng từ, giới từ, đã tạo nên một không khí hết sức căng thẳng, quyết liệt, người nghĩa sĩ lao trong mưa ạ , sát thương mạnh của kẻ thù. họ xông xáo và lập nhiều chiến công vang dội.
như vậy, qua 15 câu thơ ầu trong bài văn, nguyễn đình chiểu đã dựng lên một hình tượng người nghĩa sĩ lam lũ mà cao ẹp, chân chất và vĩ ại ại. Đại diện cho hình tượng người nông dân trong lịch sử văn học yêu nước của việt nam.
9. phân tích hình ảnh người nông dân trong văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
nguyễn Đình chiểu (1822-1888) một nhà nho yêu nước nồng nàn, căm thù giặc sâu sắc. cuộc đời ông phải trải qua nhiều bi kịch đau khổ và bất hạnh. có lẽ vì vậy mà hơn ai hết ông càng cảm nhận được nỗi đau mất nước khi thực dân pháp sang xâm lược nước ta. năm 1859 giặc pháp tràn vào sông bến nghé chiếm thành gia Định, ông phải vào quê vợ ở thanh ba, cần giuộc lánh tạm. về phía thực dân pháp sau khi chiếm được thành gia Định chúng bắt đầu thực hiện quá trình mở rộng cuộc tấn công ra các vùng lâ. cần giuộc chẳng mấy chốc đã bị giặc pháp tràn đến. những người nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đả đứng dậy đấu tranh. họ gia nhập nghĩa binh, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn. trong số họ nhiều nghĩa sĩ đã hi sinh oanh liệt. những tấm gương hi sinh đó đã gây nên niềm cảm kích lớn trong nhân dân. Ỗ Quang, Tuần Phủ Gia ịnh Giao Cho Nguyễn đình Chiểu Làm Bài Văn Tế ọc tại Buổi Truy điệu hơn hai mươi nghĩa sĩ đã hi sin với lòng cảm phục và tình cảm xót thương vô hạn, nguyễn Đình chiểu đã viết bài văn tế nghĩa sĩ cần giuộc. bài văn tế không những thể hiện được tình cảm xót thương vô hạn của tác giả và của nhân dân đối với các nghĩa sĩ cần giuộc mà còn khắc họa lên vẻ đẹp chân thực, bi tráng mà rất đỗi hào hùng của những người nông dân yêu nước đánh tây.
hỡi ôi!
sung giặc đất rền; lòng dân trời tỏ..
khi tổ quốc lâm nguy, khắp đất nước đều rền vang tiếng súng. Chynh sự từ gian nguy, đau thương đó, tình yêu ất nước của những người nông dân bình thường mới ược thể hi ẹp thực sự của tâm hồn trong hhn ược.
tấm lòng, tình yêu giang sơn, tổc của những người nông dân bình dị càng ược thể hiện một cach rõ rệt và sâu sắc hơn khi tác giả đã lín tục dùc dùng bi salt.
nhớ linh xưa:
cui cut làm ăn; toan lo nghèo khó,
chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
tập khiên, tập sung, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng
trước đây họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ là “cui cút làm ăn”. họ vẫn sống, vẫn tồn tại nhưng chỉ trong thầm lặng. trong cuộc sống, họ có nỗi lo toan “miếng cơm manh áo” giản dị đời thường; họ chỉ quen làm lụng việc nhà nông: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu, với ruộng đồng. họ chưa biết đến “cung ngựa”, “trường nhung”, chưa quen với “tập mác, tập cờ”. NHữNG NGườI NGHĩA Sĩ ở đY CHỉ Là những nông dân áo vải, chưa quen chiến trận, chưa ược luyện rèn, chỉ vì lòng and chính ghét tà mà ứng lên đánh gi.
khi mà “tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng”
thì ra cái bi kịch xót xa là ở chỗ này: triều đình nhu nhược, không hiểu được lòng dân yêu nước. lòng căm thù giặc của những người nông dân thì không thể kiềm chế:
mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
… bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
ngày xem ống khói chạy đen xì, muốn ra cắn cổ.
hình tượng người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước hiện lên thật quả cảm hào hùng. lòng yêu đất nước tha thiết xuất phát từ chính trái tim của họ đã khiến cho họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh.
vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước được toát ra chính lòng căm thù giặc sục sôi. chính lòng căm thù giặc đã biến thành hành động vùng lên quật khởi rất hào hùng.
nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình:
chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
trong những tac pHẩm pHản ối chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đy, người nông dân khi pHải đi làm lynh biên thú phương xa , người nông dân của nguyễn đình chiểu lại hoàn toàn khác. Ến đy không chỉ vẻ ẹp trong tâm hồn mà ngay cả vẻ ẹp trong hành ộng của những người nghĩa sĩ nông dân y y nước cũng đã ược nguy đìng ểt. từ cái động lực tinh thần tự nguyện gánh vác trách nhiệm lịch sử mà đã tạo rach họ sức mạnh vô Cùng lớn. Vông, Chi Nài Dao sắnón. ” thân của cả một sức mạnh dân tộc. Ối mặt với kẻ thù lớn mạnh với “ạn nhỏ, ạn to”, “tàu thiếc, tàu ồng” với ội quân xâm lược nhà nghề, vậy mà vũ khí ể họ dùng chống chống lại một ngọn tầm vông”, chỉ có “dao phay” và chỉ là những “hỏa mai đánh bằng rơm con cúi”. thử hỏi rằng đem những thứ đó ra đối chọi với súng đạn của thực dân khác nào bước chân vào chỗ chết. cái sự thật phũ phàng đó như phô bày ra trước mắt ta thật xót đau biết mấy. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ cần giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt. tấn bi kịch này đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
nhưng cũng chính từ cái tấn bi kịch này mà đã làm sáng ngời lên vẻ đẹp hình tượng của những người nghĩa Ựnông n. Bằng sự ngoan cường, Lòng yêu nước nồng nàn, họ đã làm nên ược những điều phi thường, chính họ đã cất lên ược bản anh hùng ca chiến tranh của tộc. Bất chấp sựmm nguy, bất chấp sự chênh lệch, sựi lập của hoàn cảnh chiến ấu, họ vẫn quyết chiến và quyt thắng, lấy tinh thần xả thhn vì ngh ể ĩ ì thu. Hoàn cảnh chiến ấu chênh lệch là vậy nhưng vì những người nghĩa sĩ chiến ấu bằng chynh tỉnh thần sự quyết chiến không sợ hi sin unh nên hiệu quiến ến ấn ấn ấn ấn ấn
chỉ với những vũ khí thô sơ như:
hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia,
gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh…
chỉ với những vũ khí thô sơ, nhưng lòng yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên được những điều kì diệu. hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân hiện lên với một vẻ ẹp rực rỡ hào quang của chủa nghĩa yêu nước, dường như đ lu mờ đi cai thời kì đen tiối >
Bài văn tế như bức tượng đài bằng ngôn từ, tạc khắc nên hình tượng những người nGhĩa sĩ nông dân hào hùng mà trang, tượng trưng choc chu thần ông cc, mà tráng, tượng c. Bức tượng đài ấy là dấu mốc thể hiện cảt bi kịch lớn của dân tộc – bi kịch mất nước, và báo hiệu một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc ta – thời kì một kì một kì một kì một kì một kì m c. vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
10. cảm nhận về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ
nguyễn đình chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình ảnh người nông dân trong văc mà trong suốt caco thời gian qua chưa ược nhắc .hình ảnh người nông dân nghèo khổ chỉ biết làm ăt một cách thầm lặng, quanh năm chỉ ột ộng. họ là những người nông dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi thực dân pháp xâm lược. họ đã anh dũng chiến đấu và anh dũng hi sinh, trong lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng không hề rơi nưt. Đó chính là cái hay của thơ văn nguyễn Đình chiểu.
văn tế nghĩa sĩ cần giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân pháp nổ sung vào Đà nẵng, việt nam. SAU KHI CHIếM ượC thành gia ịnh vào ầu năm 1859, quân phap , đã dũng cảm ứng lên chiến ấu tập kích ồn phap ở cần giuộc, tiêu diệt ược một số quân của ối phương và víên tri huyện người việt đang làm cộng sự khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ minh. những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.theo yêu cầu của tuần phủ gia Định là Đỗ quang, nguyễn Đình chiểu làm bài “văn tế nghĩa sĩ cần giuộc“, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
như chúng ta biết thì “văn tế nghĩa sĩ cần giuộc” là một “tác phẩm nghệ thuật” hiếm có. “bi tráng” là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. hùng trang ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. hùng trang ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc.
mở đầu bài văn tế là hai tiếng “hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“sung giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ” có ý nghĩa là tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và qungê h.
trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉt biết cui cút làm ăt một cach tội nghiệp đã dũng cảm ứng lên đánh giặc giành lại nền ộc lập choc tổc quốc thân yêu mà sự tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất chng. hình ảnh chính của bài văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân cần giuộc.
nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cut” sau luỹ tre làng. CHấT PHAC Và Hiền Lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với with trâu, ường cày, Sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:
“nhớ linh xưa:
cui cut làm ăn; toan lo nghèo khó”
cu cút làm ăn: Co nGhĩa làm Ăn lẻ loi, thầm lặng một cach tội nghiệp.dù mệt mỏi hen vất vảt vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu ựnng m ình m. làm ăn; toan lo nghèo khó “đã hiện lên ầy ủ một vòng ời không lối thoot của người nông dân việt, người” dân ấp nam dân “. khó.họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, cái gì gọi là.</ngựa.</ngựa.
“chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó.”
thế nhưng khi ất nước quê hương bị giặc phap xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã ứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đán bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi
“bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”.
Đối với giặc pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”,chỉ có 1 chí hướng: “phen này xin àyn,… ọ nk schunc dốc ra tay bộ hổ”.
trong tác bài văn tế nguyễn Đình chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc phám. giặc xâm lược được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh thuê “mã ntán.” trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. quân trang chỉ là “1 manh áo vải”. vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”, hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm with cúi”. thế mà họ vẫn lập được chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
bài văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc pháp:
“Chi nhọc quan qua quản giong trống kì, trống giục, ạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng tây bắn ạn nhỏ ạn to, xôn ửng vào”, lig. p>
“kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng sún”.
không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, “có bọn hè trước, lũ ó sau” vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa ồn giặc: “ạp rào lướt tới”, “xô cướa xông vào”, “,” đâm ngang ngang ngang ngang ngang ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm ngm , “xông vào”, “,” đâm ngang ngang ngang ngang ng, “,”, “,”, “,”, “,”, “,”, “,”, “,”. “. giọng văn của nguyễn đình chiểu đã tô ậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của các nghĩa sĩ nông dân cần giuộc.c cũng tển rớng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng âng.từ trước đến nay, đây là tác phẩm đầu tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân.
trong bài “văn tế nGhĩa sĩ cần giuộc” còn fo tiếng khóc của mẹ già nơi quê nhà trông chờ with về, vợ thương nhớ về chồng, with ngagon cha về ngh thốn thiết, bi ai. nhiều nghĩa si đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng:
“những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ”
Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. một không gian rông lớn bùi ngùi, đau. ejn:
“Đoái sông cần giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ trường bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”.
tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ, nỗi nhớ thương của con cái được nói đến xôp> cù
“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế ᵺp> tr”.
các nghĩa sĩ đã sống anh dũng chiến đấu, và hi sinh rất vẻ vang. tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là để ta biết rằng đất nước nào cũng là độc lập, tự chủ. không ai được quyền xâm chiếm. họ là tấm gương sáng rất đáng tự hào:
“me!
một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”
sự hi sinh của những người nghĩa sĩ cần giuộc là bài học quý báu mà họ đã để lại. thà chết vinh còn hơn sống nhục. họ là tấm gương sáng để dân tộc việt nam noi theo mà làm, là ngòn đèn soi sáng cho dân tộc việt nam.
“sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;…”.
công lao của người nGhĩa sĩ nông dân cần giuộc sẽ ời ời nằm Trong lòng mỗi người dân việt nam về tấm gương anh dung, s ẵn sàng xả thân tảc lập tổc.
“nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”.
tóm lại, “văn tế nghĩa sĩ cần giuộc” khẳng ịnh, tấm lòng yêu thương dân thiết tha của nguyễn đình chiểu ” ối với người nghĩa sĩ nông dân cần giuộc đã anh dũng chiến ấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền ộc lậc vững chắc của qua quan trọng trong cuộc ời.nghĩa sĩ nông dân cần giuộc chynh là tấm gương về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc ể ể ể ự ự ự ể ể ể p>
mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục tài liệu của hoatieu.vn.