Văn mẫu lớp 8: Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng (6 mẫu) Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Dưới đây là danh sách Hình tượng con hổ trong bài thơ nhớ rừng hot nhất được tổng hợp bởi M & Tôi

top 6 bài phân tích hình tượng with hổ trong bài thơ nhớ rừng của thế lữ, giúp các em học sinh lớp 8 tham khảo ể có thi -nhiều i live hiv What’s up, what’s up?

tác giả đã mượn hình ảnh con hổ để nói đến sự chán ghét thực tại tầm thường, đồng thời thể hiện niềh do mháo khao. bên cạnh đó, các em có thể tham khảo thêm bài cảm nhận nhớ rừng, phân tích tâm trạng con hổ để hiểu sâu sắc hơn. mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của download.vn:

hình tượng with hổ trong bài thơ nhớ rừng – mẫu 1

hình tượng with hổ là hình tượng trung tâm trong bài “nhớ rừng” có khi trở nên dữ dội trên nhiều khía cạnh của tình cảm, chứ kh. nỗi nhớ ở đy giống như nỗi nhớ của một anh hùng bị thất thế, chứ không phải là một nỗi nhớ của mộn kỏ, ủa mộn kẻ,

ngay từ ầu bài thơ, ta thấy nỗi “nhớ rừng” của chúa sơn lâm ược biểu hiện ở this ộộ căc ếc ến mức đau ớn cho số phận không can củnnnh:

“gậm một khối căm hờn trong cũi sắt…” và “sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm”. nó cảm thấy nhục vì pHải trở thành một “thứ ồ chơi cho một lũ người” “mắt bé” nhưng lại “ngạo mạn” và “ngẩn ngơ”. “.

no căm hờn! no thấy nhục! nó căm ghét tất cả! vì nó đang phải nằm dài trong “cũi sắt”.

nỗi nhớ rừng của ménh hổ càng ược biểu hiện một cach ménh liệt hơn, sâu sắc hơn khi nó hồi tưởng vềt thời qua khứ vàng are, oanh liệt củnh vớt t.

nó nhớ những hình ảnh đẹp đẽ, những âm thanh vang vọng của núi rừng:

“nhớ cảnh sơn lâm, bong cả cây giàvới tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núivới khi thét khúc trường ca dữ dội”.

giữa cảnh thiên nhiên hùng vĩ đó, nó xuất hiện như một vị sơn thần. từ “bước chân” “dạc” ến “lượn tấm thân như sone cuộn nhịp nhàng từ” vờn bong âm thầm “ến” quắc đi mắt thần “làm sáng rực cả hang t, n t, n. làm cho mọi vật phải “im hơi” lặng tiếng.

nó nhớ những kỉ niệm trong cuộc sống thường ngày ở chốn rừng sâu, nhớ đến thèm khát, cháy bỏng. những lúc say mồi dưới ánh trăng:

“nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,ta say mồi đứng uống ánh trăng tan

những lúc ngủ ngon khi bình minh đang lên và chim rừng đang tưng bừng ca hát. những lúc chời mảnh mặt trời tắt đi ểể một mình chiếm lấy cả không gian bí mật.những lúc chiêm ngưỡng vẻ ẹp của giang sơn sau m một cơa rừng rội. tất cả, đối với nó là một thời oanh liệt.

nhưng thời oanh liệt đó đã thuộc về dĩ vãng. nó chỉ còn biết cất một tiếng Than: “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”. hổ tỏ một thái độ khinh bạc, coi khinh cuộc sống thực tại giả dối đang diễn ra xung quanh nó:

“ghét những cảnh không đời nào thay đổinhững cảnh sửa sang, tầm thường giả dốihoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng…”

chẳng qua cũng là “học đòi, bắt chước vẻ hoang vu, của chốn nghìn năm cao cả, âm u”.

khinh bạc với hiện tại, nó lại khát khao ược trở vềi nơi “non non hùng vĩ” ể ngự trị sơn lâm, trở với cuộc sống tự dong kháán, tha hồ v. nhưng một sự thực, nó đang bị giam trong “cũi sắt”. chúa sơn lâm đành thả hồn mình theo giấc mộng ngàn ”ể ược sống những oanh liệt, ể xua tan nhữ ả ả ả m. /p>

with hổ nhớ rừng, nhớ một thời oanh liệt đã qua chính là vì chán ngán trước cuộc sống mà nó đang bị giam hãm, mất tự do.

tâm trạng của with hổ, cũng chính là tâm trạng của tac giả, tâm trạng của một lớp người trong xã hội lúc bấy giờ (1931-1935) khao một cuộc đời tự do, phóng khoáng mặc dầu chưa được định hướng rõ ràng. Đó cũng là một thái độ đáng quý, đáng trân trọng. Rõ Ràng, Bài Thơ NHớ Rừng của nhà thơ thế lữ là một bài thơ rất there, là bài thơ there dân khi đang phải chịu sống trong cảnh tù đày, dưới ách thống trị của bọn thực dân. Hình tượng with hổ có giá trị nghệ thuật vô cùng ặc sắc, nó không chỉ là hình tượng của tự nhiên mà còn biểu trưng choc một xã hội, gửm ým ýa sầ ầ. >

hình tượng with hổ trong bài thơ nhớ rừng – mẫu 2

nhớ rừng là một bài thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới. nó cũng là một bài in ược dấu ấn ậm và bền trong nhiều thế hệ bạn ọc – tac giả của nó – thi sĩ thế lữ, là một nhà thơ tài năNg, người Cotel Cól Có thể nói ông ô tượng with hổ trong bài, mượn with hổ ể ể bộc lộ tâm sự của một thanh niên trí thức trước cuộc ời tù tÚg, nô.

nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm, ể làm trò lạ mắt, thứ ỏ ỏ chơi, chịu chung bầy cùng bọn gấu dở hơi, với c᪻ ᪻p chung

nỗi tủi nhục đến cao độ, chuyển thành phẫn uất, căm hờn. bị mất tự do trong “cũi sắt”, đành thúc thủ bất lực “nằm dài trông ngày tháng dần qua”, lại còn bị “lũ người kia”, tác giảámố phải chăng bọn thực dân người nước ngoài xa lạ nhào cợt, khinh thường:

giương mắt bé giễu oai linh rừng thâm

xưa kia ta từng là “chúa tể của muôn loài”, “oai linh” ta ngự trị cả núi cao rừng sâu. nay bị nhốt củi, cùng thân phận “làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi” bị coi cá mè một lứa với bầy gấu dở hơi, cặp báo nông! nhục nhã, uất hận biết bao.

cùng với “niềm uất hận ngàn thâu” ấy, là thái độ khinh ghét. và khinh cũng đến cao độ như căm hờn, with hổ này không có gì lưng chừng, nửa vời cà. no ghét tất cả những cảnh tượng môi trường xung quanh, từ:

những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối.

cho đến:

dải nước đen giả suối, chẳng thông dònglen dưới nách những mô gò thấp kém.

nó khinh ghét tất cả cái môi trường áp đặt giả tạo mà “lũ người kia” đã thiết kế bày đặt ra. nhận ra tất cả chỉ là trò nhai lại, là lối “học đòi” cai môi trường sống đích thực của nó xưa kia, cai “cảnh sơn lâm bong cả, cây già – với tiếng gó ga ” mà nó không thể nào quên được, mà nó mãi mãi nhớ thương. pHải chăng lầm sự with hổ ở đây, một lần nữa lại pHản chiếu tâm sự của chàng thanh niên nguyễn thế lữ – người từng có thời hoạt ộng trong một “hội kín” yêu nước? Cari tâm sự bất bình, pHủ ịnh thứ văn minh “tây tàu nhố” nhăng “đang thay thế choc những” vẻ hoang vu “của” bong cả cây già “” những đm vàng b đ gội”… một cách hình dung, gợi nhớ đến những giá trị văn hoá cổ truyền của tổ quốc?

nhưng có lẽ Luồng tâm sự xuyên suốt, điều canh thường xuyên hơn cả trong lòng with hổ là nỗi nhớ – một nỗi nhớ vừa da diết xót xa, vừa mênh mang hoàráng. Đó là nỗi “nhớ rừng” cao cả, thiêng liêng, đúng như đầu đề bài thư xác định. ta dàng nhận thấy hai đoạn thơ tả nỗi này lập trung, ậm ặc nhất – đoạn thứ hai và th ba trong bài – là hai đoạnco nhiều cảnh sắc huyng hất ẫt ẫt ẫt ẫt. NHớ Làm Sao Bong Dáng Xưa Kia Của Ta “Bước Chân Lên, DõNG DạC, ườNG HOàng, LượN TấM THN NHư SONG CUộN NHịP NHÀNG” GIữA “SơN LâM BONNG hùng trang biết bao! nhớ làm sao.

… những đệm vùng bên bờ suốita say mồi đứng uống ánh trăng tan?

… những ngày mưa chuyển bốn phương ngànta lặng ngắm cảnh giang sơn ta đổi mới?

… những binh minh cây xanh nắng gội,

tiếng chim ca, giấc ngủ ta tưng bừng?

những kỉ niệm mới lộng lẫy, hùng vĩ, nên thơ nên nhạc biết bao!

có thể nói thế lữ đã chứa chất vào lời con hổ trong vườn này tâm sự của các thế hệ cùng lứa với nhà thơ. và cũng không riêng gì một thế hệ. ai là người việt nam còn chút lòng yêu nước, còn biết nghĩ, mà chẳng cảm nhận xót xa nỗi hờn mất nước? ai đã từng ọc qua lịch sử dân tộc, có ít nhiều ý thức về nền “vĂn hiến” đã lâu “của ất nước, mà chẳng ngán ngẩm với thứ văn minh hào nhoáng pha tạ nào mà chẳng ủ ấp hi vọng ược “thênh that (…) Vẫy”, ược “ngự trị” trên “nước non hùng vĩ” của mình, tương tự chú hổ vườn thu kia vẫn không lớn” của nó.

hình tượng with hổ trong bài thơ nhớ rừng – mẫu 3

với nhân vật with hổ trong vườn thou ược miêu tả như một tíh cach dữi, lớn lao, ầy dằn vặt và khát vọng, nhớ rừng ít nhiều đã hòa vào va ca ca ca đhi đhi đhi đhi đhi đhi đhi đhi đhi đ Dhi Dhi Dhi Dhi. danh tock lẽ dĩ nhiên, không ai dám đặt con hổ của bài thơ bên cạnh những tầm cỡ như prômêtê bị xiềng hay hamlet hay người tù xứ capcadơ. nhớ rừng mới chỉ là tiếng nói đớn đau của một kẻ đã mất hết niềm tin được tự do, mất hết ước mơ chiến ng. with hổ ở đy đã không thể làm ược gì hơn là “nằm dài” trong cũi sắt, ể “trông ngày tháng dần qua”, và nói về cái thu th oanh liầnh vƹng ữ vƹ cũng không có trong nó cái khát khao tương truyền đã được người anh hùng nguyễn hữu cầu diễn tả trong những vần thơ lồng lợng say:ng

bay thẳng cánh, muôn trùng tiêu, hánphá vòng vây, bạn với kim ô.

, mà hoài bão muốn góp phần mình vào một sự đổi thay đã không còn.

thế nhưng, with hổ, hình tượng trung tâm của bài thơ, dù có chịu mất tự do, nhưng cũng không chịu mất đi niềm kiêu hãnh. Trong khổ đau, trong cảnh “tù hãm”, trong nỗi “nhục nhằn”, nó vẫn biết tự phân biệt mình với những kẻ đi hoàn tầm thường ồng hoá xét một chút ưu ái gì ối với những with vật như with gấu, with báo c c c aciones . Ở đây, cũng như chim ở trong lồng, ở cả prômêtê bị xiềng và Hamlet nữa, sựi ối lập giữa hai hạng người, hai cach sống là cach thức nght vẫn thường d ậm thêm thêm thêm khổ đau chứ nhất quyết không chịu hạ mình trong bất hạnh.

thế lữ, ít nhất là một lần trong một đời thơ, đã cố gắng xây dựng cho mình một hình tượng thơ như thế. with hổở nhớ rừng biết minh chiến bại nhưng vẫn chưa chịu làm tôi tớ cho sự “tầm thường, giả dối” của cảnh ngṥc. nó bất lực, nhưng không hoàn toàn khuất phục và thoả hiệp. nó vẫn “ghét những cảnh không đời nào thay đổi”, nghĩa là còn ước ao những sự đổi thay. Bị Giam Thân Trong Lồng sắt chật, Nó vẫn Tha Thiết vươn tới những chân trời rộng rãi của thế gian với “giấc mộng càng to lớn”, và của thời gian với “niấm uất hận ng bài thơ, cho tới cùng, vẫn thể hiện một tinh thần, chối từ thực tại, dẫu mới chỉ là sự chối từ trong mộng tưởng mà

sự xung ột, chống ối quyết liệt, thường xuyên, không thể dung hòa giữa honn cảnh và tính cach, giữa ngoại vật với nội tâm, giữa thấp hèn với cao thượ though. CảM GIÁC NHư NGHE ượC Từ NHớ RừNG MộT BảN Xô NÁT BốN CHươNG VớI Sự LUâN CHUYS, đAN XEN CủA HAI NHạC ềT ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ Gớng ộ G. nốt nhạc đã ngày càng chậm chạp, buồn nản ở chương ầu, và cứ vag to mãi, dào dạt mãi, dâng mãi ến cao trào với tất cả niềm phấng củm củm tâểt đt đt đ và cuối cùng trong sự quật khởi chủ đề chính lại quay trở lại không còn hùng tráng được như trên, những thiết tha, nhữting nuiting bài thơ kết thúc trong tiếng gọi tha thiết với rừng già của một kẻ biết mình đã sắp phải chấm dứt cuộc vượt tù trong tâm. như thế bằng việc luôn luôn chuyển đổi tình cảm và giọng điệu thơ sang phía đối lập với nó, nhà thơ đã tìm đúng cái cách thức hữu hiệu để diễn tả hết các cung bậc cảm xúc của một tâm trạng cô đơn và đầy day dứt .

hình tượng with hổ trong bài thơ nhớ rừng – mẫu 4

“nhớ rừng” là bài thơ kiệt tác của thế lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào “thơ mới”. Với nhạc điệu du dương, với cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ, ặc biệt với hình tượng with hổ, bài thơ “nhớ rừng” đ chinh phục mỗi ta ta ta, đã chiếnh thế

with hổ được thi sĩ nói đến với bao cảm thông và ngưỡng mộ. nó đang nằm trong cũi sắt vườn bách thú. Chúa sơn lâm trong cảnh tù hãm vông cay ắng uất hận “gậm một khối căm hờn”, very â ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ây l ° . không căm hờn Sao ược khi phải “nằm dài trông ngày that dần qua” trong cũi sắt? không uất ức, cay ắng sao ược khi chúa sơn lâm “oai linh rừng thẳm” đang bị lũ ng `đ “Thứ ồ chơi”, với cặp bao “vô tư lự ‘trong vườn bách that? thế lữ đã thể hiện tâm trạng cay ắng, căm hờn của with hổ mất tự do ầy am ảnh:

“gậm một khối căm hờn trong cũi sắtta nằm dài trông ngày tháng dần qua(…) nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm…”-.

qua đó, ta càng thấy riqu: “anh hùng thất thế sa cơng hèn” (Truyện kiều) ‘, ta càng thấm thìa: “Trên ời nghìn vạn điều Cay ắng – Cay ắNg chi (do “(do” (do “(do” (do “(do” (do “(do” (do “(do) (do “(do” (do “(do” (do “(do) (do “(do” (do “(do” (do “(do” (do “(do” (do “(do” (do “(do” (do “(do) (do “(do” (do ” nhật kí trong you).

năm tháng dần trôi qua, chúa sơn lâm có bao giờ nguôi được nỗi nhớ rừng. she nhớ “thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”, nhớ vương quốc “miền đất thiêng” mà “ta” ngự trị:

“nhớ cảnh sơn lâm, bong cả, cây già,

với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi”…

nhớ tư thế cao sang, oai hùng của “ta”. một cái bước chân. một tấm thân lượn sóng. một cái vờn bóng… tất cả đềdõng, dưng hong”. một chữ “ta” vang lên đầy kiêu hãnh tự hào của chúa sơn lâm:

“ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc”.

quyền uy của “ta” là tuyệt đối. mọi vật đều phải khiếp sợ, phải “im hơi” khi “mắt thần” của ta “đã quắc’.”ta biết” giữa chốn thảo hoa, “ta chúa tể cả> muôn”:

“trong hang tối, mắt thần khi đã quắclà khiến cho mọi vật đều im hơita biết ta chúa tể cả muôn loàigiữa chốn thảo hoa không têổiong tu>

nỗi nhớ rừng thiêng, nhớ quyền uy của chúa sơn lâm chính là nhớ những năm tháng không thể nào quên. nỗi nhớ ấy chính là khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng.

hổ nhớ rừng là nhớ đến những kỉ niệm chói lọi một thời vàng son, một thời oanh liệt. cảnh vật trang lệ. nhạc của thơ cũng là nhạc của rừng:

“nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,……..- than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?”

các luyến láy, điệp ngữ: “đâu những đêm vàng…”, “đâu những ngày mưa…”, “đâu những bình minh…”, “đâu những chiều…”, ” nay còn đâu “xuất hiện nối tiếp trong năm câu hỏi từ tạo nên nhạc điệu du dương, triền miên, da diết, thể hiện sâu sắc tình thương nỗi nhớ của hùm thiêng sa cơ nay đã trở thành hoài niệm, quá vãng. chúa sơn lâm nhớ đêm, nhớ ngày, nhớ bình minh, nhớ chiều tà, nhớ suối, nhớ trăng. she nhớ cảnh giang san trong màn mưa rừng. nhớ “cây xanh nắng gội”. nhớ chim hót tưng bừng lúc bình minh. nhớ mặt trời gay gắt trong khoảnh khắc hoàng hôn…nỗi nhớ tiếc ấy là nỗi đau buồn bị tước đoạt mất tự do, cũng l kha kh n. thế lữ đã sáng tạo nên những vần 1 thơ giàu hình tượng và nhạc điệu, dào dạt cảm xúc ể thể hiển nỗi nhớ rừng của hùm thiêng sa cơ …

“than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?”

bị sa cơ, bị tù hãm trong cũi sắt. phải xa rừng nên nhớ rừng. Đau đớn và uất hận biết đến bao giờ có thể nguôi? như một tiếng thở dài ngao ngán:

“nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu”.

hổ “nhớ canh sơn lâm, bong cả, cây già” rồi “uất hận” căm ghélt những cảnh “không ời nào thay ổi”, tẻ nhạt, vôt, vô nghĩa “tầm thường giả d. >

“hoa chăm, cỏ xén, cây trồng; dài nước đen giả suối, chẳng thông dòng len dưới nách những mô gò thấp kém”.

uất hận cảnh tù hãm, chán ghét những cảnh vật tầm thường nhỏ bé do “lũ người kia ngạo mạn” bày ra, hổ lại nhớ day dứt, nhớ khôn nguôi “cảnh nước non n nao:

“là nơi giống hầm thiêng ta ngự trịnơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa”.

trước thực tại đau đớn, hổ chỉ còn biết thả hồn mình theo “giấc mộng ngàn”. chúa sơn lâm cất tiếng gọi rừng thiêng với bao nhớ thương bồi hồi, da diết:

“hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

“nhớ rừng” là một trong mười bài thơ hay nhất của “thơ mới” (1932-1941). thể thơ tự do, lời thơ đẹp, hình tượng kì vĩ, tráng lệ. nhạc điệu du dương, cảm xúc “nhớ rừng” dào dạt. hình tượng con hổ sa cơ, đau đớn uất hận, da diết nhớ rừng được khắc họa sâu sắc, đầy ám ảnh.

Trong Hoàn Cảnh Bài Thơ ra ời (1934), Tâm Trạng tủi nhục, đau ớn, uất hận … của with hổ nhớ rừng ồng đu với bi kịch của nhn dân dân ta đang rên xiết. nhớ rừng là khao khát sống, khao khát tự do. bài thơ mang hàm nghĩa như một lời nhắn gửi kín đáo, tha thiết về tình yêu giang sơn đất nước. tư tưởng lớn nhất của bài thơ là cái giá của tự do. hình tượng con hổ nhớ rừng là sự thể hiện tuyệt vời tư tưởng vĩ đại ấy.

hình tượng with hổ trong bài thơ nhớ rừng – mẫu 5

nhà thơ thế lữ, được biết đến là một nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào thơ mới buổi đầu. th của thế lữ được nhận xét là một hồn thơ dồi dào và đầy trong nó sự lãng mạn. Ến với bài thơ “nhớ rừng” của ông, bạn ọc thấu hiểu ược một tình yêu nước sâu sắc, qua hình tượng “with hổ”, tac giả đ “trong with hổ trong bài thơ là một sáng tạo ặc biệt, mà qua nó, tác giả đã gửi gắm ược những tâm sự thầm kín, mang ầy ténnh nhân vict.

mở ầu bài thơ, hình ảnh một with hổn ta với sự kìm kẹp, tù hãm, bởi nó vốn xuất phát điểm là chúa tể muôn loài, mà giờ đây lại đang bị giam giam hãm hãm hãm tong mà trong with hổ đang dâng tràn một sự căm hờn chẳng nguôi ngoai:

“gậm một khối căm hờn trong cũi sắtta nằm dài trông ngày tháng dần qua”

“cũi sắt” được nhắc đến, thể hiện sự giam cầm tự do, một không gian giam hãm nhỏ bé, bức bí, khiến with hổ “căm hờn”. những ngày that trôi qua trong giam hãm, chúa sơn lâm mang trong mình sự uy nghiêm ngày nào giờ lại pHải tồn tại Trong một không gian nhỏ hẹp, “lsa c with hổ mang Trong tong mình bản chất vẫy ở một không gian rừng thiêng rộng lớn, cho nên khi pHải bịnh giam cầm, nó sống mà như chốn ịa ngục, cảm giác “nhục nhằn” dâng cao, cảm thấy thấy thấY thú mua vui cho những kẻ “giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”.

con hổ khi phải sống trong sự giam cầm tưởng như không lối thoát như vậy, nó vẫn luôn hướng về quá khứ oai hùng, đầy uy nghiêm. Ại từ nhân xưng “ta” ược tac giả sử dụng ở lối xưng của with hổ, càng thể hiện rõ bản lĩnh, sự uy nghiêm, oai hùng của chúna sơn lâm một thời. with hổ luôn nhớ về thời oanh liệt, vàng son của mình, đó là khi “tung hoành hống hách”, là khi những cảnh quen thuộc là “bong cả, cây già”. sự uy nghiêm ngày ấy thể hiện rõ qua những tiếng gầm thét núi, những tiếng gào dữ tợn vang xa đại ngàn. with hổ nhớ về uy thế lẫm liệt của mình, chẳng xa lạ gì với cái tên mà người ta vẫn gọi về nó: chúa sơn lâm. sự suy nGhĩ ngày ấy còn toát lên cả ở những bước đi lẫm liệt, ường hoàng, tất cả mọi with vật ều phải ờản ờp, kấs hình ảnh qua khứ , vừa là hoài niệm, về một othù>

sự nuối tiếc về quá khứ vàng are luôn thường trực trong nỗi nhớ của with hổ, nhớ cả về về num rừng ại ngàn, nhớ cả về những đêm threch, with hổ “mồi ứng uống. : Chúa sơn lâm sau một ngày no say những with mồi, đang cúi xuống uống dòng nước lấp lánh angry trìng. Và cả những ngày that “Chúa tển loài”, Cũng Co NHững Khu những khung cảnh lãng mạn, tiếng chim heó líu luu lo đón ang nắng, hình ảnh with hổôi mắt lim lặng im cảm nhận những hơi thởng củ dần tắt, một khoảng không gian chuyển giao ngày và đêm, ể ể with hổ tục tục một cuộc hành trình sì mồi ầy bí hiểm và sưa. nơi ược gọi là nhà của chú with hổ phải sống trong một không gian đầy sắp xếp tầm thường, giả dối:

“ghét những cảnh không đời nào thay đổinhững cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối…”

sự chán ghét thực tại của with hổ được thể hiện rõ ràng, chân thực. DướI with mắt của chúa sơn lâm, cảnh suối, nước, hoa, cây, mô gò ược làm ể giống với cảnh rừng thiêng ều mang sự giả dối, vìó nó nó fa sự sác sáp ca, ề, ề, ề ề With hổ vẫn luôn đau đáu và nhớ về thời kì oai nghiêm của mình, vẫn là cảnh rừng thiêng “của ta”, như một sự khẳng ịnh, nhưt sự sởu, thể /p>

mượn hình ảnh with hổ, nhà thơ thế lữ mup gửi gắm nỗi chán ghét thực tại tầm thường, ơn điệu, ồng thờn hi or ềm khao khát tự do mé ménh liệt, quha ướm. kín mà không kém phần sâu sắc.

hình tượng with hổ trong bài thơ nhớ rừng – mẫu 6

nhớ rừng của thế lữ ra đời năm 1934, đó là lúc mà đất nước ta vẫn chìm trong nỗi nhục của những than kiếm. nỗi đau mất nước trong suốt một thời gian dài trở thành chủ đề nhớ tiếc căm hờn của biết bao thi sĩ. cảm nhận sâu sắc nỗi niềm dân tộc ấy, thế lữ đã mượn lời con hổ bị giam cầm trong vườn bách thú mà nói lên niềt.

bài thơ được tác giả ngắt thành năm đoạn trong đó đoạn một hợp với đoạn bốn, đoạn hai hợp với đoạn ba tạo thành một cặp ý đối lập nhau: cảnh vườn bách thú nhỏ hẹp và tù hãm với cảnh núi rừng hùng vĩ nơi with hổ ngự trị, tung hoành những “ngày xưa”.

bài thơ mở đầu đầy căm hờn nhưng cũng đầy bất lực của with hổ. sự căm hờn ấy là kết quả của sự dồn nén lâu ngày trong chật chội và ngột ngạt. nó bứt rứt, khó chịu và u uất vô cùng. khổ thơ là sự chán ngán cái thực tại, chán ngán “lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ” dám “giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”. cảnh tù đày “nhàn hạ” như một thứ đồ chơi thực sự đã trở thành một nỗi nhục nhã đối với chúa tể củnga gir. khổ bốn tiếp tục mở ra “niềm uất hận” khi chúa sơn lâm hàng ngày phải chứng kiến ​​​​những sự đổi thay tầm thường và giả. Đó là “những cảnh sửa sang” giả làm “bí hiểm” nhưng chỉ là sự bắt chước một cách vụng về cái chốn hoang vu và cao cả của sơa l

Đối lập với cảnh ở vườn bách thú là cảnh chốn âm u và hùng tráng của rừng già được mở ra ở khổ hai, ba. Ở cái nơi sơn cùng thủy tận ấy, hổ dõng dạc, đường hoàng trong vai chúa sơn lâm. Đó là chốn hoang vu mà thảo hoa nhiều đến nỗi không ai nhớ hết tên và tuổi. chốn thiên đường của chúa tể muôn loài chứa chan những kỷ niệm, những chiến tích oai hùng của cái thuở được tự do. nhưng đau đớn thay với hổ, những chiến tích ấy giờ đây chỉ còn là chuyện của “ngày xưa”. chính vì thế mà cái ước muốn và niềm khao khát được tự do của chúa sơn lâm mới cuộn dâng trong những dòng thơ cuối. Đó là cái ước muốn được trở về với cái uy danh thực sự, trở về với cuộc sống tự do của rừng già.

như vậy bài thơ chính là tâm trạng đầy bi kịch của chúa rừng khi bị sa cơ, bị thất thế, bị giam cầm. Bài thơ ặt trong hoàn cảnh lịch sử ất nước những năm 30 thì nỗi tủi nhục, Cay ắng căm hờn của with hổ cũng ồng điệu với bik của ồng bào ta trong ca ca.

bài thơ là minh chứng cho một thực tế sáng tac khá pHổ biến trong tầng lớp văn nGhệ sĩ và cũng là một nét tâm trạng của tầng lớp tiểu tư sản ở nước ta lúc đ. trí thức văn nghệ sĩ lãng mạn giàu lòng yêu nước nhưng sự o ép nhiều khi đến dã man của bọn thực dân đã làm cho cái tinh thần dân tộc của họ dù rất muốn được thể hiện nhưng cũng chỉ tìm cách nào đó mà phản kháng gian tiếp thôi. nhớ rừng chọn lời with hổ để thể hiện lòng yêu nước và tinh thần dân tộc là vì như vậy. chọn lời with hổ, thế lữ ít phải dè dặt hơn trong nội dung cảm xúc. bằng cach này tac giảcc thể pHô bày tất cả những “nhố nhăng” của hiện thực từ đó mà thể hiện sự pHản kHáng hiện thực và niềm khát khao ménh cuộc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc sốc s

nhớ rừng có cách thể hiện nội dung cảm xúc giống với thề non nước hay muốn làm thằng cuội. nội dung tư tưởng của bài thơ được thể hiện gián tiếp mà sắc sảo. Hình tượng chúa sơn lâm với nỗi nhớ rừng, nỗi đau sa cơ, thết thế cũng chính là bi kịch của dân tộc, là tình yêu quê hương tha thiết và là khát vọng tự do.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *