Cảm nhận bài thơ Tràng giang – Huy Cận

Cảm nhận của em về bài thơ tràng giang

Mời các bạn xem danh sách tổng hợp Cảm nhận của em về bài thơ tràng giang hot nhất hiện nay được bình chọn bởi người dùng

cảm nhận bài thơ tràng giang là một trong những đề bài cơ bản khi học về tác phẩm này. dưới đy chúng tôi tổng hợp kiến ​​​​thức và hướng dẫn chi tiết làm bài cảm nhận bài thơ tràng giang giÚp cc em học sinh nắm ược à tham kach làhamm v.

hướng dẫn làm bài cảm nhận bài thơ tràng giang – huy cận

1. phân tích đề

– yêu cầu ề bài: phân tích các chi tiết, hình ảnh, nội dung, nghệ thuật của bài thơ ể ể rút ra thông đp và tư tưởng mà tác giảc gứmtác tác

bạn đang xem: cảm nhận bài thơ tràng giang – huy cận

– Đối tượng làm bài: bài thơ tràng giang

– phương pháp làm bài: phân tích, cảm nhận

2. các luận điểm chính cần triển khai

luận điểm 1: khung cảnh thiên nhiên song nước mênh mang, rộng dài và tâm trạng của nhà thơ

luận điểm 2: sự hoang vắng trong khung cảnh và sự cô đơn của nhà thơ

luận điểm 3: tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước của nhà thơ

3. lập dàn ý

i. mở bai

giới thiệu về tác giả huy cận và bài thơ tràng giang

ii. thanks bai

– cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên song nước mênh mang, rộng dài và tâm trạng của nhà thơ.

+ song gợn nhẹ gợi nỗi buồn mênh mang

+ “tràng giang”, “điệp điệp” tô đậm nỗi buồn triền miên, kéo dài theo cả không gian và thời gian.

+ “thuyền về nước lại” gợi sự chia lìa, xa cách, không hứa hẹn gặp gỡ.

+ sự bơ vơ, lạc lõng, trôi nổi bất định giữa cuộc đời, “củi nhỏ cành khô” gợi sự nhỏ bé, tầm thường.

– cảm nhận sự hoang vắng trong khung cảnh và sự cô đơn của nhà thơ

+ khung cảnh hoang vắng, thưa thớt, thiếu vắng sự sống with người

+ không gian mênh mông, lặng lẽ khắc họa sự cô đơn trong lòng tác giả

+ khao khát một cây cầu bắc ngang để được giao lưu gần gũi với mọi người, cuộc đời

– cảm nhận tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước của nhà thơ

+ hình ảnh tráng lệ nhưng đượm buồn, “bóng chiều sa” gợi cảnh ngày tàn, “chim nghiêng cánh nhỏ” thể hiện sự bé nhỏ, mỏng manh.

+ nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương dợn dợn theo từng with nước lên xuống

+ khao khát được trở về nhà, về quê hương như tìm một bến đỗ, chỗ dựa tinh thần cho tâm hồn cô đơn.

iii. kết bai

nêu cảm nhận chung của em về bài thơ tràng giang

4. sơ đồ tư duy

Sơ đồ tư duy cảm nhận bài thơ Tràng giang - Huy Cận

xem thêm: sơ đồ tư duy tràng giang

5. kiến thức bổ sung

Ý nghĩa nhan đề và lời đề tựa bài thơ tràng giang

– nhan đề: ngay từ thi đề, huy cận đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại cho bài thơ. “tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của huy cận. hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con song, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng trường giang trong ường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh dhòằng.

– lời đề tựa: nhấn mạnh không gian mênh mông và nỗi nhớ sâu thẳm trong lòng người.

văn mẫu tham khảo cảm nhận bài thơ tràng giang

cảm nhận bài thơ tràng giang – bài văn mẫu tham khảo 1:

huy cận là nhà thơ của thiên nhiên nhiên, đất nước, with người. Ông thường viết những bài thơ ngợi ca vẻ đẹp của with người lao động, của sự say mê cống hiến cho đời. ta thấy được sự khỏe khoắn, tươi vui trong các tác phẩm của ông như Đoàn thuyền đánh cá, bài ca cuộc đời…. nhưng huy cận cũng có những lúc u sầu, buồn bã trước trần thế – điều hiếm khi ta thấy trong các sáng tác của nhà thơ này. nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương và sự cô ơn, buồn tủi ược nhà thơ thể hiện trong bài thơ tràng giang, ược sáng tac năm 1939. Trước cảnh sông nước mêng, rộng, thìnm, tìnm, tìnm, tìnm, cônm. , từ đó khơi dậy nỗi nhớ quê hương tha thiết.

ta cảm nhận được một tâm trạng đượm buồn của tác giả ẩn sau bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu:

“sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

with thuyền xuôi mái nước song song.

thuyền về nước lại sầu trăm ngả

củi một cành khô lạc mấy dòng”

các từ láy “song song”, “điệp điệp” gợi ra một không gian song nước mênh mang, bao la và rộng lớn. Trong Không Gian ảM ạM đó chỉc có duy nhất một hình bong with Thuyền, nhưng with thuyền ấy cũng lênh đênh, vô ịnh, ể ể àc choc dòng nẩc ẩy tritor uất trước cuộc đời. hình ảnh “thuyền về nước lại” nghe sao mà xót xa quá! Thuyền và nước vốn là hai sự vật song hành cùng nhau, thuyền nhờco nước mới trôi đi, nước thì có thuyền mà song sánh, ấy vậy nhưng ở đ đ ở and huys c ạt. này gợi một nỗi sầu “trăm ngả”…. không có gì có thể buồn hơn. câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất là hình ảnh thơ độc đáo với hai vế: “củi một cành khô – lạc mấy dòng”. lượng từ “một” diễn tả sự ít ỏi, chỉ độc một cành củi khô, cũng giống như chỉ có duy nhất một with thuyền. tâm trạng buồn bã của tác giả được đẩy đến đỉnh điểm, khi xung quanh các sự vật cũng đều đơn côi, lẻ bóng không biếtâ nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vừa cho thấy cái vô hồn của cảnh vật, vừa thể hiện lên sự có hồn, là tâm trạng buồn b.

khổ thứ hai tiếp tục diễn tả nỗi cô đơn của tác giả, nhưng có một chút gì đó rõ ràng hơn:

“lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”

nếu như ở khổ thơ đầu, ta chỉ thấy những hình ảnh của thiên nhiên thì đến những câu thơ này đã xuất hiện h cong. nhưng with người cũng xuất hiện trong trạng thái thật chán nản, đó là tiếng van chợ chiều ở phía xa xa. MộT NGôi Làng Gần ấY đang bắt ầu dọn dẹp ch pHiên chợ cả ngày của mình, chỉ còn lại những tiếng chào tạm Biệt, âm Thanh vãn chợ vĂng vẳng đ đ ấ những tưởng sự xuất hiện của with người sẽ làm cho bức tranh bớt ảm ạm hơn nhưng không, chung lại khiến choc tac giả cảm nhận sâu sắc ược tình cảnh củnh của củ cũng như tâm trạng không còn vui vẻ, hào hứng của nhà thơ huy cận. hai câu thơ sau miêu tả thiên nhiên cực độc đáo:

“nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

hình ảnh đối lập: “nắng xuống – trời lên” thể hiện sự buông thả của cuộc đời. Ánh nắng rực rỡ đã nhường chỗ cho một màn đêm sắp buống xuống. CụM Từ “Sâu Chót Vót” Là Hình ảnh Cực Kì ộC đao, Bởi Lẽ “Chót Vót” vốn là một từ ể ể Miêu tả ộ ộ ộ cao nhưng ở đy lại ược dùng ể miêu tả ớ ớ ớ ớ ớ bức tranh vô cùng rộng lớn mà trong đó là sự tồn tại nhỏ bé của tác giả.

khổ thơ tiếp theo vẫn là một sự buồn thương, u ám trong bức tranh thiên nhiên buổi chiều tà:

“bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

mênh mông không một chuyến đò ngang.

không cầu gợi chút niềm thân mật,

lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

nhà thơ tiếp tục sửng hình ảnh “bèo” trôi, cũng như with Thuyền và cành củi khô ở đoạn ầu, là những số phận lênh đnh, trôi nổi khhng biết. khung cảnh bên bến song trơ ​​trọi, không có một chuyến đò để đưa khách, không có một cái cầu bắc nhịp, chỉ có một bờ bãngi r᛻. cả một bức tranh hiện thực ượm buồn mà nỗi cô ơn của tac giả như đang muốn thoot ra khỏi đó, ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể

khổ thơ cuối là nỗi nhớ nhà của tác giả:

“lớp lớp mây cao đùn núi bạc

chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

lòng quê dợn dợn vời with nước

không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

cach miêu tả thiên nhiên của huy cận như gợi ra trrước mắt người ọc một bức tranh với những đám mây cứ tầng tầng, lớp lớp đùn ra trên những ngọn ni nghiêng trong bóng chiều bay về tổ để đoạn tụ với gia đình. có lẽ khi chứng kiến ​​​​những hình ảnh thiên nhiên ở các câu thơ trước, nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn thấm sâu trong lòng mình nhưng chỉ đến khi nhìn thấy hình ảnh cánh chim, huy cận mới bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương da diết. ta thấy được tình cảm chân thành, gắn bó của nhà thơ với gia đình, với quê hương, đất nước. dù có đang ở nơi đâu thì trong lòng của một người with xa quê vẫn luôn khắc khoải nhớ về những bóng hình của những ngưâng

tràng là dài, giang là song, tràng giang là song dài, cũng là một nỗi buồn kéo dài vô tận của nhà thơ. huy cận đã lồng ghép tâm trạng của mình vào từng cảnh vật trong bài thơ, qua đó bộc lộ nỗi buồn thương và nỗi nhớ ếttha thi. Ọc bai thơ, ta thấy thêm ược một khía cạnh khác trong thơ huy cận, rằng ông không chỉ viết hay, viết sâu sắc về sự hởi, tưởi máƿt vuith c. Đây quả là một nhà thơ tài ba đáng ngưỡng mộ!

cảm nhận bài thơ tràng giang – bài văn mẫu tham khảo 2:

huy cận là một Trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới, Thơ huy cận bật lên trong phong trào thơ mới với nỗi buồn mênh mang, khắc khoải, đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ , giàu suy tư về cuộc đời và with người. “tràng giang” (trích trong tập thơ “lửa thiêng”) là bài thơ tiêu biểu, thể hiện riqu nhất phong cách thơ của huy cận, trong mỗi khổ thơ ều chất bunt chứa chứa. Ặt cái nhỏ bé của con người trước thiên nhiên mênh mông, huy cận đã thành công khơi dậy nỗi cô ơn, cảm gic chơi vơi, lạc lûng của.

mở ầu bài thơ là những câu thơ ậm phong cach cổ điển giàu hình ảnh và giàu nhạc điệu, chynh những từ lay và cach gieo vầin tạo nên âmm

“sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

with thuyền xuôi mái nước song song

thuyền về nước lại sầu trăm ngả

củi một cành khô lạc mấy dòng”

“tràng giang” ở đây không chỉ nói ến một with song dài mà còn rộng, những with song trên só. “ta cảm nhận ược sức gợi rất ménh liệt, từng with song giống như những nỗi buồn của thi nhân, nỗi buồn ấy cứ dài rộng, triền miên cả không gian và thời gian. nước ẩy ưa gợi sự lênh đênh, pHó mặc số pHận cuộc ời, cũng bởi with Thuyền so với dòng sông là là là nh ưới, “,” nh “nhướ nhướ nhướ nhướ nhướ nhướ nhướ nhướ nhướ nhướ ướ ướ ề ướ ướ ướ ướ ướ ướ ướ ướ ướ ướ ướ ướ ướ ướ ướ lại” chẳng hứa hẹn sự giao thoa, gặp gỡ lại mang nặng nỗi buồn chia lìa, xa cách. ta cảm nhận ược sự mới mẻ hi ại trong “tràng giang” bởi nó xuất hiện cai tầm thường, nhỏ bé, vô nghĩa như “củt cành khô”, đã là củi nhưng cũng cũng cũng cỉn com. , hết sức tầm thường, bé nhỏ. hình ảnh một cành củi khô lạc trôi bồng bềnh trên dòng nước mênh mông rộng lớn gợi lên nỗi buồn về một kiếp người bỰ é, nhỰ. nỗi buồn càng thấm sâu hơn vào cảnh vật khi cảnh càng hoang tàn, quạnh hiu đến nao lòng:

“lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

cặp từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” c cùng gợi lên sự buồn bã, quạnh hiu, cô ơn, không gian xung quanh ều vắng vẻ, lại thêm tiếng vãn chợề chiền. đã thưa thớt, vắng vẻ, không có ược cái nhộn nhịp tấp nập như chợ sáng, ngay cả tiếng chợ chiều ằng xa cũng không cònn, nữ than cân cân . hai câu thơ sau gợi ra một không gian cao sâu, dài rộng mênh mông “sâu chót vót”, chiều cao dường như vôn, “sông dài, trời rộng”, nhưng ứng gi ữn. của vũ trụó lại chỉ có “bến cô liêu”, ta cảm nhận ược sự côi liêu không chỉa của bến đò mà còn là sự côi trong lòng người, with người nhỏ bé nhị bán chá chá la.

“bèo dạt về đâu hàng nối hàng

mênh mông không một chuyến đò ngang

không cầu gợi chút niềm thân mật

lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

tiếp nối mạch cảm xúc ược gợi ra từ hai khổ thơ ầu, ến đy nỗi buồn vẫn ược khắc sâu vào hình ảnh bèo dạt lênh đnhnh, lênh ịnh vô ạnh, Thia, Thia. tuyệt nhiên không có bóng dáng with người “không một chuyến đò ngang”, cũng không có nổi một cây cầu để gắn kết, tạo sự gần gũi conưv. chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” nối tiếp nhau, có thể nói, nỗi buồn của tac giả không dừng lại ởi nỗi buồc trờc trờc trờ đời.

“lớp lớp mây cao đùn núi bạc

chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

lòng quê dợn dợn vời with nước

không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

khung cảnh trời thu với những đám mây trắng đùn lên phía cuối trời, ánh mặt trời phản chiếu lên những đám mây đó biến chúng thành những ngọn núi màu bạc trắng xóa, gợi cảnh thiên nhiên thật kỳ vĩ, tráng lệ. thế nhưng xen giữa cai tráng lệ ấy vẫn là nỗi buồn, là hình ảnh canh chim nhỏ nghiêng mình, with chim bé nhỏ ơn côi lẻ bong trong buổi chiều tà gợi nỗi niềm x ngợp bao nhiêu thì nỗi buồn càng sâu lắng và khắc khoải hơn. nỗi nhớ quê hương dợn dợn theo từng con nước lên xuống, không thể ngừng, không thể nguôi ngoai, nỗi nhớ nhà cũng theo đó mà càng da diết, không cần khói hoàng hôn, không cần tác động ngoại cảnh cũng đủ làm cho sự nhớ nhung tràn ngập tâm hồn. nhà thơ khát khao, được trở về quê hương, tìm một bến đỗ cho tâm hồn, tìm nơi sẻ chia sự cô đơn, trống vắng.

như vậy, xuyên suốt bài thơ “tràng giang” của huy cận là cả nỗi buồn cứ trum . Bài thơ mới chấm pHá nét cổ điển đã khắc họa rõ nỗi buồn nhân, niềm khao khát hòa nhập với cuộc ời của nhà thơ, ồng thời là tình c cảm nhớng ấ.

tham khảo: phân tích bài thơ tràng giang của huy cận

cảm nhận bài thơ tràng giang – bài văn mẫu tham khảo 3:

Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đến những nơi yên tĩnh để lắng đọng tâm hồn. những lúc ấy người ta cảm thấy mình bé nhỏ trước không gian mênh mông, vũ trụ rộng lớn. rồi chợt họ nhận ra kiếp người sao qua ngắn ngủi, đời người thật phù du và with người nhỏ bé trước vạn vật. Đọc “tràng giang” của huy cận cảm xúc trong tôi dâng lên nỗi buồn cô quạnh khi ella nghĩ về những kiếp người trôi nổi, lênh đpênh.

bài thơ “tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của huy cận mang net u sầu, chất chứa nhiều phiền muộn, tâm tư. chynh vì thế mà những từ ngữ trong bài pHản angrực tiếp cai sầu của thi sĩc thời cuộc và những nghĩ của tac giả trên hành trình đi tìm “thơ mới”.

tên tác phẩm “tràng giang” đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ về with song dài, mênh mông. tựa đề cũng tạo cảm giác hoài cổ khi thi sĩ sử dụng một loạt từ hán việt. Đã có rất nhiều người thay thay thế tên tác phẩm “tràng giang” thành “trường giang” nhưng riêng tôi cho rằng cái tên vốn có của nó vẫn chíà with song m. thế nhưng khi thay bằng “tràng giang” with song không chỉ dài mà còn rộng. song trở nên mênh mông, bát ngát hơn từ đó nói lên ược ý ồ của tác giả trong sự ối lập giữa thiên nhii rộng lớn và with ngưnhời . câu đề từ tiếp tục khẳng định về một with song rộng lớn “bâng khuâng trời rộng nhớ song dài”. nhưng cảm giác mang lại là sự lưu luyến, nhớ thương về một with song trong qua khứ.

khổ thơ đầu tiên không chỉ mang đến bức tranh buồn, cô đơn mà thiên nhiên còn gợi cảnh chia li, tách rời

“sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

with thuyền xuôi mái nước song song

thuyền về nước lại sầu trăm ngả

củi một cành khô lạc mấy dòng.”

với những câu thơ đầu tiên, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh như song, with thuyền, củi. sóng đi liền với động từ “gợn” – dịch chuyển nhẹ nhàng, lăn tăn lan xa. chỉ với một net gợn nhẹ ấy cũng đủ làm cho nhân vật trữ tình trở nên buồn bã. từ láy “điệp điệp” diễn tả nỗi buồn chồng chất, nối tiếp nhau. nỗi buồn không chỉ dâng lên một lúc mà nó còn kéo dài mãi, miên man không dứt. trên những gợn sóng ấy xuất hiện “with thuyền xuôi mái” – cô đơn, lạc lõng, bơ vơ. Không nghe thấy tiếng Mái chèo tạo nên tiếng song vỗ vào mạn thuyền chỉ thấy một with thuyền buông xuôi, lênh đênh mặc choc nướdòc xuô câu thơ còn ộc đ thiên nhiên không chỉ gợi buồn mà khung cảnh chia lìa cũng thấy rõ.

“thuyền về nước lại sầu trăm ngả” là câu thơ có thể hiểu nhiều cách. thứ nhất có thể hiểu là khi thuyền về nỗi sầu của nước lại nhân lên gấp bội. cách thứ hai chỉ rõ hơn về sự chia cắt khi thuyền và nước đi ngược chiều nhau. lúc thuyền về lại chốn cũng là lúc nước ở lại với dòng sông c cùng nỗi sầu, nhưng nỗi sầu này không chỉi theo nướt nơi mà là là nhiền khác nháu. phép đối đã được sử dụng thành công để nói về sự chia cách này. khép lại khổ một huy cận mang đến một hình ảnh đậm net cô đơn – “củi”. tính chất của hình ảnh này là “khô” – héo Úa, không còn sự sống cùng với phép ối giữa “một cành khô” – “mấy dòng” càngng nhấn hơn hơn. . Ộng từ “lạc” đã nói lên ược sự bấp bênh, lênh đênh của sựt vật nhưng tac giả dùng “lạc mấy dòng” thì càng làm rõ hơn sự gian nan, “bảy nổm” Thì c. chỉ với khổ một nhưng tâm trạng mang lại đã buồn bã, u sầu đến vậy.

tác giả bắt đầu với khổ thơ đầu tiên trong phạm vi hẹp. Đến với khổ thơ tiếp theo, không gian bây giờ đã được mở rộng hơn.

“lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

nắng xuống trời lên sâu chót vót

song dài trời rộng bến cô liêu.”

hình ảnh “cồn nhỏ” gợi lên không gian vắng lặng, trơ trọi. Tinh từ “nhỏ” làm cho hình ảnh này càng bé nhỏ, chơ vơt hợp với từ lay “lơ thơ” gợi cảm giác ít ỏi diễn tảc trap trash thiếu sức sống trên cồn cat. không gian trên cồn không chỉ buồn mà còn hiu hắt. Đến gíó cũng mang cái “đìu hiu” buồn bã, thê lương như nhấn khung cảnh vào nỗi u sầu. các câu thơ mà tác giả sử dụng trong bài đôi khi được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” có thể hiểu là một câu hỏi tu từ về vị trí của “tiếng làng xa”, trông ngóng về tiếng họp buổi chiều. tuy nhiên “đâu” cũng là một từ mang nghĩa phủ định, tức là đến cả tiếng nói cũng những người họp chợ nhà thƺng ၥy cũth không. tất cả chỉ còn lại một không gian tĩnh lặng đến lạnh lùng.

không gian trong khổ thứ hai vừa mở rộng về chiều cao và dài nhưng đồng thời cũng mở rộng cả chiều sâu vũ trụ. thủ pháp nghệ thuật tương phản “nắng xuống trời lên” đã giúp không gian mở rộng theo chiều cao. nắng chiếu xuống tới đâu thì bầu trời càng được đẩy cao tới đó. CHốT LạI Câu Thơ Tac Giả Sử DụNG “Sâu Chót Vót” Không NHữNG GợI ượC Cái Thăm Thẳm, Hun Hút Mà Còn Giúp Cho Vũ Trục Kéo Dài Ra Nhấn Mạnh Hơ NH NHỏ Be ỏc. câu thơ cuối cùng của khổ chính là bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bát ngát với “sông dài trời rộng”. trên nền không gian ấy xuất hiện “bến cô liêu”. hình ảnh này không chỉ lột tả được cái nhỏ nhoi, đơn độc mà “cô liêu” còn là sự quạnh quẽ, lanh lẽo, chơ vơ. NGHệ Thuật tương phản giữa hình ảnh bé nhỏi không gian rộng lớn càng tôn ậm hơn sự u sầu, buồn bã của tac giả khi nghĩ về kiếp người trôi nổi nổi nổi nổi nổi

“bèo dạt về đâu hàng nối hàng

mênh mông không một chuyến đò ngang

không cầu gợi chút niềm thân mật

lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

“bèo” – sinh vật phù du mang trong mình kiếp sống trôi nổi, bấp bênh, đã vậy còn kết hợp với ộng từ “dạt” làm rõ hơn sự chìhẻ cìhà n. “Đâu” từ hỏi về nơi chốn của “bèo”. hình ảnh bèo lạc lõng, bơ vơ, không điểm tựa không nơi bám via. “hàng nối hàng” như khắc họa rõ hơn về số phận của loài sinh vật này. Đọc câu thơ ta có thể liên tưởng về những kiếp người nổi trôi, không có nơi nương tựa. và trong không gian “mênh mông” đó, tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đò ể cảm nhận ược sự sống nhưng dường như khhng cón tím ệá đáp lạng nhưng dường như khhông cón tím ệá đáp lạng nhưng dường như khh. “không một chuyến đò” cũng đồng nghĩa không có hoạt động của with người, điều này càng làm cho nỗi cô đơn dâng lên. trong khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định nhằm khắc họa sự cô đơn trống vắng của lòng người. tiếp sau “không đò” là “không cầu”. chiếc cầu vốn là hình ảnh đặc trưng của miền quê, mang net giản dị, than mật. nhưng vì hình ảnh này không có nên có thể thấy thiếu vắng cảm giác quê hương. câu thơ cuối tác giả sử dụng màu xanh và vàng nhằm vẽ nên bức tranh tươi sáng hơn nhưng từ láy “lặng lẽ” đã dìm màu sắc nà. hai hình ảnh “bờ xanh”, “bãi vàng” không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. từ láy này được đưa lên đầu như sự nối tiếp của nỗi cô đơn từ vật này sang vật khác. trong ba khổ thơ đầu, tác giả chỉ miêu tả về thiên nhiên thì khổ thơ cuối cùng thi sĩ đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nướa mc</c

“lớp lớp mây cao đùn núi bạc

chim nghiêng cánh mỏi bong chiều xa

lòng quê dợn dợn vời with nước

không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

chỉ với 4 câu thơ nhưng nhà thơ đã cho thấy sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. từ láy hoàn toàn “lớp lớp” diễn tả sự chồng chất, nối tiếp nhau. câu thơ đầu tiên khắc họa những đám mây từng lớp đùn lên thành những dãy núi bạc. Đến đây, ta chợt nhớ tới chữ “đùn” trong bài “thu hứng” của Đỗ phủ:

“mặt đất mây đùn cửa ải xa”

nếu như với ỗ ỗ pHủ câu thơ trên là hình ảnh mây trắng sà xuống thấp tới mức tưởng như đùn từ mặt ất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa xa x thì trong câu thơ “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” lại mang tới hình ảnh nhiều lớp mây chồng chất lên nhau giống như nỗi sầu của thi nhân đã thấm sâu vào cảnh vật, nó chất chứa trong tâm hồn ông giống như tầng tầng lớp lớp mây kia chất chồng thành núi bạc vậy. câu thơ tiếp theo tác giả sử dụng thủ pháp cổ điển để nói về tình cảnh lẻ loi đơn độc của cánh chim trước “bóng chiều sa”. hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” không chỉ gợi sự đơn độc mà “nghiêng” còn nói tới trạng thái mất cân bằng, không rõ nơi trú của mình là đâu, hình ảnh này càng làm nổi bật hơn sự lận đận của kiếp người trước thiên nhiên. trong không gian buồn ấy, thi sĩ bỗng nhớ về quê hương

“lòng quê dợn dợn vời with nước”

“dợn dợn” là gợi lên, dấy lên, có những cảm xúc khó nói. chỉ cần nhìn thấy “with nước” là lòng thi sĩ là nhớ về quê hương – nỗi nhớ thường trực. NếU NHư ở Các Câu Thơ Trên Phải Có Một Hình ảnh, Chi Tiết Nào Về Cố Hương Thì thi sĩ mới bộ lộ cảm xúc nghìn năm trước cũng từng có tác phẩm nói về nỗi nhớ quê hương

“nhật mộ hương quan hà xứ thị

yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

(quê hương khuất bong hoàng hôn

trêm song khói song cho buồn long ai)

(hoàng hạc lâu – thôi hiệu)

nhưng thôi hiệu nhìn thấy khói sóng liền nhớ về quê nhà của mình còn huy cận không cần thấy gì nỗi nhớ ấy vẫn lên dấy. nếu như thôi hiệu ứng trên xứ người lòng khắc khoải hướng về cố hương thì huy cận lại ặc biệt hơn khi chynh ông đg ứn mứng ứn mứn. NHư VậY, BằNG CACH KếT HợP NHUầN NHUYễN GIữA YếU Tố ườNG THI Và YếU Tố THơ MớI, về một bức tranh thiên nhiên mênh mông. Ở đó with người có thể cảm thấy sự bé nhỏ của mình trước không gian, kiếp người ngắn ngủi trước vũ trụ. “tràng giang” còn là tiếng lòng của một người with yêu quê hương, đất nước sâu nặng.

cảm nhận bài thơ tràng giang – bài văn mẫu tham khảo 4:

huy cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. thơông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, luôn thể hiện sự giao cảm giữa with người và vũ trụ. tràng giang là một trong những bìa thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của nhà thơ.

ngay ở câu ề từ của bài thơ, nhà thơ đã chười ọc cảm nhận ược nỗi buồn của cảnh vật cũng như của trạng người thi sĩ, lời ề đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ của bài thơ.

sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

with thuyền xuôi mái nước song song

thuyền về nước lại sầu trăm ngã

củi mội cành khô lạc mấy dòng

Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả như được nhân lên. NGAY ở KHổ THơ ầU tac giả đã dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh ể ể khái quát vềnh vật, qua những cảnh vật ấy tac giả muốn thển tâm tạng của m. hình ảnh “sóng gợn” gợi cho ta liên tưởng tới những làn songg đang lan ra, loang ra ến vô tận cũng giống như nổi buồn của nhà thơ âm guà dadiầm. with song ở giữa một dòng song dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của nhà thơ được nhân lên. cảnh with thuyền và mọi cảnh vật đều cô đơn càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết bày tỏ tâm trạng cùng ai. tác giả đã dùng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cap.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

nắng xuống, trời lên sâu chót vót

sông dài, trời rộng bến cô liêu

lại một lần nữa tác giả đã dùng những hình ảnh “cồn, gio, làng, chợ, bến” để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tac giả cảnh vậy trở nên thưa v àng mang ậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, imồn tẻ, im ắng và cũng vìng nên nên nhn nh ượm

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. nhà thơ đ đ ố Gắng tĩnh tâm ể nghe ngóng cai âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận ược và nhà thơ đ đnển nhãn quan của mình ến một đt đt đt đt.

nắng xuống trời lên sâu chót vót

sông dài, trời rộng bến cô liêu

nhà thơ sử DụNG nGhệ thật ối ý nắng xuống và trời lên ể gợi sự chuyển ộng hai chiều của ất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời hun hút, with người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận.

bèo dạt về đâu hàng nối hàng

mênh mông không một chuyến đò ngang

không cầu gợi chút niềm thân mật

lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

hình ảnh cánh bèo gợi cho ta lien tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. bèo trôi không biết dạt về đu, không có một cái cầu, không chuyến đò ể ưa khách, cảnh tưởng như vậy thì làm sao with người thoát ƻồn. miêu tả cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với ời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của cuộc cón ời cuᑑs.

lớp lớp mây cao đùn núi bạc

chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

lòng quê dợn dợn vời with nước

không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, nhà thơ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thùnhy thyng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng tháng th. mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc lấp lánh mà nhà thơ gọi nó là “núi bạc”. hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nổi buồn của ông, giống như nổi buồn của ông tích tụ như no c c ctedg với đám mây còn có hình ảnh chim.

lòng quê dợn dợn vời with nước

không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

tác giả đã dùng tự lay “dợn dợn” ể diễn tã những with song vời theo with nước lan tỏa ra tắt cho thấy nổi nhớ nhà luôn thường trực trong ông và s àn sàng lan tỏa ra khắp >

bài tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương đến da diết của nhà thơ. Ứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, nhà thơ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm chân thành với quê hương ất nướn củ tha. với cách tiếp cận với những vấn đề gần gũi trong cuộc sống, tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học việt nam.

tham khảo thêm:

  • cảm nhận vẻ đẹp trong khổ thơ cuối bài tràng giang – huy cận
  • phân tích hai khổ thơ cuối bài tràng giang – huy cận
  • cảm nhận bài thơ tràng giang – bài văn mẫu tham khảo 5:

    có những tác phẩm văn học vừa ọc xong, gấp lại là ta sẽ quên ngay, nhưng cũng có không Ít những bài văn bài thơt diệu kì, đ đi vào l. . tràng giang của huy cận là một tác phẩm như vậy! Đọc tràng giang, ta cảm thấy từng lời thơ, từng âm điệu… như những dòng chảy của một con sông, cứ len lỏi nhẹ nhàng nhưng chảy sâu vào tận đáy tâm hồn, khắc chạm vào đó những ấn tượng thâm trầm mà sâu sắc !…

    “thơ huy cận thường buồn”, xuân diệu, người bạn tri kỉ và cũng chính là người bạn đời thân thiết của huy cận cũng đã vã lản th! là hai người bạn thân thiết của nhau, là hai người thi sĩ đa tình cùng yêu mến và tìm đến với thế giới thiên nhiên vô tận, nhưng ở xuân diệu, thiên nhiên say đắm ngọt ngào hương vị ngôn ngữ tình yêu, còn nơi huy cận, thì cây cỏ núi song lại bình thản lặng lẽ như thấm thía nỗi buồn của “cái tôi” lẻ loi cô độc. tràng giang là một trong những kiệt tác kết tụ từ nỗi sầu “mang mang thiên cổ” đó! ỌC Bài Thơ, Có lẽ ta sẽ bắt gặp ược một nỗi buồn, nỗi buồn của chàng thanh niên mà “trọn kiết mắt chàng thường ẫm lệ”, nỗi buon

    “Trong Thơ Việt Nam, Nghe Bay dậy Một Tiếng ịch Buồn, Không Phai Sáo Thiên Thai, Không Phải điệu ái tình, không pHải lời li Tao kể chuyện một cai tôi, mà phải tiếng đìu hiu của khóm trúc bông lau, có phải niềm than vãn của bờ song bãi cát, có phai mặt trăng một mình đang cảm thông cùng các vì sao? tiếng rền rĩ dịu em sẽ vấn lấy ta như một dải lụa ôm ấp một vế đau, tiếng len thấm thía vào hồn ta như khí hậu của num đèo, tiếng làm thành sương ọng ọng ọ

    một lời nhận xét thật hay! mà có lẽ chỉ cần bấy nhiêu đó thôi, ta đã hiểu được khá nhiều về thơ huy cận!

    và đặc biệt là đối với tràng giang …

    bài thơ chính là một bức tranh thiên nhiên mà linh hồn của nó là một nỗi buồn xa xăm, hoang vắng, có một cái gì đó như tàn lụi cô”.i cô”.

    song gợi tràng giang buồn điệp điệp

    with thuyền xuôi mái nước song song

    nhìn những cơn song nhỏ đang lặng lẽ gối ấu nhau mà đi xa ến tận cuối chân trời, tâm hồn nhà thơ bỗng dâng lên một nỗi buồn “điệp đp đp đp đp”. từ “điệp điệp” đã tạo nên hình ảnh một nỗi buồn ngàn trùng, một nỗi buồn triền miên, lớp lớp… thường người tai trùng trùng điệp điệp ể nỗi buồn, đúng là một sáng tạo thật độc đáo tong cách dùng từ để hình ảnh hóa một nỗi buồn thật là lãng mạn! Âm điệu thơ như ngân xa da diết, như thân thuộc quen quen! có lẽ huy cận đã liên tưởng đến một câu ca dao:

    sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu

    Ở đây, có bao nhiêu gợn song trên dòng tràng giang từ là có bấy nhiêu nỗi buồn thi sĩ. câu thơ không chỉ nghiêng về số liệu mà còn nặng về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhàng lặng lẽ thôi nhưng da diết và dai dẳng, nó như vô tình ngàn xa và tạo thành một tiếng buồn vô tình, vang vọng mãi giữa đất trời vũ trụ…

    và… nổi bật giữa những lớp song bạt ngàn đó là hình anh của một with Thuyền, một with Thuyền nhỏi nổi bật giữa những lớp song nhưng cũng đang khuất chìm trong chung! hình ảnh độc đáo vô cùng! chiếc thuyền with như đang lênh đênh, bập bềnh không định hướng, cứ xuôi mãi, xuôi mãi … theo dòng nước vô tận nghìn trùng…

    cụm từ “nước song song” cũng là một cấu tứ lạ mà ta chưa từng ọc bao giờ, nó ối với “buồn điệp điệp” ở câu tru >

    sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã chuyển động ngược chiều nhau, with thuyền đã không còn trôi xuôi theo dòng nước nữa:

    thuyền về nước lại, sầu trăm ngả

    củi một cành khô lạc mấy dòng…

    thế can bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. thuyền về, mà về đâu? … không rõ! chỉ để lại một mặt song vắng bóng thuyền, nỗi cô đơn như trải rộng ra dường như vô tận. hình ảnh with thuyền cứ khuất dần, khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia “sầu trăm ngả”. huy cận đã khéo léo trong việc miêu tả sự vận động của sự vật để nói đến bước đi của không gian. thời gian vận chuyển theo tầm nhìn with thuyền và không gian cũng mở rộng cùng với nó. nếu như lúc trước, không gian chỉ xác ịnh theo dòng nước đang chuyển ộng song cùng với with thuyền thì hình bóng with thuyền đãn ên mất khôc,. có lấy một điểm tựa nào! chính vì vậy, câu thơ thứ ba đã trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô cùng:

    củi một cành khô lạc mấy dòng

    Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi Một Cành Khô” Có lẽ là một hình ảnh mà ta chưa từng bắt gặp bao giờ, chính nó đã ưa đn thơ tho khi bầu khh ô đ đ vh ô ô ớ ớ ớ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ ớ ớ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ. DềNH GIữA MUôn Vàn Cơn Sóg, lúc bị ẩy bên này, lúc lại dạt sag bên kia… đó có pHải chăng là Hóa thân củt kiếp người lữ th ờn the ờn ờn ờn ờn ờ ờn ờn ờ, ba ờn thu ờn ờ, by, by. /p>

    tràng giang đó, vẫn bình thản suy tư qua lớp song “buồn điệp điệp”, qua dòng khơi “nước song” và qua vẻng hờc choc “thuyền vềc lại” m mặc choc cho nhánh củi c. … tràng giang!… song gợn tràng giang!…

    sang khổ thơ sau, tác giả đã đi sâu vào việc mô tả chi tiết nỗi buồn. cái buồn bang bạc cả không gian giờ đã không còn đi lang thang vô địch trên song mà đã tấp vào một cồn đất nhỏ:

    lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

    Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

    nắng xuống, trời lên sâu chót vót

    sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

    cảnh trong bài thơ chứa đầy tâm trạng. có lẽ huy cận đã tập trung tất cả các hình ảnh và nhạc điệu ể làm nổi bật lên cái buồn của with người trước cônh trờgi r. cảm giác buồn gởi trong vần điệu, trong các từ gợi hình mong manh và cô quạnh! “Lơ Thơ” Gợi Hình ảnh, “đìu hi” gợi cảm giác, cả hai từ lay như đã ược nhà thơ phat huy hết hi hi hi hi qả ể mô tải nỗi buồn, một nỗi buồn nh ẹn đơn, đến rợp ngợp tâm hồn.

    câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, có thể hiểu là “đu đây có tiếng làng xa vãn chợ”, nhưng đó cũng có thể là c ci hỏi mà tác giảả “h. đâu rồi”, “có đâu” tiếng “làng xa vãn chợ?”…

    ởy, huy cận đã vận dụng khá tự nhiên một thủ phap quan trọng trong thap cổ điển “mượn cai” ộng “ể nói ến cai” tĩnh “, cốm tốm ki lặngm. rợn người!

    nỗi buồn ấy như càng trải rộng hơn trước cái nền không gian mà tác giả dựng nên bằng những từ ngữ vô cùng độc đáo:

    năng xuống, trời lên, sâu chót vót

    sông dài, trời rộng, bến cô liêu

    cùng một lúc, huy cận đã sử dụng thủ phap của một nhà nhiếp ảnh và nghệ thuật của một nhà hội họa ểng nên một bức tranh ộc đáo. thông thường từ “chót vót” chỉ được dùng để diễn tả chiều cao, vào thơ sâu thăm thẳm” không gian như vụt lớn hơn ra. trên bức tranh song dài hiện thêm một net trời cao “sâu chót vót”, vài cồn đất nhỏ, “bến cô liêu”. thiên nhiên phóng khoáng hơn và tưởng chừng sẽ sống động hơn, nhưng không! Khi Lòng người còn “đìu hiu”, “cô liêu” thì “cảnh cor vui đâu bao giờ”… vài dải ất giữa sông dài, vài ngọn gó “đìu hiu”, chưa ủ ể ể ể ể tiếng làng xa vãn chợ chiều” thì mơ hồ và mong manh lắm! quanh tac giả giờ đây chỉ còn có thiên nhiên, một thiên nhiên với cai buồn ảo não và diết ến bang bạc cả không gian và thời gian ” , nỗi sầu vạn cổ tự ngàn xưa chợt theo gió thổi về! giờ đy, giữa thiên nhiên vũ trụ rộng mênh mông bao la ấy, chỉ còn lại có một mình tác giả, một mình ứng lặng viễn du tương tựth nh>

    ao người trước đã qua!

    ai người sau chưa tới?

    giữa trời đất vô cùng

    mình ta luôn giọt lệ!

    người cô đơn lại gặp cảnh hoang vắng tịch liêu thì nỗi cô đơn ngày càng thêm đậm. KHổ THơ THứ BA NHư Mở RAI KHUNG CảNH DườNG NHư KHôNG COR CHUD DấU VếT NàO CủA Sự SốNG, MộT KHUNG CảNH NHư đã Bị CHìm ắM TRONG THế GIớI CủA SựT ạT ạT ạT

    bèo dạt về đâu hàng nối hàng

    mênh mông không một chuyến đò ngang

    không cầu gợi chút niềm thân mật

    lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

    nỗi buồn được mở rộng ra hơn, dù lời thơ có thêm được vài gam màu sắc nhạt nhòa! cảnh có mở ra Thêm bờ bờ bãi bãi, thêm ít màu sắc vàng tô điểm giữa bức tranh và thay thế “củi một cành khô” ơn ộc lênh đnhnh đ “nàng ốNg. song của nhà thơ như câu trả lời, đành ểể mặc cho tâm hồn mình trở th. .

    một loạt các tình từ mênh mông lặng lẽ đã gợi lên không khí vắng vẻ u buồn, lại còn thêm những chi tiết phủ ịnh ”” không một đng, clay, “. quạnh quẽ. Ến đy tình trạng cô ơn có lẽ đã lên tới ỉnh điểm, she ước mong tìm thấy một “chút ni ềm thn mật” ở một “chuyến đò ngang”, mựt sự liên lạc nà ầ ầ ầ ầ ầ ầ ầ ầ ầ ầ cả đều không có được:

    thuyền không giao nối đây qua đó

    vạn thuở chờ một cánh buồm!

    Đôi bờ song như hai thế giới tách biệt nhau, bờ này tự thu mình không liên lạc với bờ kia! dòng nước vẫn cứ vô tình hững hờ chảy. tràng giang mỗi lúc một bao la, mỗi lúc mỗi ai hài dưới tâm tư trĩu nặng của người thi sĩ trẻ, đã sớm vương nỗi sần thi cảnhnh mang và những cánh bè đg ướt ttt tảt thtt thtt thtt thtt thtt thtt thtt thtt thtt thtt thtt thtt thtt thtt thtt thtt hình ảnh tượng trưng cho thân phận nhà thơ, của lớp người trẻ ở những năm ba mươi, cũng hoang mang vô địch, cũng mỏng manh nhỏ bé, cũng long đong nổi trôi theo dòng chảy bất tận của cuộc đời? giống như tâm trạng mà xuân diệu một lần đã viết” “chúng tôi cũng bơ vơ, mỗi hồn người là một cõi bơ vơ trong đất trời vƙkhung là m”. NHư Vây, Cái Buồn của huy cận, của một chàng thi sĩ đã “hơn một lần gửi áo cho trìng” và lòng vẫn there are “sầu mưa”, “tủi nắng” Nói chynh xác hơn thì đó là nỗi buồn của Thanh niên tiểu tư sản trí tri ờ ờc ờ. nhưng lại bị “thiên hạ bỏ đìu hiu” với những đôi chân “muôn dấu rỗ, thủng gai đời”! và có lẽ chính vì vậy hơn một lần họ đã từng than thở:

    nếu như chưa biết bao nhiêu lần hốt hoảng

    trong sầu đen đã gãy cánh như dơi

    nếu chưa biết bao nhiêu dòng lệ đắng

    chảy như song không rửa sạch sầu đời!

    mượn dòng song để soi linh hồn bé nhỏ cô đơn, nỗi buồn kia như lại cang thêm oằn sâu và trĩu nặng! nhà thơ đã đem lại cái tâm trạng đầy cô đơn buồn bã ấy mà phủ lên cảnh vật thiên nhiên.

    lớp lớp mây cao đùn núi bạc

    chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

    trên giữa bầu trời xanh mênh mông, mây đùn lên trông giống như những ngọn núi bạc trắng xóa, chợt xuấn một cánh bÉ nhỏ mà ”

    dùng một vật hữu hình để diễn tả một cái vô hình. thật khó để hình dung được ranh giới giữa cái nhỏ bé hữu hạn và cái lớn lao vô hạn mà huy cận đã đưa ra! cảnh vật hiện lên trong thơ ông dù cho rất buồn nhưng vẫn chưa đựng được một cái gì đó hùng tráng và mạnh mẽ. Điều độc đáo ở đây chính là cách nhìn của nhà thơ! “trong cánh chim nghiêng, tác giả đã thấy được bóng chiều sa!”. trong lúc nguyễn du thấy “bóng chiều” qua những nhánh “tơ liễu thha” hàn mặc tử thấy “bóng xuân sang” trên những giàn thiên lí, thth ở ở ở ở ở ở . chiều” về trên một cánh chim nghiêng! một cánh chim lẻ loi, chấp chới trong ánh chiều đang xuống, khiến cho trời đất như rộng trải ra thêm! Không Gian vừa mới trải mênh mông trong dáng dấp ngàn mây “lớp lớp” chất chồng, chợt ầm xuống hoàng hôn rất nhanh, đó cũng là khi tâm hồn ng lữ kh kh à n àt à n àt à n àt à n àt à n àt à àt.

    lòng quê dợn dợn vời with nước

    không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

    Âm hưởng của thơ Đường triền miên trong câu cuối, mượn niềm luyến nhớ quê hương của thôi hiệu trong bài hoàng hạc lâu.

    nhật một hương quan hà xứ thị

    yên ba giang thượng sử nhân sầu

    nhưng huy cận đã bộc lộ tình yêu đậm đà tha thiết hơn! tình yêu khắc khoải nên thủy triều rạo rực xôn xao. Điệp từ “dợn dợn” cũng rập rờn như sóng tràng giang “điệp điệp”, cái rập rờn trùng điệp chan chứa biết bao tình. NGày XưA, NHà ​​Thơ ườNG Phải Có “KHÓI SÓG TRên Sông”, Hồ DZếNH PHảI COR “KHÓI BUồN BAY LêN MâY” MớI COR THể GợI NHớ HươNG, MớI tình trong thơ huy cận ứng trước cảnh không sương, không khói hoàn hôn mà cũng rung nỗi nhớ vềt một miền ấi tr xaph khu. huy cận chẳng sầu mênh mông vời vợi do xúc cảm Sinh tình khi ngắm nước tràng giang.

    Đạm đạm trường giang thủy

    du du viễn khách tình

    bao pHủ toàn bài thơ là một nỗi buồn rộng khắp và thấm thíaa, một nỗi buồn mà hoài thanh đã từng nhận xét “” người nói c quarter nhớ bạn… người đã gợi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi gợi cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngấm cầm trongày!”

    buồn nhưng không bi quan, không chán nản! bài thơ hiện diện với tư cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn đậm đà và lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết nồng nàn! có phải chăng vì vậy mà xuân diệu đã từng ca ngợi” “tràng giang là một bài thơ ca hát non song đất nước, do đó dọn đường cho lòng sƪu gig></

    cảm nhận bài thơ tràng giang – bài văn mẫu tham khảo 6:

    tràng giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng huy cận và thể hiện rõ chất tâm hồn ông. huy cận cũng đã nhiều lần kể lại qua trình viết nó. cảm hứng thơ được gợi từ phong cảnh song nước vùng chèm vẽ ngoại thành hà nội. bây giờ nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào thời huy cận viết tràng giang cho đến mấy chục năm sau, nó đìu hiu sông nước, vắng lặng, đẹp và buồn đúng như trong bài thơ đã tả.

    huy cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng chọn thơ bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ông còn cho biết lớp lớp mây cao đùn núi bạc là do ông học ở bản dịch thơ Đỗ phủ “mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Ý kết là ông tựa vào thôi hiệu, qua bản dịch của tản đà “trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” ể ể nỗi buồn của lòng mình: không khói ho va. chính không gian Đường thi trong hơi thơ bảy chữ tạo nên sự cộng hưởng cảm xúc đồng chiều ấy. nếu viết ở thể thơ khác, chưa chắc đã có sự cộng hưởng ấy. huy cận buồn hơn thôi hiệu. huy cận thừa biết minh đứng nhờ trên vai người ta, có cao nhưng không chắc mình có chiều cao hơn người ta. Đọc tràng giang có thể thấy buồn hoàng hạc lâu nhưng là ở nhiều chỗ khác chứ không phải ở câu kết so đo ấy.

    bài thơ này có vẻ đẹp cổ điển, trang trọng mở vào cao rộng trời đất mà nỗi buồn lại thấm thía sâu thẳm xuống một cõ. nỗi buồn bàng bạc mơ hồ nhưng đụng vào đầu cũng thấy. mơ hồ vì buồn không rõ lí do cụ thể. Bàng BạC Vì Không Rõ SắC this, Không Rát Bỏng nhưng ngân nga như một nỗi bâng khuâng, một tâm trạng nhớ không ối tưng or sng: rờd or sng câu ề ề ề ô ô nỗi bâng khuâng buồn nhớ đựng đầy không gian. cảnh nào cũng gợi buồn, cảnh bị nhiễm vào từ trường tình cảm. huy cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. tâm hồn ông khi ấy thường trực một nỗi buồn thế hệ, cai thế hệa vừa biết suy nghĩ thì chạm ngay vào nỗi buồn mất nước, vào thân phận nhược tiểu, một linh hồn nhỏ s. chất tâm hồn bất thường bắt rất nhạy cảm xúc không gian rộng xa, vắng lặng hắt hiu. riêng với huy cận, người đã từng “nghiêng tai kì diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe long minh. nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn thì không gian trời nước quãng sông hồng nơi chèm vẽ cộng hưởng với lòng ông mà thành thơ là điỻ>

    chữ tràng trong tràng giang ề bài và trong câu ầu tiên vốn Ít dùng trong ngôn ngữ giao tiếp hơn trường nhưng huy cận lại chọn d. chả hiểu có đúng thế không. NHưNG CHỉ CăN Cứ Vào âm Thanh (Chứ Không Phải Chỉ NGHĩA CHữ) Thì giang hai âm vang ồng dạng ứng liền nhau gợi ược khoảng rộng, dàn ° Chiều npando, bát ngát ngát ngát ngát ng. trường chỉ cho thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm trường thuôn lại trong khi tràng mở ra. mặt song dài rộng, nên đầu song của song, vốn thấp như càng thấp thêm, chỉ như gợn nhẹ mặt song phẳng. Đã rộng lại tĩnh nên gợi buồn, buồn điệp điệp. chứ song mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm giác khác. Điệp điệp là trạng thái của gợn song trên tràng giang và cũng là của gợn buồn trong lòng người. câu vào này buồn thật. nhưng câu thứ hai: “With Thuyền Xuôi Mái NướC song of the song” Co người cũng choc là câu thơ buồn, buồn lắm, lấy lí lí rằng: song là chẳng bao giờ gặp nhau, là không gắn bó gì với. Đấy là vận dụng định lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình tượng văn chương. e khó thuyết phục. thuyền nước trong câu thơ này là đang gắn bó, thậm chí hài hoà xuôi chèo mát mái. câu thơ này không buồn. hơn nữa, vui. dang vui. (chữ nước song song chỉ là một dụng ý để đối với buồn điệp điệp). có đang vui mới dẫn đến cái buồn ở câu sau. mới tạo nên mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc mà buồn thì tất yếu, ấy là lúc thuyền vềi tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi một mình, phiêt ha ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng nh ngả. hình ảnh song nước đến đây đã nhập vào thân phận with người. thuyền về nước lại, sầu trăm ngả. một chữ lại (trạng từ), lại sầu… cho thấy cach nhìn ời hồi ấy của huy cận khá giống xuân diệu (hoa nở ể ể mà tàn – work trong ể mà khuyết – bèp ợp ệ ể ểp ểp ểp ể ểp ểp ểp ểp ểp ểp ểp ểp ểp ểp ểp ểp ểp. dẫn đến câu cuối đoạn như mội tổng kết:

    củi một cành khô lạc mấy dòng.

    trên song hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trôi, thân gỗ trôi, vật vã nổi chìm trong sóng đục phù sa. cảnh gợi tang thương. nhưng không phải mà cảm xúc huy cận ở bài này. Ông nói ông phải lựa chọn hình ảnh sao cho ra cai thân phận nổi nênh của kiếp người. chọn củi hơn là gỗ, chọn một cành không hơn là những cây tươi. củi một cành mà lạc mấy dòng thì đắt qua, chưa kể nó còn ứng với sầu trăm ngả ở trên.

    Đoạn một là nhìn vào mặt song mà tả. chi tiết tung hứng, ngôn ngữ đăng đổi và ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa xung quanh: cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng… không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. thưa vắng và yên tịnh. chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu không rõ, mơ hồ như nghe trong hoài niệm một phiên chợ quê lúc van người. Âm thanh mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. chiều thẳng đứng thì như đang dãn dần ra theo nắng, theo trời: “nắng xuống, trời lên sâu chót vót”. sâu chứ không cao là một sáng tạo, gây ấn tượng. chiều năm ngang thì “sông dài, trời rộng, bến cô liêu”… không màu sắc, không âm thanh, không hoạt động. tất cả bất động, lặng đi, ngấm vào nỗi cô liêu.

    cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. huy cận tỉnh táo chuyển lại ánh về mặt song, về chỗ bắt đầu bài thơ “bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Đẩy mức vắng lặng tới chỗ bặt dấu người. hai đoạn trên còn có thuyền, có chợ. giờ đây, trên song chỉ còn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. không đò ngang, không cầu bắc, không thấy một công trình nào mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. buồn lan theo cảnh. buồn trải ra xa “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. rồi lại dựng lên cao “lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. trút qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng mới trội lên nỗi nhớê.qu tình thế trôi dạt nổi nênh của ngoại cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm ấm áp gia đình tấn t. bài thơ khép lại trong nỗi nhớ nhà. tính lôgíc trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. có lẽ vì thế huy cận tự giới thiệu: “tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn.

    xem thêm:

    • tổng hợp các đề văn về bài thơ tràng giang hay gặp nhất
    • bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng trong bài thơ tràng giang
    • ——————-

      với những hướng dẫn chi tiết về cach làm bài cảm nhận bài thơ tràng giang trên đy c c fart bài văn there are và sâu sắc, từ đó làm nền tảng ể . tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu 11 hay của thpt sóc trăng em nhé!

      Đăng bởi: thpt sóc trăng

      chuyên mục: giáo dục

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *