Phân tích cái tôi ngông trong bài Hầu Trời – Tản Đà (5 mẫu) hay nhất

Mời các bạn xem danh sách tổng hợp Cái ngông của tản đà hay nhất được tổng hợp bởi chúng tôi

“ngông” để chỉ sự khác thường, “ngông” trong văn chương để chỉ một kiểu ứng xử xã hội, nghệ thuật khác thói quen thườn. Điều này bắt nguồn từ việc tác giả ý thức được cái tôi, tài năng, nhân cách của bản thân.

dàn ý phân tích cái ngông của tản Đà trong hầu trời

i. mở bài:

giới thiệu tác giả, tác phẩm

– trong văn học việt nam giai đoạn giao thời, tản Đà được coi là dấu gạch nối giữa hai thế kỷ, là nhịp cầu thang dầu. Điều đó thể hiện rõ nét trong những sáng tác của ông.

– hầu trời là một trong những bài thơ tiêu biểu cho chất ngông của tản Đà

ii. thanks bài

1, giới thiệu “ngông” là gì?

– Co người ịnh nghĩa ” With người. Thật vậy trước bạo lực, bạo quyền, trước những Thói hưt xấu, trước hăm dọa chết người ợi chờ, kẻ sĩ vẫn hi là cuồng ngạo thì gọi là gì “

– “ngông” là dựa trên khả nĂng của mình có, nGhĩa là chỉ những người tài nĂng, tự tin bởi cai tài của mình, tự tin ể khẳng ịnh nó với ời ời ời ời ờ hai ngông tạo cho minh được những phong cách riêng,khác người nhưng lại để lại những ấn tượng sâu

=> ngông thể hiện một thái độ sống cao ngạo, ngạo nghễ và khác người.

2. . cái ngông trong hầu trời:

– a. cái ngông của những người đi trước: trong văn học việt nam đã có không Ít những kẻ sĩ có phong cách sống tteo ​​​​kiểu ngyng, nguyng có tic. đến hồ xuân hương, cao bá quát, tú xương…coi phú quý nhẹ tựa khói sương, sống trong cuộc đời với thái độ khinh bạc.

– b. Giới thiệu cai ngông trong sáng tac của tản đn: ến tản đà, cai ngông lại cơ hội ể ể ể phat triển nhưng không nằm ngoài ctng ctng củ ctng củ ctng ctg ctng ctg ctg ctng ctg ctg ctg ctg ctg ctg, ctng ctg, ctng, ctng, ctng, ctng, ctng, ctng, ctng, ctng, ctng, ctng, ctng. .tản Đà từng nói về mình như thế này:

(tự trào)

đó là cach nói ngông nghênh của tản đà nhưng lại sợ người ời cho là pHi lý khi một tài như nguy ễc hiếu lại thi rớt trường thi nam ị ị ị ị ị ị ị ị ị đồng văn học. chính vì vậy mà tản Đà đã cay đắng viết về mình :

bởi ông hay quá ông không đỗ không đỗ ông càng tốt bộ ngông

(tự trào)

there is như trong bài with chơi ông đã viết như thế này:

th>

cái ngông ở đây “là cái “ngông” của một nhà thơ muốn tiêu du ra ngoài cái hữu hạn của đời người.

=>rõ ràng cái ngông hiện hữu trong nhiều sáng tác của tản Đà nhưng có thể nói hầu trời là bài thơ thể hiện rõ ất thái đ>

c, cái ngông trong hầu trời

– hành động muốn lên trời vì cho rằng chỉ có trời mới đánh giá đúng tài năng của ông

– tự cho mình văn hay đến mức trời cũng phải tán thưởng

– không thấy có ai đáng là kẻ tri âm tri kỉ với mình ngoài trời và chư tiên.

– xem mình là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội ngông.

– nhà thơ bịa ra chuyện “hầu trời” đã hàm chứa một sự khiêu khích nhất ịnh ối với cai tôn ti, ẳng cấp đg thin trị ội lúc đy ảy ảy bình dân ngang hàng với mình…

= > cái “ngông” của tản đà là không còn xem vấn ề “nghĩa vua tôi cho vẹn ạo sơ chung” chương, nói như xuân diệu “

ta là một, là riêng, là thứ nhất không có chi bè bạn nổi cùng ta”

tản đà ý thức rất cao về tài nĂng của bản thn nên ông mới dám nói giọng bông lơn vềng ối tượng như trời, bụt, dám phôy toy bộg ườg ườ …

=> Cái Ngông Của Một with NGười Tài Hoa, ý thức sâu sắc về hi hện thực xã hội lúc bấy giờ, qua đó thể hi hi hi hi một cai tôi bếc tắc, cô ơn trước thời cuhc.

=>cách thể hiện: thể thất ngôn trường thiên cho phép tác giả thể hiện cảm xúc một cách tự do, thoải mái, phóng túng. ngôn ngữ chọn lọc, tinh tế, không cầu kì, ước lệ.

iii. kết bài:

– chất ngông nghênh, kiêu bạc, hào hoa tạo nên một phong cách – một phong cách rất tản Đà:

“Trời Sinh ra Bác tản đà quê hương thời có, cửa nhà thì không nửa ời nam, bắc, tây, đông bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly tuni thơ đeo khắp b k kỳ lạ or r. .

phân tích cái ngông trong bài hầu trời siêu hay (mẫu 1)

nam cao đã từng nói: “văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. VăN chương chỉ dung nạp ược những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có ”chính điều đó làm tản đà là một nhà văn có cái tôi ngông khác người nên thơ văn ông ể lại một nét ặc sắc không thể lẫn với àn ănh vì kì Ặc biệt cái tôi ngông ấy ược thể hiện xuất sắc trong bài thơ “hầu trời” với lối viết phóng khoáng, tự do khẳng ịnhâ ngài n.

khái niệm “ngông” trong dùng ể chỉ -thai ộ ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thường với mọi người của các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao về tà ca. trong văn học trung ại ta đã từng bắt gặp cái tôi ngông của nguyễn công trong “bài ca ngất ngưởng” hay cao bá nay ta lại gặp tản đà phôing kh. quy định thời đại thi sĩ sống là lúc giao thời Đông tây, hán học suy tàn và tây học bắt đầu phát triển. thơ văn tản Đà được coi là dấu gạch nối giữa hai thế kỉ: trung đại và hiện đại.

trong bài thơ “hầu trời” cái tôi ngông được thể hiện ngay ở nhan đề tác phẩm. trời ở tận trên cao xa có ai lên đến được với trời để hầu vậy mà tản Đà lại hầu trời bằng văn thơ. Không chỉ vậy cai ngông ấy còn ược thể hi ở những nội sau.tác giả tự cho rằng văn thơ mình there are khi “tiếng ngâm vag cả sông ngân hà” đọc thơ. Ông tự tin khẳng ịnh cai tôi ca nhân của mình bằng cach “ọc hết văn vần sang vă nhi ữt văn thuy lại văn chơi”, ông liệt kững ang a, giấc mộng, đài gương, lên lar . nhà trời nghe xong gật gù khen: “victor , tiểu ngọc lắng tai ứng/ ọc xong mỗi bài cũng vỗ tay ”. Thi sĩ đã mượn lời của trời ể khẳng ịnh tài nĂng vĂn chương bản thân ặc biệt là câu thơ:” ượC thế chắc con/ … “. thể hiện mình bằng tất cả vốn văn chương có được, ông khẳng định có mấy người được nhưp>

cái tôi ngông được thể hiện khi được trời hỏi danh tính ông đã tự tin xưng tên họ đầy đủ. “with tên khắc hiếu họ là nguyễn/ quê ở Á châu về Địa cầu/ sông Đà núi tản nước nam việt”. Trong thơ ca trung ại với ặc trưng cai tôi ca nhân bị lu mờ nhưng cũng có không ít trường hợp không ngần ngại xưng danh như hồ xu ương ” ngông của tản đà cũng lặp lại điểm giống tuy nhiên cach nói của thi nhân ặc biệt hơn các nhà thơ trước. Hành tinh. qua đó ta cr tể thấy ược with người tài nĂng và pHẩm chất đáng quý của ông. Thi sĩ ý ý thức tài nĂng văn chương bản thân và tự tin bộc lộc lộc lộ thấy được tấm lòng yêu nước sâu sắc của bậc trí thức công khai mình ở “sông Đà núi tản nước nam việt” trong hoàn cảnh chủ quyền đất nước bị xâm lăng, nền độc lập dân tộc bị đe dọa. chính điều đó khẳng định tinh thần tự tôn dân tộc của thi sĩ. hi sĩ, đã làm thi sĩ một cách ường hoàng bạo dạn, dám giữ một bản ngã, dám giữ một cái tôi “

cái tôi ngông tản Đà còn được thể hiện khi ông tự coi mình là một vị tiên trên trời bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. Ông cũng tự nhận mình là người nhà trời ược sai xuống hạ giới ể thực hiện sứ mệnh cao cả: “là việc thiên lương của nhân loại/ cho with xu tht ật c c c c c c c c văn chương ca nhân cũng là ểể thển sự ối lập nhân cach, lối sống với giai cấp pHong kiến ​​đ đn đn đn đ đn ựn ựn â â n. NếU Các tac giảcc tự khẳng ịnh mình về with ường công danh, kinh bang tế thế còn tản đà lại thể hiện tài văn chương hơn người hơn ời. của thời ại ông sống trong thời điểm giao thời loạn lạc, chế ộ phong kiến ​​suy tàn, nho học nhường lối chữc quốc ngữ và văn chương hiện ại nên ông không ô như nguyễn công trứ.Ông tự do sống đúng với bản ngã cá nhân mới mẻ phù hợp với thời đại lúc bấy giờ.

như vậy cái tôi ngông của tản Đà đã làm nên một dấu ấn cá nhân riêng biệt trong nền văn học dân tộc khiến cho ai đọc thơ ông không thể quên được cái ngông ngạo nghễ với đời thật xác đáng với lời nhận xét của lêoh: “ông tản đà là người thứ nhất và là người ộc nhất của thế hệ ông đã làm sống lại cai hồn thơt nam đang hấp hối, tôi không muốn nón đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đi đ Ông ra đời đem cho chúng ta một thi sĩ thành thực dám ca hát cái đời sống của lòng from him; ông đã mơ mộng, đã chán ời, yêu ời, tha với ời một cách tự do, ông đã dám ngông, dÁm có một bản ngã, dÁm công nhiên ể ể cá cho.

phân tích cái ngông của tản Đà trong hầu trời (mẫu 2)

người ta nói nhiều về tản Đà vào những năm ấy, thời khắc chuyển giao của văn chương truyền thống và văn chƺng hiệi. Đó là nhà thơ của hai thời đại, “dấu gạch nối giữa hai thế kỉ” bởi nhiều lý do. Ông tiêu biểu cho kiểu nhà nho tài tử, là người đầu tiên mang văn chương ra bán phố phường. Đó là những đong gop mới mẻ của ông về hình thức thơ, diện mạo thơ vừa lãng mạn vừa cảm thương, vừa mới mẻ vừa giữt cốt cach hồn thơ dân tộc. nhưng có lẽ không ai phủ nhận ược, điều mà tản đà ghi dấu ấn trong lòng ộc giả lại chynh là cá tính trong thơ, cò ôn gọi cángtà và một trong những thi phẩm thể hiện được đó, là hầu trời. bài thơ được in trong tập còn chơi, năm 1921 thể hiện được đậm nét cái tôi ngông của nhà thơ.

nét ngông trong thơ vốn không phải là một điều xa lạ. nhắc đến cá tính này phải kể đến nguyễn công trứ trước đó, và lớp sau này là nguyễn tuân. và đến đây, chúng ta có tản Đà. khi những cốt cách nghệ sĩ tài hoa này bộc lộ cái ngông là khi họ ý thức rất cao về tài năng và giá trị của bản thân mình trưc. họ bộc lộ điều đó để tự tin, để hãnh diện nhưng cũng là để thách thức trước cuộc đời. và từ đó họ tạo cho mình một phong cách, một cá tính riêng, độc đáo không pha lẫn được. tản Đà trong hầu trời đã có một cái tôi ngông độc đáo như thế.

cái tôi ngông trước hết được thể hiện ở việc thi nhân dám lên tận trời để khẳng định tài năng. mà đầu tiên phải kể đến màn vào đề bài thơ đầy khéo léo và có duyên:

Đêm qua chẳng biết có hay không, chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng. that hồn! that phach! what that that! that được lên tiên sướng lạ lùng.

thơ tản Đà hay thơ ca cùng thời cũng có nói về việc lên tiên, để thoát li khỏi cuộc sống “trần thế em nay chán nửa rồi”. nhưng tản Đà thoát li lên trời lần này là để đọc thơ, ngâm văn. chốn thiên môn đế khuyết ấy tưởng chỉ để rong chơi, hưởng thụ, nhưng nhà thơ đã tự hóa thân mình thành một ჻i bin s. mà cái cớ lên trời ấy người ta nghe tưởng chừng phi lý nhưng rồi cũng thấy rất tự nhiên và đáng tin. Chỉ là một đêm mất ngủ, uống trà, chơi trăng và ngâm văn, ấy vậy mà tiếng ngâm vang cả ến sông ngân hà khiến trời pHải sai sai ngường đón lên ọ ọ ọ ọ ọ ọ rõ ràng là một câu chuyện không có thật, quá lạ lùng nhưng cái cách dẫn dắt, trình bày lại khiến người ta thấy thú vị, hóm hón. phải bằng cái tôi cá tính như tản Đà mới nghĩ ra được một câu chuyện như thế.

không bỏ lỡ cơ hội ược lên trời ọc thơ, thi sĩ đã hào hứng, phấn khởi mà “quảng cáo” tài năng: văn văn xucáôi, vă lá ết cá, . in cả rồi:

hai quyển khối tình văn thuyết lí hai khối tình con là văn chơi thần tiền, giấc mộng văn tiểu thuyết đài gưà ết đài gưà ết ến vĻ sáu vĻ. p>

chưa thấy ai khéo léo, tài tình mà cũng đầy ngông nghênh như tản Đà qua cách đọc thơ cho trời nghe như vậy. cái tôi cá tính của ông đã bộc lộ một cách rất tự nhiên mà không phải ai cũng làm được và dám làm. tài năng ược thế gian công nhận đã là một việc làm vô cùng khó, vậy mà giờ đy lên tới chốn thiên môn ế khuyết ể ể thng th. Chỉ cần nhìn biểu hiện của các chư tiên và lời khen nức lòng của trời cũng ủủ thấy các bộc lộ tài nĂng của tản đàc nét ộc đao như thế nào. <

văn dài hơi tốt ran cùng mây! Trời nghe, trời cũng lấy làm there … trời lại phê cho: “văn thật tuyệt! văn trần như thế chắc có ít! nhời văn chuốt đẹp như sao băng! khí văn hùng mạnh như mây chuyển! em như gio thoảng, tinh như sương! Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!

táo bạo hơn, thi nhân còn được động viên: anh gánh lên đây bán chợ trời. Trong âm hưởng của sự say mê, hứng khởi, người ta không thấy một tản đà đang pHô diễn, Khoe Khoe Khoe tài nĂng mà đó chỉ là một dịp ể ể ể ể ể ể ella phải ý thức về tài năng cao ộ, phải tự hào, kiêu hãnh về giá trị bản thân ến mức như thế nào mới dám bộc ᧿ ᧺o thân h. cái đó người ta gọi là ngông, cũng chỉ có tản Đà mới ngông đầy nghệ sĩ và tài hoa như thế.

nhưng nhịp điệu của cái ngông không bay bổng theo chiều đi lên như người đọc tưởng mà nó có độ lắng sâu dưới màn tái hiện bức tranh cuộc sống của người nghệ sĩ trước thời kì khốn khó của kẻ nặng mệnh văn chương. trong màn đối thoại với trời, tản Đà đã giúp người đọc hình dung ra điều đó, cũng là cách ông bộc lộ cái tôi ngông tro khác. nhà thơ chẳng ngại mà giấu giếm, đã giới thiệu một cách đầy tự tin:

-“dạ, bẩm lạy trời con xin thưa con tên khắc hiếu họ là nguyễn quê ở Á châu về Địa cầu sông Đà núi tản nước” nam vi>

Ông thẳng thừng chia sẻ về cuộc sống đầy vất vả, nghèo khó của mình dưới trần gian:

-“bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó trần gian thước đất cũng không có nhờ trời năm xưa học ít nhiều vốn liếng còn vქng. giấy người mực người thuê người in mướn cửa hàng người bán phường phố. văn chương hạ giới rẻ như bèo kiếm được đồng lãi thực rất khó. kiếm được thời ít tiêu thời nhiều làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.”

việc tâu bày này không phải là để than nghèo kể khổ, không mong được ban phước lộc ân để có giàu sang phú quý. mà mục đích lên hầu trời là để được tri âm. có thể thấy đằng sau một tản Đà hào hứng, tự tán dương là một người đầy cô đơn. Ông phải lên tới trời để tìm kiếm sự đồng cảm, khát khao được thừa nhận tài năng. Vìy, kể về cuộc sống nghèo khó, thậm chí c cực cực kia là cach ể nhà thơ bộc lộ riquta hơn sự thấu hig về nghề văn bạc bẽo, nghèo nàn m đ vím vím vím vím vím vím vym vím vím vym vym vím vím vím vym vím vym vym vím vym vím vym vym vym vym vym vím vym vym vym vym vym vym vym vym vym vym vym. cách tìm kiếm ấy trong lời thơ chất chứa đầy tâm sự và cảm hứng tự sự cũng là một cách ngông trong cái tôi của tản Đà.

nhưng chưa dừng lại ở đó, cái ngông của tản Đà còn thể hiện ở thái độ khác thường khi khẳng định bản thân mình. trong cuộc đối thoại với trời, nhà thơ cho rằng kẻ tên nguyễn khắc hiếu bị đày xuống hạ giới vì tội ngông. hóa ra, thi nhân vốn là một vị trích tiên, là người nhà trời. DẫU trời crihéo léo sửa lại không pHải là đry mà là giao cho sứ mệnh “thiên lương” của nhân loại ểể xuống thuật c c c c cg ời there are thì cai ng vẫn không gi đ. bởi cái ngông này đã hóa thành một ý thức đối lập với xã hội đương thời. làm sao thi sĩ gánh vác được điều đó, khi mà xã hội lúc bấy giờ đẩy những người như ông vào cảnh khốn khó. cho nên ngầm trong ý đó, tản Đà muốn đề cập tới khát vọng mà ông đã từng theo đuổi, đó chính là cải cách xã hội. nhưng chúng ta đã nhận ra cái lực bất tòng tâm của thi nhân. bởi vậy he cái tôi ngông, ngạo nghễ, thách thức với đời mà có phần vẫn bất lực. Đó là xu thế chung trong tâm lý của giới văn sĩ lúc bấy giờ.

nếu ặt cai nhìn về tính cach ngông trong văc thì nguyễn công trứ đã quá ấn tượng với người ọc về một with người tài nĂng ộc đc đc ươci ư về sau nguyễn tuân cũng mang cái ngông khác biệt để tạo nên một quan niệm thẩm mĩ độc đáo. riêng với tản Đà cái ngông của ông từ ngoài đời đến văn chương, từ xê dịch, thơ ca đến tình duyên. nhưng cai ngông của tản đà bộc lộ một thati ộ khát khao rất mạnh mẽi với cuộc ời, mỏi niềm tri ânã và cợ ềi thay vđ hầu trờ bởi vậy thi phẩm xứng đáng tiêu biểu cho phong cách độc đáo, ngông tài hoa của thi nhân.

nhưng không thể phủ nhận cái ngông trong hầu trời không chỉ ở nội dung mà cả phương diện nghệ thuật. lựa chọn một thể thất ngôn quen thuộc, nhưng nhà thơ lại viết nó ở cấp độ trường thiên. hơn nữa kết cấu các khổ không phải 4 dòng một khổ như thông thường mà có đoạn lên đến 6, 10, 12 dòng. chính vì sự phóng khoáng, tự do về thể thơ như vậy đã giúp cho nhà thơ thỏa chí bộc lộ cái tôi của mình. thêm nữa con phải kể đến một cấu tứ đặc biệt trong bài chính là mạch trữ tình không tạo ra bởi cảm xúc mà bởi chất s t. Đúng ra bài thơ là một câu chuyện khá rõ ràng theo kết cấu thời gian. lại có thêm một tình huống bất ngờ tạo nên một câu chuyện rất hấp dẫn, hóm hỉnh và có duyên. ngôn ngữ thơ không quá trau chuốt, cầu kì nhưng pha trộn giữa sự có chọn lọc và cả nét bình dị, nôm na. bởi vậy, ngay cả tạo nên một bài khá dài nhưng vẫn tạo dấu ấn đặc biệt như thế. cũng là cách mà tản Đà khẳng định cái tôi ngông độc đáo của mình.

nhà thơ xuân diệu từng nói rằng: “tản Đà là thi sĩ đầu tiên, mở đầu cho thơ việt nam hiện đại. tản Đà là người thứ nhất có can đảm làm thi sĩ, ella đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi”. lời nhận định đó chỉ khác ở chỗ là thay vào đó bằng một chữ ngông. bản lĩnh của thi nhân, cái tôi độc đáo, mới mẻ là những gì tản Đà góp mặt vào thơ ca thời kì đó. nhưng chắc chắn với hầu trời ông đã làm cho bản ngã của mình được khẳng định một cách tài hoa như thế.

phân tích cái ngông trong bài hầu trời của tác giả tản Đà (mẫu 3)

xuân diệu đã từng nhận xét tản đà: “Có can ảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cach ường hoàng, bạo dạn, dám giữt bảnn ngã, dám cc c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c Đây quả là một nhận xét xác đáng về bản lĩnh cá nhân, về cái tôi ngông ngạo, hơn đời của tản Đà. cái tôi “ngông” là một nét đặc sắc, tạo nên dấu ấn riêng trong sáng tác của ông. và được thể hiện đặc biệt rõ nét qua tác phẩm hầu trời.

ngông là khái niệm để chỉ tính cách ngang tàng, bất cần. nhưng đối với kẻ sĩ ngông chính là để thể hiện một cái tôi cao ngạo, khác người. bởi họ tự tin vào tài năng, nhân cách của bản thân, họ dám đem tài năng để khẳng định với đời.

ngông vốn không phải là khái niệm xa lạ trong vă học, ta có thể kể ến những tác giả tiêu biểu cho lối sống đó như cái ụ cụcững.

vũ trụ nội mạc phi phận sự Ông hi văn tài bộ đã vào lồng.

there is you xương:

Ông trông lên bảng thấy tên ông Ông tớp rượu vào ông nói ngông trên bảng năm ba thầy cử đội bốn kì mười bảy

ưu

Đến tản Đà, cái ngông tiếp tục được phát triển và được khẳng định một cách mạnh mẽ. Cái Ngông Trong Bài Hầu trời trước hết ược thể hiện trong hành ộng muốn ược lên trời, bởi ông cho rằng chỉ có trs

Đêm qua chẳng biết có hay không, chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng thật hồn! that phach! what that that! that được lên tiên sướng lạ lùng.

cách vào ề của ông thật dí dỏm, hài hước, ông một mực khẳng ịnh việc mình ược lên tiên là thật, không hoảng hốt, không m. cuộc vượt thoát trần tục, lên tiên đối với ông là có thật, là không thể chối cãi. Đồng thời ông cũng lí giải lí do minh lên tiên:

“trời nghe hạ giới ai ngâm nga tiếng ngâm vang cả sông ngân hà làm trời mất ngủ, trời đương mắng có hay lên đọc, trời nghe qua”.

câu thơ như một lời khẳng ịnh tài năng của bản thân vọng vang cả trời ất, khiến cả trời cũng phải sai người mng xuố Đây là biểu hiện thứ nhất trong cái tôi ngông ngạo của tản Đà.

không dừng lại ở đó, ý thức khẳng định cái tôi được thể hiện rõ hơn ở đoạn ông tự khen chính mình:

“Đọc hết văn vần lại văn xuôi hết văn thuyết lý lại văn chơi”

tài năng hơn người khiến tản Đà không ngần ngại thể hiện bản lĩnh cái tôi cá nhân, những tác phẩm của ông đều được liệt kê với những đặc điểm nổi bật của chúng: khối tình con, thần tiên, giấc mộng. rồi ông tự khen mình “văn đã giàu thay, lại lắm lối”. Đây không pHải là lần ầu tiên tản đà tự khen ngợi mình, trong bài tự trào ông đã viết: “vùng ất sơn tây nảy một ông/ Tuổi chửa bao nhiêu văt rất hùng/ s thần sớm vãi vung”. cho thấy ý thức cao độ về cái tôi của mình trong thơ ông.

nghe những lời nhận xét ấy, trời cũng phải bật buồn cười và phê cho “văn thật tuyệt” “văn trời được thế cóítc có”. các chư tiên thì khen ngợi bằng những lời khen ngợi không tiếc lời: lời văn như sao băng, khí văn như mây chuyển, nhẹ nhưng, sưưng. và họ tranh nhau ao ước, dặn: “anh gánh lên đây bán chợ trời”. quả thật chỉc ở nơi Tiên giới này tản đà mới tìm ược người bạn tri âm tri kỉi với mình, bởi dưới hạ giới văn chương rẻ như bèo, ít ược trọng. còn ở đây ông đã tìm được tri âm tri kỉ, bởi chỉ có những người như họ mới cảm nhận được hết tài năng củp> ông.

đã Có Mấy ai Trong văn học, dám xưng họ tên ủ ầy trong tac pHẩm của mình, ấy vậy mà một thi nhân tên tản đà, khi hầu trời đã à vi ọ ế ế ế Địa cầu/ sông Đà núi tản nước nam việt”. một nhân cách hơn người, một bản lĩnh khác thường ở con người tài năng và nhân cách này. lời thơ tràn đầy niềm tự hào về bản thân, quê quán, và ý ý thức tự tôn dân tộc sâu sắc. cách nói thật trịnh trọng, đầy khẳng định về tài năng, nhân cách của chính mình.

ồNG thời tản đà cũng tự nhận mình là một trích tiên bị đày xuống trần gian vì tôi ngyng, nhưng ngay sau đó ông đã khẳng ịnhnh: “tra / là việc” thiên lươNg ” xuống thuật cùng ời there are. ” ầy hiểm ía, bonuse, giữ ược thiên lương và truyền bá thiên lương thực không hề ề ề ề ề.

“hai chữ thiên lương thằng hiếu nhớ dám xin không phụ trời trông mong”

thể thất ngôn trường thiên, đã cho phép tác giả thể hiện một cách thoải mái cảm xúc của bản thân. bài thơ hầu trời đã thể hiện một cách đầy đủ cái tôi đầy ngông ngạo của tản Đà trước cuộc đời. Ông ý thức sâu sắc về tài năng của bản thân, ông thời cũng ý thức hiện thực xã hội thối nát lúc bấy giờ. qua đó cũng cho người đọc thấy một cái tôi ngông nhưng cũng đầy cô đơn, bế tắc trước thời cuộc.

phân tích cái ngông trong hầu trời (mẫu 4)

Sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời (cuối thế kỷ xix ầu thế kỷ xx), lúc do you have học đã tàn và tây học lại chỉi mới bắt ầu, nên tản đà mang ậm dấu c kỷ” (hoài thanh) kể cả học vấn , lối sống và văn chương. Riêng về lĩnh vực văn chương, tản đà ược mệnh danh là người đi Tiên phong cho sự cach tân nghệ thuật trong thơ, đã ặt một cai gạch nối giữa văc Học Truyền thống v à như lời nhận xét của hoài Thanh, tản đà là người “dạo bản đàn mở ầu cho một cuộc hoà nhạc tân kỳ ương sắp sửa, là người ba tin xuân cho phong thơ mới n. Với điệu tâm hồn mới mẻ, cai tôi lãng mạn bay bổng, vừa phong khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu trong thơ văn, tản đà đã ầh ụ ụ ỷ ỷ ệ ệ ệ ầ ầ ầ ầ ầ ầ ầ Giữa lúc thơ phú nhà nho tàn cuộc, tản đà có lối đi riêng, vừa tìm vềi với ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc, vừa Có những sáng tạo ộc đc đ nhà thơ xuân diệu cũng nhận xét: “tản Đà là thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ việt nam hiện đại. tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi”. Đi từ truyền thống đến hiện đại, tất nhiên số phận thơ văn tản Đà lúc đầu cũng có nhiều trở ngại. nhưng với bản lĩnh vững vàng và tài năng, tản Đà đã khẳng định được vai trò và vị trí của mình. tất cả đã tạo cho thi sĩ giữ vững một cái “ngông” hơn người. và, “hầu trời” là một trong những bài thơ tiêu biểu kết tinh những nét rất riêng để tạo nên cái “ngông” mới mẽ ấy.

cái “ngông” và biểu hiện của cái “ngông” trong thơ nói chung. “ngông” vốn là một sản phẩm của xã hội, đặc biệt là xã hội phong kiến ​​​​Á Đông. Ở cái xã hội lễ nghi chặt chẽ, khuôn phép của nho giáo, cá tính độc đáo thường bị cho là ngông, là khác đời. Trong văn chương, “ngông” thường biểu hiện bằng thati ộ ộ pHản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, cốt cach, có hồn, không muốn cấn chấng nhng n, sáng, sáng, sáng, bằng, sáng, sáng, sựng, sựng, sựng, sựng, sựng, , sáng, sựngng, sáng. thường, nhỏ nhoi; thích phá cách, tự ề cao, phóng ại cá tính của mình… nhưng những biểu hiện ấy nhằm một mục đích ể ệ ờ ờ đ đ đ. định cá tính và tài năng của mình trước cuộc đời.

như vậy, cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên sự kết hợp không tách biệt giữa cá tính và bản lĩnh, tàg cong n. NGHĩA Là, CHỉ NHữNG người tài nĂng, tự tin bởi cai tài của mình, tự tin ể khẳng ịnh nó với ời mới là cai ngông ược người ời chấp nhận. người ngông tạo cho mình những phong cach riêng, mới và khác hơn người khác nhưng pHải ểể lại những dấu ấn sâu ậm, không thể trộn lẫn với người khác. “hầu trời” của tản Đà đã tạo cho tác giả một cái ngông, một cái tôi độc đáo như thế.

tản Đà là nhà nho nhưng không phải là nhà nho chính thống theo kiểu ẩn dật – hành đạo. Ông là nhà nho tài tử, nhà nho ít chịu khép mình trong khuôn phép nho gia. tản Đà thuộc lớp nhà nho “vứt bút lông nắm lấy bút chì” và là một trong những người việt nam đầu tiên sinh sống bằng nghề viết văn, xuất bản, sống theo phương thức của lớp tiểu tư sản thành thị đem văn chương đi bán khắp phố phường. vì vậy, những thú vui tao nhã như vịnh phong hoa tuyết nguyệt với chơi cầm kỳ thi hoạ thường thấy trong thơ cổ giờ không còn phùp. cái cần nói trong thơ lúc này là tất cả cảm xúc trước thời thế xã hội đổi thay khiến lòng người băn khoăn, khó hiểu. with người phải tìm một cái gì đó trong đời này để vịn vào mà làm phao cứu cánh. nhưng sống giữa cảnh đất nước lầm than và nhố nhăng thời đó, tản Đà không chịu nhập cuộc, ông đã lánh đục theo trong, tự mình tìm kế sinh nhai, sẵn sàng đánh đổi cái nghèo vật chất để lấy cái giàu về tinh thần . giữa cái ác, tản Đà tách ra để lấy cái thiện, giữa cái xấu, tản Đà có ý thức vươn lên cái đẹp. Ằng sau cai ngông của tản đà là ca tíh tự nhiên, nhưng một phần là tản đà tự tạo ra ểể pHản ứng lại với cai thứ ôcc giữa cuuộc ờời. phải chăng vì thế, mà chốn trần gian cũng không thể dung nạp một tấm lòng được coi là cao khiết như tiên sinh. không ai hiểu được cá tính và tài năng thực sự của mình. vì thế, tản đà không tha thiết gì với trần gian mà tận chốn trời cao ể ể khẳng ịnh tài nĂng hơn người và từ đó khẳng ịnh ca ôi ca ể khng ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg ttg tt minh.

cái ý thức sâu sắc về tài năng của tản đc ược bộc lộ qua việc ông đã tạo ra một bối cảnh thật tự nh ự nghi Ự

“Đêm qua chẳng biết có hay không chẳng phải thảng thốt không mơ mòng thật hồn! thật phách!

cái duyên được lên hầu trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cảm hứng của nhà thơ. chuyện tưởng tượng nhưng như thật, có lẽ cái tôi độc đáo của tản Đà là ở chỗ vào đề tự nhiên, hấp dẫn. Xuân diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, cũng phải trầm trồc sự ộc đao của tản đà: “vào ột ngột câu ầu cũng ra vẻ ặt vấn ề để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”. Để thế gian thấy tài năng của nhà thơ đã khó vậy mà ngay đến trời còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật lạ lùng. vậy mới thấy được cái ngông của nhà thơ biểu hiện mạnh mẽ qua bài hầu trời. Đã có dịp được lên thiên đình, vì thế tản Đà tranh thủ “quảng cáo” tài năng của bản thân:

“dạ bẩm lạy trời with xin ọc ọc hết văn vần sag văn xuôi hết văn thuyết lại văi chơi ương cơn ắc ý ọc đã thích chè chè chè ttrời nhấp giọng càng càng cơt hơt h.

tác giả đọc thơ rất tự tin, khoe tài của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác phẩm. qua đó bộc lộ cái tôi in đậm phong cách cá nhân tự ý thức về tài năng của chính ông. sẵn tiện nhà thơ giới thiệu luôn những tác phẩm của mình:

b> “bẩm con không dÁm màn cửa trời những áng văn con en cả rồi hai hai quyển khối tình văn thuyết lí hai khối tình con là văn chơi thần đn đn ờn đn đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng đng. bà tàu lối văn dịch Đến quyển lên tám nay là mười nhờ trời văn con còn bán được chửa biết con in ra mấy mươi?”

nhà thơ có vẻ rất đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của mình. he khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình giữa cuộc đời. trước tản Đà các nhà nho tài tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm ngá r. họ không dám nói ến cai hare, cai “tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại nói trước mặt trời. ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m ận m. thing:

“Văn dài hơi tốt ran Cung Mây! Trời nghe, trời cũng lấy làm there.

Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.”

“trời lại phê cho: văn thật tuyệt! văn trần ược thế chắc có Ít nhời văn chuốt ẹp như sao băng! khí văng mạnh như mây!”

chính vì tình yêu văn chương, ông mới tự tin sáng tác, chuyển tải những tư tưởng tình cảm mới mẻ vào trang thơ. dường như với ông, hầu trời là khoảnh khắc đẹp nhất. vì thế ông mới đem cái tài của mình để thể hiện trước trời cùng chư tiên. và lúc này quan niệm mới mẻ của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. dù không biểu hiện trực tiếp nhưng đằng sau các câu chữ ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt đỺng tinh ᷺n. Với tản đà, vĂn chương là một nGhề kiếm sống mới, Có người bán kẻ mua, có thị Trường tiêu thụ và bản thn thị trường đó cũng hết sức phứp tạp, không dễ chiề ễ chiề ễ chiề. Đặc biệt hơn dường như nhà thơ đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn đểp:

“nhờ trời văn con con bán được vốn liếng con một bụng văn đó”

thật ngang tàng khi thi sĩ muốn “gánh văn” lên trời để bán.

“chư tiên ao ước tranh nhau dặn anh gánh lên đây bán chợ trời!”

làm náo ộng thiên cung bằng những lời văn giàu thay lắm lối, nay nhà thơ còn muốn nói của ông ôc lan rộng cung đình ể mọi biết ếng thế

Để trời hiểu thơ, khen văn thơ tuyệt, tản Đà liền đó “tâu trình” rõ ràng thân thế của mình, phù hợp hoàn toàn mạch chuyện:

“dạ bẩm lạy trời con xin thưa con tên khắc hiếu họ là nguyễn quê ở Á châu về Địa cầu sông Đà núi tản nước nam vi”.

khác người xưa, tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lý lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản hà quán, châu nt. qua đó ông thể hiện niềm yêu nước tha thiết, đầy tự hào về bản thân, ý thức cá nhân tự tôn dân tộc sâu sắc. MộT Cái Tên – Tên Thật Chứ Không phải tự hiệu – mà ược nói ra trrịnh trọng ến vậy hẳn nhà thơ pHải thấy có một giá trị không thể nhận gắn liền với nón. cũng qua câu thơ, tác giả ngầm giới thiệu bút hiệu của mình. tản Đà là con người khoe tài, thị tài và rất ngông cho nên trước chư tiên không bao giờ kiềm chế mà luôn thể hiện hết tài hoa của

nhưng khoảnh khắc “hầu trời” ngắn ngủi không dừng lại ở việc mượn lời của trời ể ể ể khen thrơ của mình và tự xưng tr ââ. mà bạn tri âm này không phải là người đặc biệt, mà là trời cao. Để từ đó, vạch ra thực tế phũ phàng: tài năng không thống nhất với số phận; để chỉ cho người đọc: ở cuộc đời nhà thơ thiếu tri âm, tri kỉ và bất hòa với cuộc đời:

“văn chương hạ giới rẻ như bèo kiếm ược ồng lãi thực rất khó kiếm ược thời ít tiêu thời nhiều làm mãi quanh nĂm chẳng ủ tiêu”

vì vậy ông khát khao lên trời đọc thơ và tìm được người tri âm. chỉ có trời và chư tiên mới hiểu cái hay, cái đẹp trong thơ ông. và lời trời khen hắn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đó là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn của thi sĩ. Giữa chốn hạ giới văn chương rẻ như bèo, The phận nhà văn bị rẻ rung, khinh bỉ, tản đà không tìm ược tri âm tri kỷ, phải lên tận cõi tiên mới ược thõ. Vào ầu những năm ầu của thế kỷ xx, khi thơ phú nhà nho, do you have học đã tàn mà thơ mới chưa ra ời, tản đà nhà thơ ầu tiên đ suston ngã để đến một nơi thanh khiết.

khẳng định tài năng hơn người, đó là sự kế thừa nét ngông của các nhà nho truyền thống. Song, Trong sự ngông của tản đà, người ta không thấy cai ngông ến mức lấy thú Ăn chơi hưởng lạcc có pHần tiêu cực như một cach ểi ối lại với ờ và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một phong cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như nguyễn tuân… cái ngông của tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. NHưNG CC thểy rằng, họ gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ không thể “ngông” ược đó là cai tài, cai tình và ýc về c đhn h. phong cách nghệ thuật riêng ộc đáo, nhưng ấn tượng ặc biệt, không thể nào phai trong lòng người ọc và không lẫn với cái ngyg ủa.

phân tích cái ngông của tản Đà trong hầu trời hay nhất (mẫu 5)

tản đà (1889-1939), tên thật là nguyễn khắc hiếu, quê tỉnh sơn tây (nay là ba vì, hà nội), ông là một nhà thơ lớn ầu thế xx vớt khối lg catm gồm nhi nhi khac với nhiều trí thức ầu thế kỷ xx đang mải u bour với nhn nho học thất sủng thì tản đà lại tự tìm choc mình một lối đi riêng, các tac pHẩm ềm ềm ềm ềm ềm ềm của thơ ca dân tộc nhưng xen vào đó là những sáng tạo, cách tân của riêng mình thi sĩ. Có lẽ Chính vì tinh thần thơ ca ộc đáo, Thích ứng nhanh với thời cuộc nên thơ tản đà đã chinh phục ược nhiều thế hệ ộc giả mới ầu thế kỷ xx xx. ỌC thơ ông người ta luôn cảm nhận ược một cai “tôi” lãng mạn, bay bổng vừa pHong khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu Ái, ặc biệt là sự tự trước cuộc đời. HầU trời là một trong những bài thơ there nhất của tản đ đ đó người ta thấy riqu ược cai chất thơ của người thi sĩ, mà nổi bật nhất làm nên giá trị ặ ặ tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht tht thtt Đà.

cái ngông của tản đà trong hầu trời bắt nguồn từ việc nhà thơ mì mình ược lên thiên đình đàm ạo, ộc thưở cho cho c. phải là điều gì quá mới mẻ, đặc biệt là với thế hệ thi sĩ sinh sau đẻ muộn như tản Đà. người ta cũng đã nghe câu chuyện cóc kiện trời, chuyện người con gái nam xương, hay chuyện chức phán sự đền tản viên nhưng có một điều khác biệt rằng, cách vào chuyện của tản Đà khác với cổ nhân, chuyện hầu trời của ông vốn là một giấc mơ chứ chẳng phải là chuyện hoang đường kỳ ảo xảy ra trong thế giới thực tại. chính điều đó khiến người ta hiểu thêm về một thi sĩ cô đơn trước cuộc đời, khao khát được thể hiện, được thấu hiểu nhưng khổ nỗi “hạ giới văn chương rẻ như bèo”, nên đành lòng ông phải tìm kiếm chốn cực lạc trong mơ cho thỏa nỗi lòng của thi sĩ. như vậy đó chính là nền tảng khởi ầu cho cai ngông của tản đà – một giấc mơ hầu trời, còn việc tản đà ngông như thế nào ta ta ế ế đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ ế ế ế đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ

“Đọc hết văn vần sang văn xuôi …….. chửa biết con in ra mấy mươi?”

pHía Trên là một đoạn thơ dài nói vềnh tản đà ọc thơ trên thiên đình, cai ngông của thi sĩ trước hết là ở phong tái và điệu bộ khi ọc thơ. Có lẽ ít ai ược như tản đà, một kẻ người trần mắt thịt nhưng lên tới tận cung mây mà vẫn mang this ag dung dung, thí chí vông tự tin, ông ôc nc nch nhng th – đắm, đọc như chưa từng được đọc bao giờ “Đọc hết văn vần sang văn xuôi/hết văn thuyết lí lại văn chơi”. và người thi sĩ lấy làm “ắc ý” lắm, một người phàm ngang nhiên ắc ý chốn tiên nhân, quả là ngông cuồng vôn cùng, hơn thế Làm chủ diễn, chư tiên cùng trời lúc này đy chỉ là bậc khán giả, đang phải ngưỡng mộm trầm trồ, mong ngóng từng vần thơ sốt dẻo, như trông chờ thứ âm thanh cực. Cái Ngông Của Tản đà còn biểu hiện ở việc ông ược nhà trời só sóc, châm trà cho “nhấp giọng” ể lấy tinh thần ọc thơ, điều với chư tiên hay sao, bởi phàm là vật của trời kẻ trần tục phúc phần độ nào mới được hưởng dụng?

không chỉ ở pHONG THÁI tự tin, ắc ý khi ọc thơ mà tản đà còn “ngông” ở việc tự khen thứ vă văa của mình bằng những lời mà đi lúc tôn nap chút rồi hấp dẫn ến ộ thần tiên chốn cửu trùng thiên vốn từng kinh qua bao thứ nhc họa, bao hỉ nộ ái ố trên ời, ộộỻ trời nghe, trời cũng lấy làm there. ” đi sự cách biệt thân phận của thần tiên và người phàm, giờ đây họ chỉ đang đứng trên bình diện thi nhân và người yêu thơ, chan hòa và gần gũi. không chỉ vậy, tản Đà còn mạnh dạn liệt kê hết những vốn liếng Văn chương mà mìnhc fi ược, nói trắng ra là đi khoe, một thi nhân đang vông tâm ắc với thành tựu của mình chỉ mUốn sao ể người ta pHải /hai khối tình with là văn chơi/thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết/đài gương, lên, giấc mộng văn tiểu thuyết/đài gương, lên ến quyển lên lên tám nay là mười mười. vẻ khoe rằng “nhờ trời văn con còn bán ược”, phải nhắc lại rằng những năm ầu thủ kx xx ất nước ta đang nằm giữa thế n, th ă n, thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi Thi Thi Thi Thi Thi Thi Thi Thi Thi Thi Thi Thi Thi Thi Thi The Như đã Bị Dòng chảy của vĂn Hóa Ngoại Bang Làm Cho Khốn ốn lu mờ viết thđđớớ. lo cơm áo gạo tiền. thế nhưng tản đà thì sao, ông vẫn ug dung, tự tin rằng thơ ca mình bán ược, điều đó ngầm chứng minh rằng thơ văn của ông có sức Hút sáng tác của tản Đà, đó không phải là một điều dễ dàng, đó là cả một tài năng. thế nên tản Đà có quyền được “ngông”, được tự tin như thế cũng phải.

cai “ngông” của tản đà không chỉng lại ở vệc ọc thơ chư tiên và trời nghe mà còn nằm ở cach mà ông thưa chuyện v ới trời, hhhng khng khng khng khng khng khng thhng khng khng khng khng khng khng thhng thhng khng khng thhng thhng thhng thhng khng thhng thhng thhng thhng thhng thhng thhng thhng thhng thhng thhng thhhy mà thay vào đó là phong thái tự tin, thành thực, xen lẫn chút hóm hỉnh, vui tươi vô cùng thoải mái. dựa và lối nói thì dường như tản đà xem chư tiên và trời là những người bạn tâm giao, with như thế ông mới dám kể lể những điều mà bấy lâu nay bản thân thân thân ô , khiến những nhà trí thức phải nhiều phen khốn khó. Điều đó được thể hiện rõ nhất trong các câu:

“văn chương hạ giới rẻ như bèo kiếm ược ồng lãi thực rất khó. kiếm ược thời ít tiêu thời nhiều làm mãi quanh nĂm chẳng ủ tiêu”

rồi thì tản đà còn “ngông” ở chỗt vết rằng mình vốn là một trích tiên bị đày xuống hạ giới vì tội “ngông”, dễ có mấy ng ười dám nghnh gian là sựng pH sau đó lại ược trời giải thích ấy không phải là trời bắt tội mà là “trời ịnh sai with một việc này/là việc” thiên lương “của nhn loại”, ôi th he or? Chưa hết cảnh tản đà trở về nhân gian cũng cho thấy cai “ngông” của tản đà, hết coi chung tiên là bạn hữu, coi mình là tiên, giờ ến việc về nh ặng ng.

“vâng nhời trời dạy, lạy xin ra trời sai khiên ngưu đóng xe tiễn xe trời đã chực ngoài thiên môn chư tiên theo ra cùng tiễn biệt”

chỉ một kẻ phàm phu (hoặc cũng có thể là trích tiên) nhưng lại vinh hạnh ược thiên đình ưu ái cho xe khiên ngưu ưa tiễn, chung tiên thì lũ lượt tiễ mà có thể tưởng tượng được. có thể nói rằng cái “ngông” của tản Đà dường như ở ý thơ nào cũng thấy xuất hiện, lúc đậm lúc nhạt nhưng không hề thi. không chỉ trong mình ý thơ mà ở cả cách dùng từ, hành văn hóm hỉnh, phóng khoáng, bay bổng cũng góp phần làm cho cái “ngông” của tản Đà

kết lại rằng, tản đà – “người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh), nên lối viết và lối suy nGhĩ có pHần khác biệt và nổi trội bởi khi ứng giữa hai dòng nước, with n. bật ra cái khác biệt, một là bị nhấn chìm và hai là ngược dòng để vươn lên, tản Đà là kiểu thứ hai ấy. và một khi đã bật lên được thì người thi nhân lại mang đến những nguồn cảm hứng mới mẻ, điển hình là cái “ngông” xuất phát từ khao khát được khẳng định tài năng, khẳng định cái tôi cá nhân mạnh mẽ giữa dòng đời phức tạp, nhiều biến động. nhưng đáng buồn rằng, khoảng thời gian ầu thế kỷ xx tản ​​đà vẫn còn pHải vật lộn, bươn chải nhiều và thơ ông cũng chưa tìm ược mình mìt v à th cng khác để khẳng định giá trị thực của bản thân, dù chỉ là trong mơ, một giấc mơ tên hầu trời.

►►click ngay vào nút tẢi vỀ dưới đây để tải về phân tích cái tôi ngông trong bài hầu trời – tản Đà (5 mẫu) hay nhất pdf file hoàn toàn miễn phí.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *