Mùa hạ trong thơ Nguyễn Khuyến  

Mời các bạn xem danh sách tổng hợp Các bài thơ về mùa hè thời trung đại hay nhất được tổng hợp bởi mvatoi.com.vn

mỗi khi có dịp nhắc đến thi hào nguyễn khuyến, người ta thường liên tưởng ngay đến chùm thơ thu nổi tiếng của ông. Điều này thật dễ hiểu, vì đây là chùm thơ chữ nôm, tiêu biểu nhất cho phong cach, giọng điệu, cai tài nĂng và cai tôi trữ thì c t nhưng nguyễn khuyến bài thơ chữ nôm “than mùa hè”, “vịnh mùa hè”, “cuốc kêu cảm hứng” và khoảng năm bài thơ chữ hán: “hạ nhật ” (ngày hè), “hạ vũ” (mưa), “ngày hè hạ nhật ngẫu thành” (ngày hè ngẫu thành), “hạ nhật hàn vũ” (mưa lạnh ngày hè). trừ bài thơ “que mùa hè” và bài thơ “hạ nhật ngẫu thành” ược sáng tác thể ngũ ngôn cổ phong, còn lại ều ược sáng tác thấat Ɲtát ngôn bún. Ở mức độ nào đó, chùm thơ mùa hạ cũng thể hiện được một phần tài năng, phong cách giọng điệu và cái tôi chữ nhânthi năn.

mặc dù sống và sáng tac chủ yếu vào giai đoạn nửa cupa thế kỷ xix, nhưng toàn bộ di sản thơ ca ồ ồ sộ của ông vẫn ược giới nghiên cứu văc x g Trong Thơ Ca Trung ại Việt Nam, Dù Là Thơ ường Luật There are Thơ Cổ Phong, Dù Là Thơ Trữ tình there are Thơ tự sự, Hoặc Thơ Trào Phung, Bao Giờ Cũng Tuân Theo Một Cách ặ , “tâm cảnh giao hòa” (tả cảnh để tả tình, tình lồng trong cảnh). giữa nhà thơ – chủ thể sáng tạo với nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình có mối liên hệ biện chứng với nhau. riêng trong thơ trữ tình, giữa nhà thơ với cái tôi trữ tình bao giờ cũng có sự thống nhất cao độ. do vậy, tìm hiểu cai tôi trữ tình của nguyễn khuyến qua thơ mùa hạa ông chính là tìm hiểu tâm tư, tình cảm, thế giới tâm hồn của nhà thơ qua ngôn từ, vần lus mầu sắc được cấu trúc một cách nghệ thuật trong các bài thơ cụ thể.

cảm nhận ầu tiên của chung tôi về cai tôi tình trong thơ mùa hạ của nguyễn khuyến là nó ược tàng ẩn rất kín đao sau quê hương. cảnh thiên nhiên, cảnh sinh hoạt nông thôn đồng bằng bắc bộ đi vào thơ nguyễn khuyến rất mực chân thực. Đây là cảnh sắc thiên nhiên và cảnh sinh hoạt nông thôn vào buổi sáng mùa hè:

“lúa mới ngậm đòng, càng mập mạp.

tằm vừa đẫy giấc, đã ngo ngoe

gióng trâu chú bé giơ roi thúc

thăm ruộng ông bô chống gậy về”.

(“hạ nhật tâm tình” – Đỗ ngọc toại dịch)

còn đây là cảnh sắc thiên nhiên nông thôn bình lục vào một ngày nắng đẹp:

“cá vượt khóm rau, lên mặt nước

bướm len lá trúc, lượn rèm thưa”.

(“vịnh mùa hè” – tác giả tự dịch từ bài hạ nhật ngẫu hứng)

và đây là cảnh sắc thiên nhiên vào một ngày mưa mùa hè qua with mắt của “túy ông”:

“mưa mau sầm sập bóng mây mờ.

ngất ngưởng phòng riêng cửa khép hờ”.

(“hạ vũ” – dương xuân Đàm dịch)

thi phap ối ngẫu rất khắt khe và chặt chẽ về sựt với sự vật, về không gian với không gian, về âm thanh với âm thanh, về nhịp điệu với ịp đp đp đp đ . luật không cho phép nguyễn khuyến hướng ngòi bút vào tả cảnh một cách chi tiết, tỉ mỉ như văn học hiện thực sau này. nhà thơ buộc phải vận dụng năng lực cảm nhận, tài quan sát và thao thác lựa chọn ể ưa vào trong thơ những chi tiết và hình ảà vả vừ vừ. net name ặc sắc của cảnh vật mùa hạ, dưới cái nhìn nghệ thuật của nguyễn khuyến thể hiện ở chỗ luôn sống ộng tộng tứnkh. phảng phất sau mỗi hình ảnh thơ, mỗi câu thơ giản dị mà chắt lọc kia là những tấm lòng ồng cảm, gắn bó mật thiết của nguyễn khuyễn với quê hương làng làng làng x.

thơ ca trung đại trước nguyễn khuyến, khi tả cảnh hay tả tình, khi vịnh sử hay vịnh cảnh, thường mang nặng tính khuôn ᇛc. thơ tả cảnh bao giờ cũng có: “tùng, cúc, trúc, mai” hoặc “phong, hoa, tuyết, nguyệt”. thơ tả người bao giờ cũng xoay quanh đối tượng “ngư, tiều, canh, mục”. thơ tả bốn mùa bao giờ cũng có “xuân, hạ, jue, đông”. nói đến cảnh mùa xuân thì thường có hoa đào và chimén. nói đến cảnh mùa hè thì thường có tiếng chim đỗ quyên và hoa sen. còn nói ến mùa thu thông quên hoa cúc và cây liễu yểu điệu … điều đó thể hiện ậm net trong thơ lý trần, của hội tao đàn, thđỡ đ đ . … phải ợi ến hồ xuân hương và sau đó là nguyễn khuyến, tú xương, thì những ề tài cuộc sống thường nhật mới ượcán phản th . trong thơ hồ xuân hương, người ọc gặp khá nhiều những hình ảnh bình thường ược nhà thơ cảm nhận như with ốc nhồi, qu. nguyễn khuyến nói chung và thơ mùa hạ của ông nói riêng, người đọc cũng bắt gặp rất nhiều cảnh vật và con người bình thường, tức là những đề tài bình dân, gần gũi, quen thuộc với người lao động: cá vượt khóm rau , tằm vừa ẫy giấc đang ngoe Ăn la dâu, chú bé chĂn trâu, ông lão đi thăm ồng ruộng, bướm vàng lượn rèm thưa, quha rác làm tổ, hạc ậu bờ the x nhnhm nhnhm nhnh có mặt trong văn học trung đại. Cho Nên, ở Chừng mực nhất ịnh, pHải xem nguyễn khuyến là nhà thơ đã thực hiện một bước cach tân lớn trong việc ưa thơ ca trở về gần với cuuộc sống thực. khẳng định như thế cũng đồng nghĩa với việc khẳng định nguyễn khuyến bắt đầu hình thành một quan niệm nghệ thuật, một cái nhìn nghệ thuật ít nhiều mới mẻ, khác lạ so với gần như toàn bộ truyền thống văn học trung đại trước đó.

không chỉn tàng một cach kín đáo cảnh sắc thiên nhiên và cảnh sinh hoạt nông thôn, cai tôi trữ tình của nguyễn khuyến cònn ược thểh ệ t đơn của một nhân cách lớn trước thế sự trầm phù. trong bài thơ nôm “cuốc kêu cảm hứng” nhà thơ đã gửi gắm nỗi buồn, nỗi ưu tư trước tình cảnh mất nước qua âm thanh tiẹc>ng:

“khắc khoải đưa sầu giọng lửng lơ

Ấy hồn thục đế thác bao giờ?”.

Trước nguyễn khuyến, các nhà thơ của trung quốc và việt nam sửng tiếng cuốc ể ể diễn tả cảm xúc hoài cổ và pHản ảnh nỗi buồn đã khán nhiều. nguyễn trãi tả tiếng chim ỗ quyên trong một ngày cuối xuân, ầu hạ, bà huyện thanh quan nghe ti -tig chim đa đa và tiếng chim cuốc ều ều, dónđa don chim mi . rồi nguyễn du cũng tả tiếng chim cuốc vào một đêm hè qua tâm sự của thúy kiều:

“dưới trăng quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông”

(truyện kiều)

là người đi sau, nhưng nguyễn khuyến không rơi vào sáo mòn, mà có cách thể hiện mới mẻ:

“năm canh máu chảy đêm hè vắng

sáu khắc hồn tan, bong nguyệt mờ

có phải tiếc xuân mà đứng gọi,

hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?”.

ởy, NGHệ Thuật ối NGẫU, NGHệ Thuật Sử DụNG Câu hỏi từ đã Có sức diễn tả rất ạt cai tâm sự u hoài đau xót của nhà thơ về tình non s ôm. nỗi đau xót ấy càng ược nhân lên gấp bội phần khi âm thanh tiếng chim cuốc gợi lên thân pHận mất nước, nhớc của thục ế khi xưa ở ở ở ở ở ở ở ở ở ở ở ở ở ở ở ở ở tương truyền cuối ời hán, thục ế là lưu thiện, vì ăn chơi sa ọa, dẫn ến mất nước, lúc chết hóa thành with chim cuốc, đêm đròm k. ra rất thảm thiết. Điển cố văn học trên đã được nguyễn khuyến khai thác để gửi gắm tâm sự không kém phần da diết xót xa. không buồn chán về tình cảnh đất nước, thi nhân không thể có những câu thơ thổn thức nỗi niềm đến thế!

nếu bài thơ “cuốc kêu cảm hứng” pHản ảnh nỗi buồn, nỗi ưu tư của nguyễn khuyến thì bài thơ “than mùa hè” lại chứa ựng tâm trạng chán chường

“tháng tư đầu mùa hạ

tiết trời thực oi ả

tiếng dế kêu thiết tha

Đàn muỗi bay tơi tả…”

Cuộc sống ca nhân nthèo túng, xã hội ngột ngạt, tiết trời oi ả … tất cả những khía cạnh ấy đã khiến cho nguyễn khuyến buồn bã, thao thức, mất ngủ:

“nỗi ấy ngỏ cùng ai

cảnh này buồn cả dạ

biếng nhắp năm canh chầy

gà đã sớm giục giã…”

phản ảnh tâm hồn sự ưu thời mẫn thế, nỗi buồn khắc khoải và cô ơn của một nhân cach lớn trước thời cuộc, cai tôi trữ tình của ông thanh cao, liêm khiết. thơ viết về mùa hạ của ông không ít câu, hình ảnh thể hiện phong thái ung dung, thanh thản tiêu dao của người ẩn dật:

“phía tây nam có ao nước trong

cui nhìn cá bơi lội thung thăng

phía đông bắc có bờ tre rậm

mở cửa sổ khi buổi sáng mát mẻ

chống gậy tha hồ đi ra đi vào

tựa ghế muốn ngồi thấp ngồi cao tùy ý…”

(“hạ nhật ngẫu thành” – Đỗ ngọc toại dịch nghĩa)

phảng phất trong ý thơ còn có cái vẻ cao đạo, trong sạch của con người vừa thoát khỏi quan trường. thời xưa không ít nhà nho chân chính, quan niệm quan trường là sợi dây trói buộc with người. bả công danh khiến with người giàu sang, nhưng cũng lắm lúc biến with người thành nô lệ, mất tự do, thỏa mái.

bắt buộc phải từ quan về qu ẩn dật đôi khi nhà nhguyễn khuyến cũng tựm cảm thấy ầy ủ ủ vềt vật chất và tinh thần, chứ trong thực tế tế thì ông rất nhèo:

“vải chín, bà hàng bưng quả biếu

cá tươi, lão dậm nhấc nơm chào

nghe chim giữa lúc vừa say dậy

giở sách ôn câu chửa nhãng nào…”

(“hạ nhật” – Đặng Đức tô dịch thơ)

giống như nguyễn trãi, nguyễn bỉnh khiêm, chu văn an và đào uyên minh là những nhà nho ẩn dật, nguyễn khuyến cố tìm thẻmy vuiềni ề. Các nhà nho trước nguyễn khuyến chỉm cảmy tự ầy ủ còn nguyễn khuyến thì có cr thêm cai toan của nhà nông, rất mực ời thường và cũng rất gần với suy nghĩ

“ngày hạ chang chang nắng kéo dài

nhà nho mùa đến việc tơi bời

Đã e có thóc, nhà thêm nóng

lại sợ không lương bụng đói hoài…”

(“quan hoạch” – Đỗ ngọc toại dịch thơ)

một nét ặc biệt khác, cai tôi trữ tình của nguyễn khuyến rất tự trọng, tự ý thức về nhân cach, pHẩm giá mì của thơ nguyễn khuyến nhắc nhiều ế quan ở ất bình trạch, ời tấn bên trung quốc, sau từ ề ẩt n. bài thơ “vịnh mùa hè”, nguyễn khuyến viết hai câu luận để ví ngầm cái chí của mình với cái chí của Đào tiềm và liễu tông nguyên:

ên:

ên:

ên

“thơ Đào của miệng đưa câu rượu

xóm liễu quanh khe chịu tiếng khờ…”

cả hai câu đều được kiến ​​​​trúc bằng điển cố văn học. câu thứ nhất ngầm khẳng định nhà thơ muốn học theo chí bình sinh của Đào tiềm là từ quan, ẩn dật, tìm thú vui nơi non xanh c bi. câu thứ hai nói về cách ứng xử với ời của mình sau khi từ quan, giống như cách ứng xử của liễu tông nguyên, tự nhận mình thuộc loại diại. thực ra đây chỉ là biểu hiện chí khí một cách thanh cao của nhà nho. nguyễn khuyến đắn đo nhiều trước khi từ quan về ẩn dật. tình thế ất nước lúc bấy giờ khiến người có lương tâm chỉ có hai cách lựa chọn: một là ứng lên chống thực dân pháp, hai là cớgús bớptá. nguyễn khuyến đã chọn with đường thứ hai. chứ một người từng ba lần đỗ đầu như ông sao lại có thể là “ngu” là “dại ” được?

khi tìm hiểu thơ nguyễn khuyến, các nhà nghiên cứu thường nhấn mạnh đến giọng điệu hóm hỉnh, mát mẻ, sâu cay của ông. Điều đó đúng nhưng chỉ có ở những bài thơ tự trào và trào phúng. còn chùm thơ mùa hạ, giọng điệu đó không thấy biểu hiện, dù mờ nhạt. Đọc thơ mùa hạ của ông, người đọc chỉ thấy giọng điệu u hoài, ngậm ngùi, chua xót. thơ có vui nhưng là vui gượng. Âm hưởng chủ đạo toát lên là âm hưởng buồn: buồn vì thời thế, buồn vì thân phận. Giọng điệu và âm hưởng ấy lại ược dung chứa ở nhịp thơ 4 -3 liên tục trong cac bài thơ ường luật, thất ngôn bá cú và ặc ẩn ẩn tàng cac cc c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c c ỗi ỗi ỗi. ?,”có phải tiếc xuân mà đứng gọi/ hay là nhớ nước vẫn nằm mơ?”…

nhìn chung lại cái tôi trữ tình trong thơ mùa hạ của ông là cái tôi trữ tình đa sắc thái, đa chiều giầu tính biểu cảm, giầutín . Có khi nó ẩn kín sau cảnh sắc thiên nhiên và cảnh sinh hoạt nông thôn, có khi nó thể hiện ở tâm sự ưu thời mẫn thế, buồn chán, cô ơn của nhà thơc trước thờc thờc thờ Cũng Có khi nó ược Biểu hiện trong thou nhàn tản, điền viên mà Thanh cao của người ẩn sĩ, trong giọng điệu ngậm ngùi, u hoài, xót xa củ trầm phù, dâu bể. Đó là thế giới tâm hồn đa cảm, là tâm tình của một nhà thơ rất mực tài nĂng, nhưng không gặp thời, luôn tự ýc về tài nng và nhân cach củ củ củ , tử, tử đ đ đ đ, t. ảnh hưởng quyết định đến vận mệnh dân tộc. cái tôi trữ tình ấy không tránh khỏi bi lụy do bị giới hạn bởi thời đại và lịch sử, song that đáng trân trọng biết bao.​

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *