Phân tích bài Thu hứng của Đỗ Phủ

3 bài văn phân tích bài jue hứng của Đỗ phủ
1. phân tích bài jue hứng của Đỗ phủ, mẫu số 1:
Đỗ phủ (712 – 770) tên chữ là tử mĩ, hiệu là thiếu lăng, người huyện củng, tỉnh hà nam, trung quốc. he xuất thân trong một gia đình có truyền thống nho học và thơ ca lâu đời. thủa trẻ Đỗ phủ cũng đi thi nhưng không đỗ. suốt cuộc đời of him, ông sống trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. tuy vậy, ngọn lửa đam mê văn chương trong lòng ông không bao giờ tắt. Ông Sáng tac rất nhiều và ể lại cho ời hàng ngàn bài thơco nội dung phong pHú, sâu sắc, pHản ange sinh ộng những sự kiện lịch sử thời ông đang sống và chn chứ với những đóng góp to lớn cho nền thi ca trung quốc nói riêng và nền văn hóa nhân loại nói chung, ỗ ỗ phủ đã ược unesco công nhận lăthi danh nóhn.
bên cạnh những bài thơ ược coi là “thi sử” (lịch sử bằng thơ), ỗ pHủ còn sáng tac nhiều bài thơ trữ tình thể hi cảm xúnc chân thành của mình trướ t. trong những bài thơ đặc sắc có bài jue hứng (cảm xúc mùa jue). Đy là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài ược ỗ ỗ pHủ sáng tac năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở qu far m. . SAU MườI MộT NăM Kể Từ KHI BUEG Nổ LOạN AN LộC SơN, TUY LOạN đà DẹP XONG NHưNG ấT NướC KIệT quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn pHải lưu lạc ở quê người. hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc bi thương là cảm xúc chủ đạo của thu hứng.
thu hứng (cảm xúc mùa thu) vừa là bức tranh mùa thu ảm ạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.
phân tích bài jue hứng của Đỗ phủ để thấy được những cảm xúc, tâm sự thầm kín của nhà thơ
phiên âm chữ hán:
ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm, vu sơn, vu giáp khí tiêu sâm.giang gian ba làng kiêm thiên dũng, tái thượng vân tiếp ịa âm. hàn y xứ xứ thồi đao xích, bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
dịch nghĩa:
sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phongnúi, kẽm vu hơi thu hắtgió lộng sông, sóng vọt lưtng trời trên cửa ảng, mó. : nghe càng dồn dập.
dịch thơ tiếng việt:
lac đác rừng phong hạt móc sa, ngàn non hi hắt, khí thu lòa.lưng trời song rợn lòng sông thẳm, mặt ất mây đùn cửa ải xa.khó cúc thuy thêm ,thành bạch, chày vang bóng ác tà.
(nguyễn công trứ dịch)
bài thơ có thể chia làm hai phần: bổn câu thơ đầu (đề, thực) là bức tranh vé thiên nhiên mùa thu ở vùng rừng núi thưồn trng ngu giang. bốn câu sau chủ yếu thể hiện cảm hứng của thi nhân trước cảnh thu về trên đất khách.
Ở cặp câu thứ nhất, chỉ với vài net chấm phá, tác giả đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở quý châu:
ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,vu sơn, vu giáp khí tieu sâm,
(lác đác rừng phong hạt móc sa,ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)
người ọc có thể nhận thấy ỗ ỗ phủ ứng ở vị trí tương đôi cao ể ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn khá, khá khá. khả năng quan sat tinh tế của Đỗ phủ thể hiện ngay từ câu thơ đầu tả cảnh rừng phong:
ngọc lộ điếu thương phong thụ lâm (lác đác rừng phong hạt móc sa). trong thơ cổ trung hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, có rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tƻt ợng cho trưng. sương trắng cũng tượng trưng cho mùa jue, cho sự lạnh lẽo. sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. net tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.
câu thứ hai: vu sơn, vu giáp khí tieu sâm. nhắc, đến vu sơn, vu giáp là người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất ba thục xưa kia. toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. trong bản dịch, từ lòa cùng với từ hiu hắt chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ khi tieu sâm (tối tăm, ối tăm). chữ ngàn non thay thế cho vu sơn, vu giáp khiến bản dịch dễ hiểu song lại làm mờ nhạt bản sắc của phong cảnh quý châu. vu sơn, vu giáp tức là núi vu, hẻm vu nổi tiếng hiểm trở và hùng vĩ. Được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca trung quốc. suốt cả chiều dài bảy trăm dặm, núi tiếp núi dọc đôi bờ song, tuyệt không có một chỗ trống. quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút. vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng song. vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm ạm, lạnh lẽo, qua ngòi bÚt miêu tả thấm ẫm tâm trạng li sầu của ỗ phủ lại càng thêm ĺm t,.
hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh jue ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh jue ở núi non. tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với with mắt và tâm trạng giống nhau: trĩu nặng một nỗi buồn thương.
vẫn tiếp tục quan sat thiên nhiên với tâm trạng như thế nên ỗ ỗ đ đã viết những câu thơ tả thực ầy am ảnh như có ma lực cuhn hút hồn ngườii
giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(lưng trời song rợn lòng song thẳm,mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
ở hai câu ề là cảnh thu trên cao (rừng pHong, day number), ến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp, vẫn là những chi tiết ược cảm nhận qua đôt mắt thi nhnhn nhnhn nhnt v. kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. song ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. vì thế nên mới có cảnh giữa lòng song, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Trong câu thơ dịch: lưng trời song rợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn, thẳm ặc tả sự hùng vĩm hếm của vùng sông nưới đy và tển ợn chom giá cngn hình ảnh ảnh ả mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa.
nếu ở hai câu trên, cảnh sắc nhuốm màu bi thương tàn tạ thì ở đây cảnh sắc lại có phần vừa hoành tráng vừa dữ dữ d.
bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, ặt cạnh nhau tạo thành một bức tranh mùa thu rộng lớn, hiện rõ ràng cai hồn ặc trưng của mù t thn r. núi, bầu trời, lòng song, mặt ất, mây mù, cửa ải xa… sức khơi gợi, liên tưởng của bức tranh thu ấy trong tâm hồn ngườà vô biọc l. tuy tác giả chưa nhắc tới cảnh đời điêu linh nhưng hình như nó đã thấp thoáng ẩn hiện sau hình ảnh những cánh rừng phong xơ xác vì sương gió, hình ảnh đất trời đảo lộn trên sóng nước trường giang và mây xám mịt mù vùng quan ai. Đứng trước khung cảnh ấy, một nhà thơ có trái tim nhạy cảm như Đỗ phủ làm sao lại không nhớ thương quê cũ đến cháy
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:
tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(khóm cúc tuồn thêm dòng lệ củ, with thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Đây là hai câu hay nhất trong bài thơ chữ hán của Đỗ phủ cũng như trong bản dịch của nguyễn công trứ.
giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ phủ nhắc đến hoa cúc, điều đó không có gì mới. Điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ. câu thơ nguyên văn chữ hán; tùng cúc lường khai tha nhật lệ (khóm cúc nở hoa đã hai lần, làm tuôn rơi nước mắt ngày trước). nguyễn công trứ dịch thoát ý là : khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ cũng rất hay, giúp người đọc hình dung ra tâm trạng cô đơn chất chửa sầu thương của Đỗ phủ trong những tháng năm phiêu bạt, xạ quê hương sâu nặng nghĩa tình . hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ phủ sống ở quý châu. hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa jue trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến>nà
hoa cúc là yếu tố gợi nhớ, hình ảnh with thuyền càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: cô chu nhất hện c. (with thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ). câu thơ dịch bỏ mất tính từ cô trong cô chu chứa chất đầy tâm, trạng của Đỗ phủ nơi đất khách. chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ ầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, ơn ộc của nó mà còn vìó là pHương tiện duy nhất ểt ể ể ọc v ề v ề ề ề c v ề.
hai câu kết:
hàn y xứ xứ thôi đao xích, bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
(lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,thành bạch, chày vang bóng ác tà.)
Ở hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến song, trong bong hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đem ến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy không ủ ể ể xua đi những ánng ánth mây bus.
khí jue lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh nhanh cho việc may áo ấm. hãy đọc lại câu thơ thứ tư: tái thượng phong vân tiếp địa âm. (trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u). lúc này, loạn an lộc sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo còn. trời tối rồi (mộ), không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày ập vải và chạnh lòng nghĩ tới nhếng ngưthời quán. Âm thanh của mùa jue mayo áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang… “ngôn tận nhi ý bất tận” (lời hết màng hý khô). Đỗ phủ cảm thấy không lời lẽ nào có thể nói hết nỗi niềm thu hứng.
ặc điểm nGhệ Thuật của bài thơ là kết cấu hết sức chặt chẽ câu nào cũng bám chặt chủt tâm trạng. cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gio thu, song thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). tác giả thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thờ. Đó là một chiều jue cụ thể ở vùng đất quý châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. ngày đêm, ông chi còn ôm ấp một hi vọng mong manh là he được trở về quê cũ. hẳn ước mơ của Đỗ phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình đ>
Ở trong bài thơ, các mối quan hệ giữa xa và gần, giữa không gian và thời gian, giữa thị giác và thinh giác, giữa thu hứng có sự liên kết chết. sự vận hành của tứ thơ rất lôgíc: từ xa đến gần, từ không gian mà cảm nhận thời gian, từ ngoại cảnh thể hiện tện. hàm ẩn trong mỗi câu, mỗi chữ là tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ phủ.
cảm xúc mùa jue là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ phủ. jue hứng dạt dào xuất phát từ rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ đã được thể hiện đầy đủ qua ngọn bút thần tìn. Với ỗ ỗ pHủ, Mùa Thu ồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang pHải sống Trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô ơn n ơn n ơn n cùng với một số bài thơ nổi tiếng khác như Đăng cao, mao ốc thu phong vị sở phá ca. . được lưu truyền rộng rãi qua hàng ngàn năm, thu hứng gop phần khẳng định tài năng kiệt xuất của Đỗ phủ. Ông xứng đáng được người đời tôn vinh lá bậc “thi thánh” của thơ? thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.
-hẾt bÀi 1-
bên cạnh phân tích bài jue hứng của Đỗ phủ các em cận tìm hiểu thêm những nội dung khác như cảm nhận bài thơng thu>n cảm nhận bài thơng thu>n cảm nhận bài thơng thu>n cảm nhận bài thơng thu>n cảm nhận bài thơng thu>n cảm nhận bài thơng thu>n ý phân tích bài thu hứng nhằm củng cố kiến thức của mình.
2. phân tích bài jue hứng của Đỗ phủ, mẫu số 2:
bài thơ này vừa là bức tranh pHong cảnh mùa thu ảm ạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của ủn trolly cỡn ông loch vận nước đ phận bất hạnh của mình nơi đất khách quê người.
dịch nghĩa:
This tâm.hàn and xứ xứ thôi đao xích,bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Đứng ở thành quỳ châu, nhìn ra phong cảnh bốn bề. lúc ấy sương móc sa xuống, lá phong trong rừng đã thấy úa vàng, trên dãy núi vu sơn, bóng tối mịt, mù, đủ thấy khí hậu rét lắm. Ớ nẻo xa xa trong lòng song, làn song cồn liền với chân trời. trên ngọn núi, vài bóng mây lờ mờ tiếp với mặt đất. Thình Lình NGHĩ ến Cảnh Mình, tac giả sực nhớ mình đã lênh đênh ất khách ến hai năm trời, khóm cúc ở các nhà chắc đã hai lần nở hoa, sau
bây giờ tạm Trú ở đây, không phải là lâu dài chắc chắn, cho nên cứ luôn nhớ ến quê hương, lòng mong mỏi cố hương của mình chẳng khác gì một chiếc Thuyền lênh đênh đ nhưng cái ngày ấy biết là ngày nào? hiện nay mùa thu sắp hết, mùa rat sắp ến, trê thành bạch ế mỗi lúc trời chiều, tiếng chày ập vải đy rộn rịp, mau kip như giục nhữn ai burns ước kén ắc. Đáng buồn vô cùng (ngô tất tố dịch).
dịch thơ:
lác đác rừng phong hạt móc sa, ngàn non hiu hắt, khí thu lòalưng trời song rợn lòng sông thẳm, mặt ất mây đn cềa ải xa.khóm c cúc tuôn à thê . lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,thành bạch, chày vang bóng ác tà.nguyễn công trứ dịch
“hứng” là nói “nổi lên” (hứng). gái đẹp đương xuân thì ý nồng nàn, chí sì trước jue thì tình sâu xa; phàm núi song rừng núi, gió khói, mây sương, sắc cò, hương hoa, cái mắt thấy, điều tai nge, có gì là không c c c cuaro với tấc lòng c chất nhau. . tiên sinh với tấm lòng trung tín gặp buổi nhiêu linh, lại đem cai thân lưu ngụ trải qua mùa thu Héo rạng này, thì hứng ấy thực là hứng mất hết, lòng nguội tro, ý vì thế có tám bài này. số bài mô phỏng của người sau nhiều đến thế như “mồ hôi trâu đầy cột” (hãn ngưu sung đồng); thấy tiên sinh khéo đặt đề thơ, họ cũng từng làm thử theo. Đầu đề là “thu hứng” mà thơ thì lại không có hứng. người làm thơ trong lòng không có hứng mà lại muốn làm thu hứng, vì thế chẳng những thơ đúng thực là tha diệu mà đề cũng ău diệg lệg l; chẳng những đề đúng thực là đề diệu mà tiên sinh cũng đúng thực là người diệu. từ xưa đến nay, thơ gồm bao nhiêu bài thì nhiều thêm một bài không được, mà ít đi một bài cũng không được. như thế này gồm tám bài thì bảy bài không được, mà chín bài cũng không được. tôi nói như vậy nhiều lần rồi mà co người chưa mấy tin: xin hãy xem thơ này bài thứ nhất thuần tả “thu”, bài thứ tá thá tản tả “hứng” thì sẽ biết tám bài bài l ài l à một.
những bài phân tích bài jue hứng của Đỗ phủ hay nhất
(1 – 4) “lộ” (móc) mà nói là “ngọc lộ” (móc ngọc), “thụ lâm” (rừng cây) mà nói là “phong thụ lâm” (rừng cây phong); chỉ một cõi “điêu thương* (héo hon) mà” trắng “thì tả rất mực” trắng “,” ỏ “thì tả rất mực” ỏỏ “,” thu “sở dĩ” hứng “chínhῺ là v. hạ hạ hạ hạ hạ hạ hạ hạ hạ hạ. chữ “vu sơn”, “vu giáp”, liền thấy cái khí “tiêu sùm” (mịt mờ), thảy ã, ba lạnh lângà lùngà, vắ , “phong ván” thì thừa vu ” sơn, vu giáp “. còn như nói” móc ngọc “tả tơi,” rừng phong “soi lá, thì tả cảnh ấy tuy khiến cho người chí sĻời thêm bin, mà kẻ u nhâềm. Sao lại ở Hoài chốn vu sơn, vu giáp mà ngước mắt nhìn sông, chỉy thấy song vọt ngất trời, mà đm đĂm trông lên ải, chỉ Thy gió mây mây mât mịt mờt mờt mờt mờt mờt mờt mờt mờt mờt mờt mờt mờt
thực đáng đau đớn bi thương! khiến cho người ta long hết khí tuyệt. một giải xâu suốt cả tám bài, nối thẳng câu cuối “giai nhân thập thúy” (người ẹp nhặt lóng chim thúy), rồi que “bạu p>
(5 – 8) kẻ không biết thì bảo “lưỡng khai” (nở hai lần) ấy là “tùng cúc” (khóm cúc), đâu biết rằng “lưỡng khai” ấy đều àắn ắn ngày sau)! kẻ không biết thì bảo “cô chu” NHậT “: Tuyệt diệu! chỉc cor mình ở vào hoàn cảnh đó thì mới biết ược. ; bạch ế thành ở pHía đông quý pHủ: đây lài gần ể chỉ xa vậy. Trong bụng nghĩ ến “dao thước” (dao xích) trong nhà, mà trong tai chỉ nghe thấy tiếng châm thành bạch bạch thế mà rất mực thê lương. câu 1, 2; các câu 5, 6 chuyển đến các câu 7, 8: cứ xem như thế thì biết lời tôi “phân giải” không lầm đâu.
3. phân tích bài jue hứng của Đỗ phủ, mẫu số 3:
nhắc đến trung quốc, không ai là không biết đến nhà thơ nổi tiếng Đỗ phủ (712-770). Ông có hàng ngàn bài thơ phong phú, sâu sắc, chủ yếu viết về sự ảnh hưởng của thời đại lên đời sống người dân bn và chín. Ông có nhiều tác phẩm kiệt tác, trong số đó có bài thơ “cảm xúc mùa thu” bài thứ thứ nhất trong chùm thơ “thu hứng” năm 766, khi đi ìnhgia . “Cảm xúc mùa thu” vừa là bức traph thu ảm ạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng u sầu trĩu nặng của nhà thơ trong lúc ất nước đang rối ren, loạn lạc. <
bài thơ chia làm hai phần, bốn câu thơ đầu tác giả tả cảnh mùa thu ảm đạm, hắt hiu. bốn câu thơ sau là tả tình, chính là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước cảnh mùa jue, nỗi nhớ quê và nỗi niềm ớnưp.
hai câu thơ đầu được nhìn trong tầm bao quát rộng và xa:
ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,vu sơn, vu giáp khí tieu sâm.
tác giả đã đặt điểm nhìn của mình từ rừng núi xuống dòng song, bao quát theo chiều rộng. nhắc đến phong người ta liên tưởng đến mùa thu vì mỗi đợt thu về rừng phong lại đỏ úa thể hiện sự li biệt, buồn thưn. vậy mà sương móc trắng xóa, dày đặc làm xơ xác cả rừng phong càng hiện vẻ tiêu điều, lạnh giá. net tiêu điều của cảnh vật hiện lên rõ net trong mắt của nhà thơ. câu thơ thứ hai càng làm nổi lên sự lạnh lẽo “vu sơn, vu giÁp” chính là hẻm vu hiểm trở, hùng vĩ vách dựng ứng nên obsặt trờt khón lốs. vào mùa jue không khí lạnh lẽo ảm đạm trong cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ càng hiu hắt, ảm đạm. qua hai câu đầu về cảnh núi rừng mùa thu, sự tiêu điều, hiu hắt, bi thương lan tỏa khắp không gian khác hoàn toàn cảnh thu trong thơn ca tru. chính sự đau buồn ấy, Đỗ phủ viết lên những lời thơ sâu sắc:
giang gian ba làng kiêm thiên dũng,tại thượng phong vân tiếp địa âm.
trong hai câu thơ này có hình ảnh ối lập vông thou vị, song vọt lên tận lưng trời, rồi mây sa sầm xuống một ất, từp lên rồi t.at thng thng thng thng thng thng thng thng thng thng thng thng scng thng thng thng thng một ột thng thng thng thng thng một để. cảnh jue chuyển động dữ dội tạo nên bức tranh jue vừa hùng vĩ vừa bi tráng. sự chuyển động chao đảo của cảnh vật, cũng là sự chao đảo xã hội lúc bấy giờ. lời thơ là nỗi lòng thương nhớ tuyệt vọng trước thời thế lúc bấy giờ của nhà thơ. bốn câu thơ tả cảnh cụ thể đặt cạnh nhau làm toát lên bức tranh jue rộng lớn vừa tieu điều hiu hắt, vừa dữ dṻng vi, hĩĩĩ. chính cảnh vật ấy vừa gợi nỗi buồn tê tái, vừa ngầm thể hiện nỗi lo âu của nhà thơ về sự không yên bình nƺi biên.
bài văn mẫu phân tích bài thu hứng (cảm xúc mùa thu) của Đỗ phủ
cảnh jue ở phần thứ nhất đã khơi gợi cái tình trong lòng nhà thơ. bốn câu thơ sau nói lên nỗi nhớ quê nhà và nỗi niềm dân nước.
tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệcố chu nhất hệ cố viên tâm.
<púc là loài hoa của mùa thu, biểu tượng niềm vui và vẻ ẹp vậy mà nhìn nó lại nhỏ lệ, gợi một nỗi buồn sâu lắng của nhà thơ, nhìn hoa cúc nhớ nh ở nh ở sầu, nghẹn ngào. Chữ "lệ" Trong bài thơ rất khó pHân biệt lệ của người there are của hoa, tuy nhiên c lẽ nên hiểu: mỗi lần nhìn hoa cúc nở, nhà thơ lại chạnh lòng nhớ vềng. những giọt nước mắt cũng cứ thế tuôn rơi không ngĂn lại ược, hình ảnh hoa cúc nở rồi lại nở vừa gợi sự trởi trởi của nỗi nhớ quáê ừ à à ữ ữt. "cố chu" with thuyền cô độc, khi nhìn thấy with thuyền nỗi lòng tác giả càng dâng trào, càng nhớ quê da diết. hình ảnh with thuyền trôi nổi, lưu lạc, là phương tiện duy nhất nhà thơ gửi gắm ước nguyện về quêng cable. bằng nghệ thuật ẩn dụ tinh xảo hai câu thơ biểu hiện nỗi nhớ quê một cách sinh động và tha thiết, sâu lắng của nhà thơ.
hai câu cuối âm thanh sinh động được lột tả:
hàn y xứ xứ thôi đao xích, bạch Đế thành cao cấp mộ chân.
càng xoáy sâu vào lòng người nỗi nhớ quê nhà tê tái, khuôn nguôi, nhớ đến cuộc sống bình yên nơi quê nhà càng entre nhớ hƺtê da quên. trời tối rồi, nhà thơ không nhìn thấy gì nữa mà chỉ nghe tiếng chày đập vải và chạnh lòng nhớ những người i lính nƺi qui.
i.
bằng việc sử dụng không gian dài, rộng, vừa cao, sâu, thấp lên cao và từ cao xuống thấp và những phép ẩn dụ ặc sắc, chốiứt chứ. cách hay trong bút pháp tả cảnh ngụ tình, ngôn ngữ cảm xúc, dùng qua khứ nói hiện tại. Bài thơ đã miêu tả bức tranh thiên nhiên hùng vĩ mà hiu hắt, sôi ộng mà nhạt nhòa trong sương khói mùa thu, ồng thời hi ện di ệt một tâm trồng buồn, xón x
bài thơ ” cảm xúc mùa thu” là bài thơ rất hay và ý nghĩa. bài thơ là nỗi lòng nhớ quê của tác giả khi he phải xa quê trong lúc loạn lạc. bài thơ như nhắc nhở chúng ta yêu quê hương mình và trân trọng nơi chúng ta đã sinh ra.
-hẾt-