bài thơ tây tiến là một bài thơ của nhà thơ quang dũng, được in trong tập mây đầu ô (1956). Đây là một bức tranh sinh độc về cuộc sống của người bộ độ việt nam. dưới đây là nội dung bài thơ.
bài thơ tây tiến
sông mã xa rồi tây tiến ơi! nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. sài khao sương lấp đoàn quân mỏi, mường lát hoa về trong đêm hơi.
dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm, heo hút cồn mây, súng ngửi trời. ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống, nhà ai pha luông mưa xa khơi.
anh bạn dãi dầu không bước nữa, gục lên súng mũ bỏ quên đời! chiều chiều oai linh thác gầm thét, Đêm đêm mường hịch cọp trêu người.
nhớ ôi tây tiến cơm lên khói, mai châu mùa em thơm nếp xôi.
doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, kìa em xiêm áo tự bao giờ. khèn lên man điệu nàng e ấp, nhạc về viên chăn xây hồn thơ.
người đi châu mộc chiều sương ấy, có thấy hồn lau nẻo bến bờ? có nhớ dáng người trên độc mộc, trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?
tây tiến đoàn binh không mọc tóc, quân xanh màu lá dữ oai hùm. mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm.
rải rác biên cương mồ viễn xứ, chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Áo bào thay chiếu, anh về đất, song mã gầm lên khúc độc hành.
tây tiến người đi không hẹn ước, Đường lên thăm thẳm một chia phôi. ai lên tây tiến mùa xuân ấy, hồn về sầm nứa chẳng về xuôi.
phù lưu chanh, 1948
Đôi net về tác giả quang dũng
– quang dũng sinh năm 1921, mất năm 1988, tên khai sinh là bùi Đình diệm
– quê quán: làng phượng trì, huyện Đan phượng, tỉnh hà tây (nay thuộc hà nội)
– Ông học đến bậc trung học ở hà nội. sau cách mạng tháng tám ông tham gia quân đội
– từ sau năm 1954, ông là biên tập viên nhà xuất bản văn học
– quang dũng là một nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh và soạn nhạc
– tác phẩm chính: mây đầu ô (thơ, 1986), thơ văn quang dũng (tuyển thơ văn, 1988)
– phong cách sáng tác: hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa – đặc biệt là khi ông viết về người lính tây tiến của mình
– năm 2001, ông được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật
Đôi net về tác phẩm tây tiến
hoàn cảnh ra đời
– tây tiến là tên gọi của trung đoàn tây tiến, được thành lập năm 1947:
+ nhiệm vụ phối hợp với bộ đội lào, bảo vệ biên giới việt lào
+ Địa bàn hoạt động rộng: hòa bình, sơn la, thanh hóa, sầm nứa
+ lính tây tiến chủ yếu là người hà nội, trẻ trung, yêu nước
– năm 1947, quang dũng gia nhập đoàn quân tây tiến, là đại đội trưởng
– cuối năm 1948, quang dũng chuyển về đơn vị mới, nhớ đơn vị cũ, ông đã viết bài thơ tại phù lưu chanh (hà tây)
– bài thơ ban đầu có tên là “nhớ tây tiến”. Đến năm 1957, in lại bỏ từ “nhớ”, in trong tập “mây đầu ô”
bố cục (4 phần)
– phần 1 (14 câu đầu): khung cảnh thiên nhiên miền tây và những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân tây tiến
– phần 2 (8 câu tiếp theo): những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh song nước miền tây thơ mộng
– phần 3 (8 câu tiếp theo): chân dung người lính tây tiến
– phần 4 (còn lại): lời thề gắn bó với tây tiến và miền tây
giá trị nội manure
với cảm hứng lãng mạn và ngòi Bút tài hoa, quang dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lynh tây tiến trter hình tượng người linh tây tiến mang vẻn vẻn vẻn vẻ
giá trị nghệ thuật:
– cảm hứng và bút pháp lãng mạn
– cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các từ chỉ địa danh, từ tượng hình, từ hán việt..
– kết hợp chất nhạc và chất họa
sơ Đồ tư duy tây tiến Đơn giản nhưng Đầy Đủ và dễ hiểu nhất
trả lời câu hỏi sách giáo khoa về bài thơ tây tiến
câu 1 (trang 90 sgk ngữ văn 12 tập 1)
– bố cục có thể chia làm 4 đoạn:
+ Đoạn 1 (từ đầu đến thơm nếp xôi): chặng đường hành quân vất vả gắn với hình ảnh núi rừng hùng vĩ, nghiắc
+ Đoạn 2 (tiếp đến lũ hoa đong đưa): kỉ niệm của những người chiến sĩ cách mạng
+ Đoạn 3 (tiếp đến khúc độc hành): nỗi nhớ đồng đội da diết về những đồng đội của mình
+ Đoạn 4 (còn lại): nỗi nhớ của quang dũng hướng về tây tiến
– mạch cảm xúc của bài thơ: mở ầu là nỗi nhớ, tiếp là kỉmmm, nỗi nhớ về tây t ân và cuối c ”cùng là lời khẳng ịnh mãi gắn bóng với tây t
câu 2 (trang 90 sgk ngữ văn 12 tập 1)
bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội là biểu tượng của chặng đường hành quân đầy gian khổ:
+ song mã và tây tiến là hình ảnh kết tinh nỗi nhớ của tác giả: nhớ miền tây bắc và nhớ lính tây tiến
+ Địa danh được nhắc tới như sài khao, mường lát, mường hịch, mai châu
+ Đặc điểm hiểm trở, gập ghềnh trong cuộc hành quân: mây, mưa, thác, cọp…
+ bức tranh thiên nhiên núi rừng tây bắc mở ra cuộc hành quân giữa núi cao, vực sâu, rừng thẳm… liên tục xuất hiện trong bài
– vẻ hoang sơ, dữ dội, á liệt của tây tiến thể hi riqu bằng thủ phap nhân Hóa, cường điệu (chiều chiều oai linh gầm Thét/ đm đêm mường hịch cọp turười)
+ bức tranh thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp kiêu hùng, vượt lên mọi khó khăn, mất mát đau thương của người linh tây ti>
– hình ảnh đoàn quân tây tiến hùng dũng trên nền thiên nhiên:
+ sự tinh nghịch, dí dỏm của các chàng trai hà nội, chiến thắng thiên nhiên, chạm tới đỉnh cao của chiến trường tây bắc.
+ dũng cảm, gan góc, kiên cường của những người lính trên sự dữ dội và bí ẩn của thiên nhiên
+ hình ảnh bi tráng của người lính tây tiến trên chiến trường, coi cái chết nhẹ tựa giấc ngủ
-> những người lính tây tiến giữa núi rừng hiểm trở làm nổi bật lên sự dũng cảm, kiên trung của thế hệ trẻ thni kì
câu 3 (trang 90 sgk ngữ văn 12 tập 1)
tây tiến trong đoạn thứ hai hiện lên duyên dáng, mĩ lệ, thanh bình dưới góc nhìn hào hoa, yêu đời
+ vẻ đẹp của đêm hội đuốc hoa, xiêm áo rực rỡ, tiếng khèn, điệu nhạc
+ sự gắn bó thủy chung giữa tình quân dân kháng chiến tình nghĩa việt- lào (doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ kìa em xiêm áo tờ)
+ nhân vật trung tâm tạo nên những bất ngờ thú vị, thu hút hồn via những chàng trai tây tiến đó là những cô gái e ấp tình tứ trongû điữ mú moment
+ Đó là vẻ đẹp tây bắc gắn với hình ảnh cô gái thái chèo thuyền độc mái uyển chuyển, với bông hoa làm duyên trên dòng n
– cảnh và người tây bắc trong kí ức của tác giả: đẹp, có hồn, quyến luyến, tình tứ
+ bức tranh 4 có nét đẹp hoang sơ, nên thơ nổi bật hình ảnh with người “dáng người trên độc mộc” đem đến net man đẹp>
+ cái đẹp trong nỗi buồn hiu hắt đặc trưng miền sơn cước
+ trong không gian đó nổi lên sự mềm mại
câu 4 (trang 90 sgk ngữ văn 12 tập 1)
hình ảnh, bức chân dung người lính tây tiến hiện lên hào hùng, cao đẹp:
+ “không mọc tóc” sốt rét rừng nên những người lính rụng hết tóc, đây là sự khốc liệt của hoàn cảnh chiến đấu
+ “quân xanh màu lá”: sự khắc nghiệt của điều kiện chiến đấu khiến những người lính xanh xao
+ “dữ oai hùm” có những net oai phong hùng mạnh áp đảo kẻ thù ( đây là lối miêu tả ước lệ cổ điển)
+ “dáng kiều thơm” tâm hồn lãng mạn của những người lính tây tiến khi nhớ tới người yêu, hậu phương
->
câu 5 (trang 90 sgk ngữ văn 12 tập 1)
nỗi nhớ tây tiến tha thiết, khắc khoải, ám ảnh:
+ “thăm thẳm, không hẹn ước, một chia phôi” diễn tả nỗi nhớ, lời thề kim cổ: ra đi không hẹn ngày trở về
+ nỗi khắc khoải, thương nhớ những ngày đã qua trong qua khứ chiến đấu
+ “tây tiến mùa xuân ấy”: thời của hào hùng, lãng mạn đã qua
+ “hồn về sầm nứa chẳng về xuôi”: nhà thơ dành tất cả tình cảm, trái tim cho tây tiến và cho qua khứ hào hùng
-> NỗI NHớ Tây Tiến Luôn Khắc Khoải, Tha Thiết Trong Lòng nhà thơ như một minh chứng về sức sống ménh liệt của kh niệm, kí ức những ngày gian khổ hào hù hù hù hù hù
luyện tập
bai 1 (trang 90 sgk ngữ văn 12 tập 1)
bút pháp tác giả sử dụng trong bài là but pháp lãng mạn là chủ yếu:
+ thủ pháp phóng ại, cường điệu, ối lập ể tô ậm cái phi thường, gây ấn tượng mạnh và sâu ậm vềnhững cái dữ mữ dộmi, tu
– so sánh với bài thơ Đồng chí của chính hữu:
+ Đồng chí sử dụng bút pháp tả thực làm nổi bật vẻ đẹp giản dị, chân chất của những anh lính xuất phát tèquên vùp>
+ các chi tiết miêu tả chân dung người lính ều chân thật, giống thực tế, họ luôn cùng lí tưởng chiến ấu n chia sẻ c cùng nhau nhờững gian lí
+ tây tiến của quang dũng miêu tả, tái hiện hình ảnh tây bắc dữ dội, hoang sơ nhưng lại hết sức mơ mộng
+ tác giả chú trọng net độc đáo, khác thường làm nổi bật vẻ hào hoa, kiêu hùng của người lính chiến
bai 2 (trang 90 sgk ngữ văn 12 tập 1)
chân dung người lính tây tiến:
– mang vẻ đẹp bi tráng, lãng mạn có sức lôi cuốn với người đọc
– ngòi bút của quang dũng những người lính tây tiến hiện ra oai phong, dữ dội khác thường
– những cai gian khổ, thiếu thốn có thể làm hao mòn, tiều tụy dáng hình bên ngoài nhưng sức mạnh nội lực từ bên trong của họ khiến mọi người cảm pHục
+ trong khó khăn vẫn hướng về những điều tốt đẹp, lãng mạn
– chất bi trang của người lính tây tiến:
+ tác giả nói tới cái chết, sự hi sinh nhưng không hề bi lụy, đau thương trái lại còn kiên cường, lãng mạn
+ khi nói về cái chết, tác giả miêu tả thật sang trọng, cái chết tạo ra sự cảm thương sâu sắc từ thiên nhiên.
+ phản ánh sự kết hợp tài tình hình tượng tập thể người lính tây tiến với sự miêu tả vẻ đẹp tinh thần ng của with
-> hình ảnh người lính tây tiến ược miêu tả mang ậm chất bi tráng, chói ngời vẻ ẹp lý tưởng, mang dáng dấp của người anh hùng thời .
dàn ý phân tích tây tiến
dan ý
mở bai
– giới thiệu về tác giả quang dũng (đôi net về tiểu sử, phong cách nghệ thuật, sáng tác chính…)
– giới thiệu khát quát về bài thơ tây tiến (hoàn cảnh ra đời, giá trị nội dung, nghệ thuật)
que bai
1. giới thiệu khái quát về đoàn quân tây tiến
– tây tiến là tên gọi của trung đoàn tây tiến, được thành lập năm 1947
– nhiệm vụ phối hợp với bộ đội lào, bảo vệ biên giới việt lào
– Địa bàn hoạt động rộng: hòa bình, sơn la, thanh hóa, sầm nứa
– lính tây tiến chủ yếu là người hà nội, trẻ trung, yêu nước
2. khung cảnh thiên nhiên miền tây và những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân tây tiến
– cảm xúc chủ đạo: “nhớ chơi vơi”, nỗi nhớ da diết bao trùm, mênh mang đầy ắp lên mọi cảnh vật, with người
– cảnh thiên nhiên núi rừng tây bắc hiện lên hoang sơ, dữ dội và hiểm trở:
+ hình ảnh thơ: sương lấp, mây, mưa, thác, cọp… gợi nên sự gian nan, vất cả
+ Địa danh: sài khao, mường lát gợi sự xa xôi, cách trở
+ sử dụng từ láy giàu giá trị tượng hình: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, điệp từ dốc gợi sự quanh co, gập ghềnh đm>
+ hình ảnh thơ ộc đáo: “Súng ngửi trời” vừa diễn tả ộ ộ cao của ịa hình vừa diễn tả nét tinh nghịch, ngộ nghĩnh của những ười linh
+ hình ảnh nhân hóa: “cọp trêu người”, “thác gầm thét” gợi sự hoang sơ, man dại; thời gian: “chiều chiều”, “đêm đêm” những người lính phải thường xuyên đối mặt với điều hiểm nguy chốn rừng thiêng n>></
+ sử dụng các câu thơ dày đặc thanh trắc có tác dụng to lớn trong việc diễn tả sự gập ghềnh, trắc trở của địa hình
– cảnh thiên nhiên miền tây lãng mạn, bình dị, mang lại hương vị ngọt ngào, nồng ấm
+ hoa về trong đêm hơi
+ nhà ai pha luông mưa xa khơi
+ cơm lên khói, nhà em thơm nếp xôi
– hình ảnh người lính tây tiến: “dãi dầu không bước nữa”, “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Đó có thể là giây phút nghỉ ngơi của những người lính sau chặng đường hành quân vất vả, song đó cũng có thê là sự nghỉ ngơi vả>
⇒ BằNG BUTI PHAPP HIệN THựC MạNH BạO, KHỏE KHOắN, MIêU Tả XEN Kẽ Hài Hòa… đOạN THơ PHAC HọA BứC TRANTH NÓI RừNG VừA HIểM TRởM, HOANG VU, Dữ
3. những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh song nước miền tây thơ mộng
a) cảnh đêm liên hoan văn nghệ
– không khí đêm liên hoan tưng bừng, cả doanh trại như một ngày hội, một lễ cưới: doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
– hình ảnh trung tâm: các cô gái với trang phục cổ truyền lộng lẫy, e thẹn, tình từ trong các điệu múa (qua hình ảnh xiêng áo)
– hình ảnh những người lính trẻ: bay bổng, say mê trong không khí ấm áp tình người: “nhạc về viên chăn xây hồn thơ”.
⇒ bốn câu thơ miêu tả vẻ ẹp tình tứ của các cô gái miền tây, tình quân dân thắm thiết và tinh thần lạc quan, y y ời của những
ng>
b) cảnh song nước miền tây
– cảnh sắc thiên nhiên:
+ chiều sương ấy: màn sương mờ ảo, mang đậm màu sắc huyền thoại, cổ tích
+ hồn lau: cây lau phất phơ như có hồn
→ thiên nhiên đẹp, huyền ảo, hoang dại, thiêng liêng.
– with người:
+ dáng người trên độc mộc: dáng điệu mềm mại, uyển chuyển mà hiên ngang, khỏe mạnh
⇒ bằng bút pháp lãng mạn, quang dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, cuộc sống sinh hoạt ầm ấm và hình ảnh with người dánng cṧ.
4. chân dung người lính tây tiến
– ngoại hình: “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, “mắt trừng gửi mộng”. hình ảnh người linh tây tiến ược miêu tả chân thực, vừa thể hi hi hi hện thực khốc liệt, gian khổ của cuộc chiến tranh vừa thển neither nor tự hề nd v ẻ ẻ đ đ ẻ ẻ ẻ ẻ
– tâm hồn:
+ hào hoa, lãng mạn – net đặc trưng của những chàng trai hà thành: “mắt trừng gửi mộng qua biên giới/Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
+ Ý chí: sẵn sàng hiến dâng cả sựu sống, tuổi trẻ cho tổ quốc “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
→ lí tưởng xả thân vì đất nước của thế hệ trẻ sau cách mạng tháng tám
– sự hi sinh:
+ hình ảnh thơ: “biên cương”, “mồ viễn xứ”, “áo bào”, “về đất”. “khúc độc hành”
+ nghệ thuật: sử dụng từ hán việt, nghệ thuật nói giảm nói tránh
→ người lính xem cái chết, sự hi sinh rất nhẹ nhàng, thanh thản, với họ cái chết ko phải là sự ra đi mk là sự trở về vơu mṰi Ṻ y>
⇒ vẻ đẹp bi trang của những người lính
5. lời thề gắn bó với tây tiến và miền tây
– mùa xuân ấy: thời điểm lịch sử khó khăn, gian khổ mà lãng mạn, hào hùng
– hồn về sầm nứa, chẳng về xuôi: lời thề của người lính tây tiến vẫn gắn bó máu thịt với đoàn quân tây tiến và t miyân
– khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
+ nội dung: hình ảnh người lính tây tiến bi tráng, lãng mạn trên nền thiên nhiên miền tây vừa dữ dội, hiểm nguy, vỬ mûn thƙp
+ nghệ thuật: sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực, cách sử dụng ngôn ngữu, hình ảnh thơ độc đáo…
– liên hệ, mở rộng với hình ảnh người lính trong các bài thơ Đồng chí (chính hữu), bài thơ về tiểu đội xe không kính (phạm tiết)n du
phân tích bài thơ tây tiến đầy đủ nhất
phân tích tây tiến – mẫu 1
“có một không gian nào, Đo chiều dài nỗi nhớ? có khoảng mênh mông nào sâu thẳm hơn tình thương?”
(trần Đình chính)
thơ ca việt nam hiện đại có cả một khoảng trời dành cho nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ thương mà hoàng cầm đã gửi lại mảnh ất của mình trong bài thơ “bên kia sông đuống”, là nỗi nhớng của người with xa quena b. Đôi khi khi đ chỉ dám gửi cho người bên này trong bài thơ “hương thầm thanh nhàn cthà. và quang dũng – người nghệ sĩ đa tài cũng không phải là một ngoại lệ khi ặt tình cảm của mình nơi những người ồng chí, ồng ội qua bài thơ “tip âng ồng chí, ồng ội qua bàn thơ”
nói về quang dũng là ta nhớ ngay đến tác phẩm thơ đặc sắc viết về đề tài người lính của ông – tây tiến. có lẽ do nó đã gắn bó một thời sâu sắc với nhà thơ. Tây tiến là một ơn vị quân ội ược thành lập năm 1947, với nhiệm vụ pHối hợp với lào, bảo vệ biên giớt – lào, đánh tiêu hao without , Tây tiến giải thể, thành lập trung đoàn 52, quang dũng cũng chuyển blood ơ “trong nỗi nhớ về ơn vị cũ của mình, ông sáng tac thành Gian Sau, Khi in Lại Trong Trong Tập “Mây ầu ô” ông đã bỏ từ “nhớ” trong tiêu ề vì suốt cả bài thơ là mạch dòng cảm xúc của nỗi nhớ, một nỗi nhớ da diết, cồn cồ từ “tây tiến” cũng ủ ể ể ể ể ể ểi lên cảm h ha đ đ đng ạo. là nỗi nhớ.
bài thơ bắt đầu bằng những câu thơ mang âm điệu trầm, buồn và sâu lắng. Ẩn sâu trong đó là nỗi nhớ về thiên nhiên no rừng tây bắc, nỗi nhớ về with ường hành quân hùng vĩ, dữi nhưhm cũhm rất ỗi thơ mộng, trữnh củt thi th! nỗi nhớ ấy thể hiện qua hai câu đầu của nhà thơ được thốt lên thành tiếng gọi:
“sông mã xa rồi tây tiến ơi! nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
mở đầu bài thơ, tác giả đã đề cập đến hình ảnh song mã. và ta cũng thấy rằng, sông mã xuất hiện ở đầu tác phẩm và gần cuối tác phẩm, đây chính là nghệ thuật đầu cuối tương ứng, bắt mạch vòng với nhau để thể hiện một điều rằng sông mã gắn liền với suốt đoạn đường hành quân của người lính tây tiến từ vùng địa bàn này sang vùng địa bàn khác. MặT KHAC, with Sông me ấy còn ược nâng tầm ể ể trở thành một chứng nhân lịch sử ghi lại tội ác tày trời của kẻ thù và những chiến công vẻ vag của người người tây tây tây tây tây tây tây như nhà thơ phan quế đã nhận xét: “câu thơ như một tuyết but thiên nhiên về song mã. tôi chưa đọc câu thơ nào viết về song mã hay hơn thế. Âm vang của câu thơ là khí tiết của with song chiến trận, quả cảm và dũng mãnh trong độc khúc binh lửa của mình mà tạo nên chất hiệtp s”. “tây tiến” không chỉ để gọi tên đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành một người bạn “tri âm, tri kỷ” để nhà thà thà cói thể b. câu thơ cảm that kết hợp với điệp từ “nhớ” diễn tả nỗi nhớ quay quay, cồn cào đang ùa vào trong tâm trí quang dũng, khiến choc ươnd ươnd ươnd ươnd ươ ươnh nh nh ư một. không nguôi. nỗi nhớ ấy đâu chỉ riêng về dòng sông mã, mà đó còn là nỗi nhớ về trung đgàn tây t đn đã cùng nhà thơ ỗi mọi khó khĂn gian khổ ° ° à à à à à à à à à à à à à à à à nhớ về thiên nhiên noui rừng tây bắc hùng vĩ, hiểm trở vừa thơ mộng vừa trữ tình ặc biệt là cach nói “nhớ chơi vơi” đã khắc họa nên cai hồn của của của thơ. thơ ca việt nam khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả. ca dao có câu:
“nhớ ai bổi hổi bồi hồi như đứng đống lửa, như ngồi đống that”
cach nói “xa rồi” lại càng tạo thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, tiếc nuối về một thời đ— về những khoảng gian, những khỷ ẹ đm, ẹt ẹ ẹt ẹ ẹt ẹ ẹt ẹt ẹ ẹt ẹt ẹ ẹt. bao giờ pier trở lại nữa. “chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không rộng lớn, không thể bấu víu vào đâu cả. “nhớ chơi vơi” ta có thể hiểu là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, không đầu, không cuối, không có thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bâng khuâng làm cho with người có cảm giác đứng ngồi chẳng yên. vần “ơi!” kết hợp với từ “chơi vơi” đó là tiếng gọi tha thiết về đoàn binh tây tiến, diễn tả một nỗi nhớ sâu lắng, mang, chao chao giữa hai bờ hư hì hì nh ể ể ể ể ể ể ể , ki. , lúc chìm khuất trong hư ảo, chơi vơi. nó còn vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ – nỗi nhớ thấm vào cảnh vật, thấm vào không gian, thấm cả vào thế giới honh mữ mữ mện. quang dũng đã liệt kê hàng loạt các ịa danh như: sài khao, mường whit ịng ịng ịng ịng ịng ịng ừng ừng ừng. ấy đã in đậm dấu chân của đoàn binh tây tiến. càng nhiều địa danh hiện lên thì nỗi nhớ thương lại càng da diết, mà càng da diết thì lại tạo cảm giác xa xôi, hoang vu, bí ẩn.
trước hết là miền tây bắc hiện lên bởi with đường hành quân gian nan, vất vả. tuy thời tiết sương mù lạnh lẽo, khắc nghiệt nhưng cũng thật trữ tình:
“sài khao sương lấp đoàn quân mỏi mường lát hoa về trong đêm hơi”
nói đến tây bắc là nói đến vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt. Ấn tượng đầu tiên về thiên nhiên nơi đây chắc chắn phải là sương. trên đỉnh sài khao, sương dày đến độ che lấp luôn cả đoàn quân tây tiến đang ngày đêm vượt núi, băng song khiến họh n khôn mha. Động từ “lấp” làm ta như có cảm giác chính sương đã khiến cho đoàn quân khó khăn thêm phần khó khăn hơn, bị trĩu xuống mệt mỏi. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần họ không hề có chút sự mỏi mệt, nản lòng nào, bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã làm choư c họn. quang dũng thật tài tình khi dùng hình ảnh sương để khắc họa sự khắc nghiệt của thiên nhiên vùng tây bắc. cũng miêu tả sương, chế lan viên đã viết trong “tiếng hát with tàu”:
“nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương khi ta ở, chỉ là nơi ất ở khi ta đi, ất đẻan húan”
nhưng cũng thật bất ngờ, trong cái gian truân hồn người lính. NHưNG ta cũng có thể hiểu “hoa” ở đây chynh là những người lynh tây tiến trở về, bởi Bác hồ đã từng nói: “With người ta là hoa ất, with người ta là ẹp nhất”, mặt. một hình ảnh ẩn dụ chỉ những bó đuốc bình thường đang chập chờn, linh pulmón, huyền ảo mà người lynh cầm trên tay ểể soi ường chỉ lối trong những đng đm dà ành ể ể ể ường chỉ lối trong những đng đm dà ành ể ể ể ường chỉ lối trong những đng đm dà ành ể ể. cái hay của nhà thơ là không nói hoa nở mà nói “hoa về”, không nói đêm sương mà nói “đêm hơi”. cách dùng từ ngữ đã chứng tỏ được vẻ đẹp trong tâm hồn của những anh bộ đội cụ hồ là một tâm hồn lãng mạn, hào
ngoài sự giá lạnh của sương thì dốc và đèo là những thứ không thể bỏ qua khi nhắc về thiên nhiên miền tây bắc. quang dũng tả cảnh vượt dốc, băng đèo, ường đi nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm, tuy hùng vĩ dữ dội nhưng cũng rất th,ơ mềp
“dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm heo hút cồn mây súng người trời ngàn thước lên cao ngàn thước xuống nhà ai pha luông mưa xa”>
tác giả sử dụng điệp từ “dốc” nhằm nhấn mạnh độ cao mà người lính phải trải qua. Với Hàng loạt những từ lay tượng hình toàn vần trắc như: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” diễn tả một cach ắc ịa sựmmm trở cừng, đang rình rập. “khúc khuỷu” ý chỉ đường đi hiểm trở, nhiều gấp khúc. “thăm thẳm” là từ chỉ độ sâu nhưng tác giả lại dùng để chỉ độ cao, cao đến rợn người. Quang dũng đã Khéo Léo Khi Không sửng từ “Chót vot”, bởi như Thì người ọccc có thể cảm nhận và thấy ược bề sâu của nó nhưng “thì thì thì khon cể sâ s ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ ượ.. dốc khú khuỷu, nhìn tátn tátn xuối bi bi bomc các sH pHải trải nghiệm, phải hành quân đi lên những ngọn num, with dốc ầy nguy hiểm ấy. Các anh đang Phải Treo Mình Trên Những Triền Number . .“cồn mây heo hút” thể hiện sự vắng vẻ, k hông có bóng người. quang dũng đã viết “sung ngửi trời” chứ không phải là “sung chạm trời”, bởi “chạm” there của chiến binh dũng cảm, họ đang chiếm lĩnh tầm cao của thiên nhiên, chinh phục nơi mà ít người lui tới. khi người lính tây tiến hành quân qua các đỉnh núi, mũi súng của các anh dường như đã chạm đến đỉnh của bầu trời, khoảng cách được thu hẹp đến mức ngắn nhất giữa súng và trời, đó là hiện thực nhưng qua cách nói này làm tôn thêm vẻ ẹp khí phach của người linh tây tiến, ồng thời đy cũng là những giây phút đùa vui, tếu táo, cc nét tinhịchịcườiộiồng ớng ớng đng đng đng đng đ quang dũng sửng pHép ối ở câu thơ thứ ba, ối “lên cao” với “thước xuống”, dấu phẩy đã bẻ gãy nhịp câu thơ một cach ột ngột tạo thành hai vế ế ế ế ế thế núi bây giờ cao và nguy hiểm đến khủng khiếp, dốc lên cao rồi lại đổ xuống ngay lập tức gần như thẳng đứng, nhìn lên thì cao vút, ngó xuống thì sâu thăm thẳm, khoảng cách giữa đỉnh dốc và mặt đất như xa “ngàn thước’ vạn dặm. dẫu vậy, những người lính vẫn âm thầm tiến lên phía trước, ứng trên ộ cao ấy, phÓng mắt nhìn ra xa ể rồt vỡ òa vui sưới”. trong làn mưa giăng giăng của núi rừng tây bắc thì những ngôi nhà ẩn hiện, cứ bồng bềnh giữa biển khơi của mưa và sương đọi. nhìn từ góc độ hội họa thì nó như một bức tranh thủy mặc có những cái tả sắc net nhưng cũng có những khoảng trỷng. “nhà ai” là những mái nhà, bản làng của người vùng cao, các anh luôn luôn được đón tiếp nồng hậu và đây cũng là địa điểm chângh. vẻ đẹp này ta cũng từng bắt gặp trong bài “bao giờ trở lại” của hoàng trung thông:
“Các anh về mái ấm nhà vui tiếng hat câu cười rộn ràng xó nhỏ các ske ân ân ân ân ‘ p>
Đó là cảm giác bình yên của người lính khi được nhìn thấy những mái nhà của đồng bào miền cao. và vui hơn nữa khi các anh được đón tiếp bằng tình cảm quân dân nồng ấm.
bốn câu thơ này ược pHối hợp với nhau rất ặc biệt, sau ba câu thơ ược vẽng bằng nét gân guốc thì câu thơ tư lại ược vẽc vẽng một nít r rấm mạm mạm mạm mạm. không phải ngẫu nhiên mà tài năng hội họa của quang dũng lại được mọi người yêu mến đến vậy. bởi quy luật sửng những gam màu trong hội họa là giữa những gam màu nóg phải pha phat gam màu lạnh ể tạo sự hài hòa cho bức tranh, thì ở đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ đ thanh bằng-trắc. Không chỉ là tranh mà những hình ảnh ấy còn là nhạc, sau những nốt lên cao lại là nốt trầm thấp, bởi vậy nói như xuân diệu: “ọc tây tiến, người thật tinh tế.
tuy trên chặng đường hành quân, các anh gặp vô vàn khó khăn, gian nan đến tột bậc nhưng ta vẫn thấy ở các anh có sự can trậờt b t. Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. uy lực của thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. quang dũng cũng nói đến sự hi sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng khó khăn:
“¡anh bạn dãi dầu không bước nữa gục lên súng mũ bỏ quên đời!”
“tây tiến” đã từng có một thời gian không ược ưa vào chương trình giảng dạy bởi tác phẩm đã ềp ến ề tài nhếy cảm ving trong. sự hi sinh. chúng ta biết rằng, văn chương muốn thuyết phục lòng người thì trước hết phải chân thật. dù là viết về chiến tranh nhưng quang dũng không nề hà, né tránh sự thật đau thương. vì vậy mà “tây tiến” được một lần nữa đưa vào chương trình giảng dạy như một kiệt tác văn chương. hai tiếng “anh bạn” cất lên như một tiếng nấc nghẹn ngào. sức nặng của câu thơ đã dồn vào từ láy “dãi dầu” thể hiện vất vả, khó khăn trên chặng đường hành quân. Ặc biệt thay, tác giả không viết “bị gục xuống” mà ông lại viết là “không bước nữa”, biến các anh từ thế ộng sang sang sang sang, hcáp n. ma thoi. “Súng mũ” là biểu tượng của người linh, cho thấy rằng dù có ra đi, các shẫn không quên mình vẫn là một người lính, dù cóc gục cũng phng phng phng “gục lên” ầ . hình ảnh về người lính anh dũng hy sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong “dáng đứng việt nam”:
“và anh chết trong khi đang đứng bắn máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng”
dáng của các anh bộ ội cụ hồ dù có gục xuống nhưng vẫn không mờ trong tâm của quang dũng, của đoàn quây tây tiến và của cả những kháng tá . Họ đã Hy Sinh Trên Chặng ường Hành Quân, đã Co NHữNG NGườI LINH NằM XUốNG, Ràng Súng đã Nổ, Người Dân Việt Nam Cũng ổ Máu, Chiến Tranh Không đó Là đ người lính ra đi nhưng đồng đội anh lại tiếp bước. “bỏ quên đời” là cách nói giảm nhẹ sự mất mát, tang thương. khi người lính từ trần, cái chết bây giờ trở nên không đáng kể. cách nói giảm phần thê lương mà tăng thêm cái tính chất cao cả, sự hy sinh thầm lặng của những người lính tây tiến. thông qua lăng kính lãng mạn của tác giả thì sự hi sinh ấy hiện về chỉ như giấc ngủ của người lính. Ông thật tài tình khi miêu tả cái chết của người lính nhẹ tựa lông hồng. nhưng dù thế nào vẫn không thể diễn tả hết được sự xót xa, thương tiếc, vì thế tác giả đành ngậm ngùi ģặt chdm cu “! cuối câu như một nén nhang tâm tình gửi lại.
khó khăn chưa dừng lại ở đó, đất tây bắc đâu chỉ có đèo cao dốc thẳm hay mưa ngàn suối lũ mà còn biết bao thử hó khăn thách. chặng đường hành quân của các anh qua núi rừng tây bắc đầy hoang dại, bí ẩn, dường như là để thử thách bước chân cờplín>
“chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”
quang dũng đã chọn ra hai mốc thời gian là “chiều chiều” và “đêm đêm”, đây là thời điểm bộc lộ rõ nhất sự nguy hiểm của chốn rừng hoàn, tuần hoàn, mỗi ngày các anh đều phải đối diện với những khó khăn, hiểm nguy như thế. các anh phải thường xuyên hành quân qua những mảnh ất rừng thiêng nước ộc cho nên bị ám ảnh trong tâm hồn là tiếng thác nước gẙt díth . Ở nơi xa xôi, thiên nhiên làm chủ thì khó khăn như tăng thêm bội phần. “Mường hịch” với sức nặng dồn vào từ “hịch” thển bước chân nặng trịch có bong cọp vờn người, cọp Ăn thịt người, cọp xé xác người, cọp giết người. nhưng nhìn nhận quan bản lĩnh của người lynh thì bóng nổ ấy chỉ ơn thuần là trò đùa trẻ with, điều này ược thể thuần là trò đùa trẻ “although”
và ở những câu thơ này, tac giả mô tả rất chân thực, dù chung ta không sống ở thời kỳ này, chung ta vẫn chưa từng ặt chân lên non non miền tây, chưa nhập . nhưng đọc tác phẩm ta thấu hiểu được gian lao mà người lính trải qua. Để khép lại khổ một, nhà thơ đã kết thúc bằng hai câu thơ đầy cảm xúc thương nhớ, nỗi nhớ ấy phả vào bản thàp t
“nhớ ôi tây tiến cơm lên khói mai châu mùa em thơm nếp xôi”
lần thứ hai trong bài thơ, tac giả gọi tên ơn vị tây tiến, phải chăng ông nhớ qua những gian khổ, kỉ niệm gắn bó với các ồng ội mới thốt lên “nhớ ôi tây tiến” như vậy. sau chặng đường hành quân vất vả, mệt mỏi các chiến sĩ có dịp dịp dừng chân dựng trại ở một bản làng có tên rất thỡu-thi. Ở đây các thiếu nữ dân tộc trẻ trung xinh xắn mang cơm nếp thơm lên cho các anh, c các các anh quayn ngồi bên nồi xôi nếp khiến bao bao nhiêtả vkhả,. Đây là khung cảnh đậm đà tình quân dân, chiến tranh lùi dần vào trong một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt vui t. sau thời gian dài hành quân vất vả giữa núi rừng phải chịu đói, chịu khát. nay các anh được đồng bào mai châu đón tiếp bằng “cơm lên khói” cùng mùi hương “thơm nếp xôi” thật là ấm lòng. quang dũng đã dùng từ “mùa em” thể hi sự gần gũi, thân thương và nó gắn bó như “tình em”, các s cước. cũng nói về hương nếp, hương xôi và tình cảm quân dân, chế lan viên đã viết trong bài “tiếng hát with tàu”:
“ vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Đất tây bắc tháng ngày không có lịch bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
nhớ mùi hương thơm của lúa gạo là nhớ hương vị núi rừng tây bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của ồng bồng bàe tây.
mười bốn câu đầu của bài thơ “tây tiến” một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong những năm tháng kháng chiến cháp. bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật là hình ảnh chiến sĩ đầy bản lĩnh và lạquan, đang dấn thân vào máu lửa. nửa thế hệ trôi qua, bài thơ vẫn giữ được trị của mình. như bốn câu thơ của giang nam:
“tây tiến biên cương mờ khói lửa quân đi lớp lớp động cây rừng và bài thơ ấy, with người ấy vẫn sống muôn đời vớs”
cảnh núi rừng hoang vu, chênh vênh, hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn, nhường bước cho một thế giới hoàn toàn khácẻc túcẻ cẻ cẻc. những net vẽ mềm mại, uyển chuyển, tinh tế dưới ngòi bút tài hoa của quang dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạthn thn. Đó là nỗi nhớ về những đêm giao lưu văn hóa văn nghệ và vẻ đẹp huyền hồ của thiên nhiên miền tây bắc. mở đầu phần hai là sự tiếp nối cái hương vị “thơm nếp xôi” ấy. “hội đuốc hoa” đã trở thành kỉ niệm đẹp trong lòng nhà thơ, trở thành hành trang trong tâm hồn của các chiến binh tây tiến. trên with đường hành quân gian khổ, các anh dừng chân dựng trại và được sự tiếp đón nồng hậu, thân tình của người dân. Ối với quang dũng cũng như những người lính, không khí tươi vui của đêm liên hoan văn văn nghệ ậm tình quân dân với Ánh lửa sáng bừng lu àn làng.
“doanh trại bừng lên hội đuốc hoa kìa em xiêm áo tự bao giờ khèn lên man điệu nàng e ấp nhạc về viên chăn xây hồn thơ”
Đêm liên hoan văn nghệ được tổ chức ngay ở doanh trại bộ đội, đây là hiện thực. Không Gian ở Bốn Câu Thơ Không Còn Rộng Lớn NHư đoạn Thơ ầu, Mà Không Gian Giờ đy ượC Thu Hẹp Lại Thành “Doanh Trại” – Một Không Bian Bienh Yh ượi ười. Ở đây, những người lính không phải gồng mình lên để chiến thến thắng những khó khăn, vất vả mà tâm hồn hồth thực sự đth gi. hai từ “bừng lên” trong câu thơ như điểm thêm phần tưng bừng náo nhiệt, ấm áp, rực rỡ, ngập tràn ánh sáng. “bừng” chỉ ánh sáng của đuốc hoa, của lửa trại sáng bừng, “bừng” cũng có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười tưng rừng rừng rừng. Ở đây, quang dũng đã có cách ví von đầy nghệ thuật trong hai từ “đuốc hoa”. “Đuốc hoa” trong hán việt có nghĩa là nến hoa chúc – một biểu tượng hạnh phúc của các đôi uyên ương, là từ ượ ược dùng trong văn chỳc họ: NHưNG thật ra, “đuốc hoa” ở đây chỉ là những bó đuốc bình thường trong những đêm giao lưu vă nghệ của người linh tây tiến, khi con lăng kíh lãng lãng mạn của tác gi đ tưởng đến lễ cưới. “kìa em” là sự ngắm nghía, đồng thời là lời thốt lên bất ngờ vì vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa của các cô gái miền cao. Đằng sau từ “kìa” là thấy cả ánh mắt, nụ cười hết sức yêu đời, tình nghịch, phong độ và tài hoa của ngườy lính tâ. “Xiêm áo” Chynh là những bộ trag phục ẹp của người with gai miền cao, nhưng ta cóc có hiểu đy là hình ảnh vông vui tươi, tinh ngh của người Lead lead lead lead lead lead ữ c. vui đùa, nhảy múa xung quanh ngọn lửa trại. từ xa xưa, những chiếc khèn bè đã ược dùng làm nhạc ệm trong hầu hết các làn điệu dân ca, làm nền cho những điệu dân vũ, điệu múng. hay tiếng khèn dùng để gọi bạn tình đêm khuya của những chàng trai cô gái lào khi yêu nhau. tiếng khèn bè trầm bổng, sâu lắng, dồn dập, rộn ràng, náo nức cả không gian yên ắng. khi tiếng khèn cất lên làm người nghe thấy da diết, sâu lắng, ngân nga trong sáng như tiếng suối reo, gió hát, hiện n vẻ hoang sơ, hùng vĩ của núi t. bởi thế, quang dũng đã không khỏi say sưa và quyện vào tiếng nhạc du dương của khèn, vừa lạ vừa mang tinh sơ khai mà ậm đà n hęc sn v từ “man điệu” , người đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ củuÂc. trong những đêm sinh hoạt ấy có trang phục đẹp, có cả âm nhạc, có những điệu múa, điệu nhảy vui tươi và không khí ở đỪày khí khí. Điều đó được chứng tỏ khi ban đầu ông dùng từ “em” sau ông lại chuyển sang dùng từ “nàng”. từ cách sử dụng ấy, ta cảm nhận em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc cõi thần tiên với một không khí say mê đty ngn. những thiếu nữ mường, thái xinh ẹp, duyên dáng “e ấp” xuất hiện trong bộ xiêm Áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn “man điệu” trẻ. Địa danh viêng chăn không phải là địa danh của việt nam, mà đó là thủ đô của lào. ta nhận thấy được sự đặc biệt trong địa bàn hoạt động của người lính tây tiến. họ không chỉ chiến đấu trên nước ta, mà còn cầm súng trên đất bạn lào. “nhạc về” tạo nên độ phiêu du phiêu lãng khiến tâm hồn người lính trở nên thăng hoa. mọi cảm giác mệt mỏi đều tan biến, thay vào đó là lòng yêu đời, yêu cuộc sống. chính những phút giây ấy đã nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên with đường hành quân phía trước.
ở đoạn thơ này, tac giả đã làm xuất hi một thế giới khác của tây bắc, thiên nhiên giờ đây không còn khốc liệt, dội nó hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi hi ngòi bút của quang dũng có sự thay đổi, bên cạnh net vẽ mạnh mẽ, khỏe khoắn thì vẫn có những đường net mềm mạn, uyỿt. tất cả làm cho bức tranh thiên nhiên và with người miền tây hiện lên rất rõ.
so với bốn câu thơ trên là hình ảnh không khí đêm lễ hội tưng bừng hòa hợp với ánh sáng lung linh và tâm hồn trẻ thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia thia THIA THIA THIA THIA THIA THIA THIA THIA THIA THIA THIA THIA THIA THIA THIAS đà ưA NGườI ọC ếN VớI HìnH ảNH CủA WITH NGườI Và NUMB một không gian bảng làng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. thiên nhiên tây bắc hiện lên theo chiều hướng thị hóa. cái dữ dội, khốc liệt được đẩy lùi thay vào đó là những hình ảnh nhẹ nhàng và thơ mộng:
“người đi châu mộc chiều sương ấy có thấy hồn lau nẻo bến bờ có nhớ dáng người trên độc mộc trôi dòng nướa lİ>
“người đi” chắc hẳn là người lính tây tiến. ngòi but quang dũng không tả mà chỉ gợi. hình ảnh đầu tiên là hình ảnh của một “chiều sương” cho ta thấy net đặc trưng vốn có của núi rừng nơi đây. NHưNG sương lúc này không phải là sương lấp, sương che there are sương phủ, mà chỉ là những làn sương bình ththng mở ảo, nó gợi màu sắc bảng, khói sương và clet. Ịa danh duy nhất trong khổ hai chynh là châu mộc, bởi ở đy có cảnh sắc thiên nhiên rất ẹp, nơi đy có nú sông diệu lệ, có lunga lũn có. cn. chy chy cachn. mở ra ở đó là một không gian buổi chiều ược giăng mắt lên là mùa của sương khói hiện ra như một miền cổ tính vì vậy mà châu mộc choi cero à. Ại từ “ấy” làm rõ nghĩa hơn cho từ chiều sương, nhấn mạnh rằng đy là một buổi chiều rất ặc biệt, chiều sương nỗi nhớ đ đ đ ành kỷm nên tình ng. chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy” ở câu thơ sau, một vần lưng thân tình, âm điệu câu thơ như bị trĩu xuống nhưn mụnt. Nữ Thi sĩ xưa nhớ kinh thành thăng long là nhớ “hồn thu thảo”, nay quang dũng nhớ về “hồn lau”, nhớ về cai xào xạc của gió, nhớ những cờ lau trắng trời, những bờ, hiện ra như những đôi bờ tiền sử. trong văn chương nguyễn tuân thì cảnh vật không hề vô tri vô giác, bởi đó là nghệ thuật nhân hóa “hồn lau”. nỗi buồn, tâm trạng của người đi dường như cũng khuếch tán vào cảnh vật, những bông lau sậy chập chờn đi bờ cũng có hồn của nhà thơ, ta nhớ thơ thơ thơ lan vi/p.
“ai lên biên giới cho lòng ta theo với thăm ngàn lau trắng chỉ có một mình bạt ngàn trắng ở tận cùng bờ cõi suốgiat một đời gió vớ/i”</giap
những hình ảnh “chiều sương ấy”, “hồn lau”, “bến bờ” và “hoa đong ưa ưa” Kết hợp với cach hỏi “có thy, co nhớ” mở ra một khung cảnh buổi chiều sươu sươu sươu sươc. sương mờ giăng khắp không gian, bến bờ lặng lẽ hoang dại như một bờ tiền sử, trên sông xuất hiện một dáng người mềm mại, uyển chuyển nhưng cũng hết sức vững chãi của người đi trên thuyền độc mộc, những bông hoa rừng đong đưa làm duyên trong dòng nước. Điệp ngữ “có thấy-có nhớ” luyến láy như chạm khắc vào nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. Ộc mộc là một loại thuyền ược làm từ cây gỗn dài, dáng ng người trên chiếc thuyền ộc mộc ấy có tình ảnh mềm mại, uyển chuyểnếng đng đng đng đng. nhưng ta cũng có thể xem đây là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ tây tiến đang chèo chống con thuyền vượt thác dữ tiến vỰƻc. tất cả những hình ảnh ấy đều để lại trong lòng quang dũng một cách khó phai nhòa. cảnh và người hòa quyện đồng điệu. ai nói rằng đất tây bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy để tâm hồn mình lắng lại để chất thơ tây bắc v ng. câu thơ cuối ược tac giả dùng từ rất tinh tế, ông đã dùng từ lay hoa “đong ưa” chứ không pHải là “đung ưa” there are “đu ưa”, bởi nết “ho Hong. chuyển ộng về cơ học khô khan, còn “hoa đong ưa” thì lại có hồn người, thể hển sự chuyển ộng duyên dáng, tìnhh tứnghnghnghng thnhh thng thnh thing thing thing thing đ thing thing đ thing thing ứ thing thing thing thing đ thing ứH THNG THING THING ứH THNG THING ứH THNG THING THING ứ THING ứH THNG THING THING ứ THING THING ứ THING THING THING THING THING THING. Chành. Canh Hoa rừng như cũng quyến luyến with người, canh hoa ấy như bàn tay vẫy chào người linh, tiễn các s tích và huyền thoại. qua những nét vẽ hư ảo trên, ta thấy như trước mắt mình một bức tranh sơn thy hữu tình mang dấu ấn của một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế tế tế and vêng and vêng mảng m mản m mản m mản m mản m mản m m ớng mản m m ớng mản m m ớng m ớng mản m mản m ớng m mản m ớng m. miền tây trong tâm hồn quang dũng. Đồng thời ta cũng cảm nhận được tâm hồn rung động của các chiến sĩ tây tiến trước cái đẹp.
tám câu thơ đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, with người miền tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. chất nhạc, chất họa, chất mơ mộng hòa quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp. từng net vẽ của tác giả đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của quang dũng trong bài tổng thể bài thơ.
giữa thiên nhiên tây bắc hùng vĩ, dữi nhưng cũng ầy thơ mộng trữ tình là hình ảnh người lynh tây tiến với những gian khổ thhế thố ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ ơ nếu như những đoạn thơ ầu, hình ảnh đoàn mới hiện lên qua nét vẽ gián tiếp, nói ến gian khổ, hy sinh và ịa bàn hoạt ộng ì đ đ đ đ đ đ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ ẽ guốc, rạch ròi. Đã trở thành khuôn sáo khi đề cập đến sự can trường của các chiến binh:
“tây tiến đoàn binh không mọc tóc quân xanh màu lá dữ oai hùm”
đó là bức tượng đài Bi Tráng về những chàng trai xuất thân từ thủ đô hoa lệ, họ s àn sàng ra đi với lý tưởng sống cao ẹp “quyết tử cho tổc quyết Sinh”. hai câu thơ trên nói về ngoại hình của người lính tây tiến, mang vẻ đẹp ở đây là viết về cái ốm nhưng không hề yếu. nhà thơ miêu tả, khắc tạc cảt tập thể của mình, những with người anh hùng ược tac giả gọi bằng cai tên khá vị – “đoàn binh không mọc tóc”, đào binh sự mạnh mẽ lạ thường, gợi âm vang khỏe khoắn, khẳng ịnh một lực lượng đông ảo, hừng hực khÍ thế. nhà thơ phạm tiến duật cũng đã từng gọi tiểu ội của mình bằng cái tên bắt nguồn từ hiện thực khắc nghiệt – ” tiểu ội xe không kín”, /p>
nhưng trước hết, đây là những câu thơ tả thực, thực một cach trần trụi: chiến sĩ tây tiến hồi ấy hoạt ộng ở những vùng vùng no hiểm Trởng n. , có những with suối khiến họ rửa chân rụng lông, gội đầu rụng tóc. Câu thơ cũng mang ến một nét nGhĩa nữa là người linh tây tiến họ tự cạo trọc ầu trở thành những anh . và nhà thơ còn ề cập ến một căn bệnh đã ám ảnh vào cả một thời kì trong văn chương của thời kì kháng chiến chống pháp, cict một căn bệnh nguy hiểm đã hoành hành dữ dội khiến cho người chiến sĩ chết đường chết bệnh còn nhiều hơn là chết trết. thơ ca kHáng chiến đã từng ghi lại những hình ảnh thật cảm ộng về sự tụu tụy của người chiến sĩ vì sự nguy hi hi hi mi của căa bệnh này, không chiế à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à à. của chính hữu cũng có nhắc đến:
“anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
quang dũng thật tinh tế khi viết “không mọc tóc” chứ không phải là “tóc không mọc”, bởi “không mọc tóc” ược ông sắp xếp từ ngữ ể chỉ chỉ chỉ chỉ chỉ chỉ chỉ chỉ chỉ ng. trên sự khốc liệt của cuộc chiến ở người lynh nhưng có net hó hỉnh, đùa vui là không cần mọc tóc, nhìn qua lăng kính lãng mạn củn. từ đó ta thấy rằng, hiện lên trong trang thơ của quang dũng đó là vẻ đẹp của những anh vệ trọc đáng yêu, tuy ốm nhƺng chẳng hẳ>
trong thực tế, “xanh màu lá” chính là màu xanh của làn da đang bị ốm, làn da xanh xao, vàng vọt, bủng beo. Điều này ta có thể thấy sự tương đồng trong bài “cá nước” của nhà thơ tố hữu:
“giọt giọt mồ hôi rơi trên má anh vàng nghệ anh vệ quốc quân ơi sao mà yêu anh thế”
hay trong thơ của thôi hữu cũng có nhắc:
“khuôn mặt đã lên màu bệnh tật Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”
Đâu chỉ riêng những người lính trong thơ quang dũng mới bị mắc bệnh, mới phải chết vì căn bệnh ác liệt này. thế nhưng một lần nữa thông qua lăng kínnh lãng mạn của quang dũng, màu xanh ấy không còn là màu của làn da đang bị ốm nữa mà nó thành màu xan xan xan xan xan xan xan x t.ath tath tamyh tamyh tamt tamt tamt tamta tata tata tata tata tata tata tata tata tata cam. non, xanh lũy tre làng. quang dũng đã dùng từ “dữ oai hùm” một cach rất sáng tạo, tạo nên âm hưởng mạnh mẽ châ câu thơ khiến người ọc cảm nhận ược sức đ đ đ đ đ đ đ đ. hình ảnh người lính tây tiến trong tư thế làm chủ thiên nhiên, làm chủ ất trời tây bắc, ạp ổ mọi gian khổ, khó khĂn ể tiến về pHía trước, họ xanh rộng lớn. câu thơ thứ hai tạo ra hai vế ối lập giữa “quân xanh màu lá” với “dữ oai hùm”, một bên là cái thiếu thốn, khó khă gian khổ, một bên hùg khí phá. ba tiếng “dữ oai hùm” tạo nên một âm hưởng mạnh mẽ, hùng trang ch go câu thơ, người ọc cảm nhận ược khí thí của đoàn quân ra trận, câu thơ ng nhịp mạnh ậm. như vũ quần phương nhận xét: “quân xanh màu lá, màu áo hay màu da? chắc cả hai! chỗ này tả lính rất khéo, nói được lính ôm mà không yếu, có tóc rụng, có da xanh, nhưng ấn tượng lưu lại là dữ oai hùm”. mười bốn chữ thơ mà chạm khắc vào lịch sử hình ảnh một đoàn quân phi thường, độc đáo, có một không hai trong cuộc ơni c th ca trong. Đoàn quân của một thuở “xếp but nghiên lên đường chinh chiến”.
dưới ngòi Bút lãng mạn của quang dũng, các chiến sĩ không còn là nạn nhân mà trở nên thật chủng, ngạo nghễ: không mọc tóc, da xanh xao là ể ể ể ể ể ể ể ể ể vũ quần phương có nhận xét: quang dũng miêu tả lính tây tiến ốm mà không hề yếu. Ầu không mọc tóc không pHải là hình ảnh gây cười there are nói chính xác hơn là cười mà xót xa, không cầm ược nước mắt, bởi răng tóc làc là gốc with người, ai cũng. từ biệt hà thành ra đi chiến đấu khi màu tóc còn xanh, da còn hồng hào.
khó khăn gian khổ là thế, nhưng các chiến binh tây tiến vẫn không nguôi đi những tình cảm lãng mạn. nếu hai câu thơ trên như net khắc, net chạm vào không gian của tác giả ể ểo nên bức tượng đài với ngoại hình ốm ẹng n. và tâm hồn chính là sức mạnh nội tâm, là khí phách của những người lính tây tiến. dù cuộc sống có vất vả thiếu thốn nhưng không vì thế mà từ bỏ lý tưởng “mộng chinh phu, mộng giai nhân”:
“mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
cùng một lúc ta có thể thấy xuất hiện hai hành động trong tâm hồn của người lính tây tiến đồng thời xảy ra. Đó là “mắt trừng”, đó là “gửi mộng”. hai câu thơ nhốt trọn hai thế giới, hai giấc mộng của người lính tây tiến. người ta vẫn thường nói: “Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, là tâm điểm của mọi suy nghĩ”. vì vậy, khi bắt gặp đôi mắt trừng đã gợi cho ta nhiều liên tưởng. Đôi mắt của các anh mở to nhìn thẳng về phía quân thù mà bắn với chí khí thề sống chết với kẻ thù. Đôi mắt ấy còn gửi mộng qua biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình.ban ngày các ske phía trước, ánh lên sự quyết tâm, khát vọng chiếến đnh chiến. Đôi mắt ấy còn gửi mộng qua biên giới – mộng giết giặc, mộng lập công, mộng hòa bình. một hình ảnh ước lệ làm tôn lên khí thế oai phong lẫm liệt, kiêu hùng của đoàn binh như trong bài thơ “bài ca chim chơ rao” của thu bt>
“quân thù kia ơi! một bầy man rợ bay đừng hòng khuất phục đời ta bay định đốt ta thành hòn than quỳ lạy trong ánh lửa hồng ta xuất hiện một vòng hoa”.
nhiều người cho rằng: “dáng kiều thơm” là nỗi nhớ của quang dũng về quán kiều trên phố hàng bông, nơi mà ông hay lui ến Ⴣ đ đỡo đàm. heno có người cho rằng đó là những người lính đang nhớ về những thiếu nữ hà thành, nhớ người yêu của mình với vẻ ẹp “sắc nướng” tâm hồn sau mỗi chặng ường hành quân vất vả, chứ không phải nhớ những điều ấy mà quên đi nhiệm vụ cao cả, nhớ ể mà thối chí nản long. vậy mà một thời câu thơ “đẹp một cách lãng mạn”như thế này đã khiến cho tác giả của nó và chính bài thơ trải qua bao gió dập, sóng dậg. từng một thời bị phê phán bởi thói tiểu tư sản, nhưng thực ra nhờ vẻ đẹp ấy mà tâm hồn người lính có sợc mạt mạnh v. quang dũng đã tạo nên một net tương phản hết sức đặc sắc. những with người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là with người có một đời sống tâm hồn phong phú. người linh tây tiến không chỉt biết cầm súng đi the tiếng gọi thiêng liêng của tổc mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn, trai tim họ nh ột ột ộ khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiựmỡn v th tại sao cấm những người lính xuất thân từ thành thị sống với những tâm tình riêng của mình, trong khi những người lính xuất thân từ nông dân thì lại được phép NHớ GIếNG NướC, NHớ GốC đA, NHớ NGườI THâN CủA Họ. . có lẽ đa phần người lính tây tiến ều là học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trường, tuổi ời còn rất trẻn hành trang mang thần rến tạng kng không cỉt “còt tâmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng àmng nost mộng mơ. nỗi nhớ ấy cũng được nhà thơ nguyễn Đình thi thể hiện trong bài “Đất nước”:
“những đêm dài hành quân nung nấu bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”
tuy nhiên, thơ hay ta không nên truy theo nghĩa riêng để làm mất đi vẻ đẹp của bài thơ ấy, ta phải truy theo nghĩa chung. Dùc ến quán kiều như quang dũng, dùco nhớ dáng hình yêu kiều của người with gai đi chăng nữa thì tất cả những người linh ều nhớ về quê hương, nhớ về về về về về về p>
“từ thuở mang gươm đi mở cõi ngàn năm thương nhớ đất thăng long”
phân tích tây tiến – mẫu 2
cuộc kháng chiến chống pháp đi qua để lại những dâu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn dân tộc. Đó là điểm hội tụ của muôn triệu tấm lòng yêu nước môi trường thử thách tinh thần chiến đấu ngoan cường, bất khuấ nht củn. cuộc kháng chiến còn làm nảy sinh biết bao hình ảnh đẹp mà đẹp nhất là hình ảnh người lính.
bên cạnh những bài thơ nổi tiếng một thời như Đồng chí của chính hữu, nhớ của hồng nguyên, tây tiến của quang dũng là một thi phẩm đặc sắc Đoàn quân tây tiến quy tụ một lực lượng đông đảo đủ mọi tầng lớp thanh niên từ khắp phố phường hà nội. có nhiều thanh niên học sinh thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản vừa rời trang sách nhà trường để tham gia vào cuộc chiến đấu c. tất cả những with người ấy ra đi với lí tưởng chung của dân tộc là chiến đấu bảo vệ độc lập, tự do của tổ qu. họ ra đi không hẹn ngày trở về chiến ấu với mục đích “quyết tử cho tổc quốc quyết sinh” cai ảnh thần ấy là hào khí của cả một thế hệ, đ >
Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi, nào có sá chi đâu ngày trở về.
trong đoàn người nôc lên ường đi chiến ấu, trong hàng ngũ những thanh niên thc ngày hôm qua có khi những tự vện ến ấu trên pHố phố pHườNg, chi ày à à quân tây tiến, thấp thoáng xuất hiện một khuôn mặt: quang dũng, tác giả của bài thơ. NHư BAO THANH NIêN TRÍ THứC của hà nội ngày ấy, quang dũng cũng hao hức gia nhập đoàn quân tây tiến với một niềm say mê của tổi trẻi và một chút lãng mạn củ chinh phụ ngâm:
dã nhà đeo bức chiến bào
hay
gieo thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
cũng chính vì thế mà những thanh niên như quang dũng sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, hello sinh để chiến đấu đến ngày thắù ci cung. vào tây tiến, quang dũng cùng sống và chiến đấu một thời gian với đơn vị này và sau đó chuyển sang đơn vị khác. một ngày ngồi ở phù lưu chanh, quang dũng nhớ về những người đồng đội, nhớ về những tháng ngày chiến đấu gian nan nhưng hào hùng, nhớ đơn vị cũ, nhớ những con đường hành quân mà ông cùng đơn vị từng đi qua. nỗi nhớ ấy dần lớn lên trong quang dũng, bật ra thành hai câu thơ:
sông mã xa rồi tây tiến ơi! nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
cuộc sống chiến đấu của tây tiến cùng những nơi mà đơn vị đã đi qua hẳn là những kỉ niệm hết sức sâu đậm hàm trong hẳn một phần quãng đời quang dũng gắn bó với tây tiến là cuộc sống hoạt động trong vùng rừng núi. Bởi thế, nhà thơ nhớ về tây tiến là nhớ ngay về sông mã, nhớ vềng rừng no với bao kỉ ni ệm vui buồn, ấn tượng vền miền rừng noui khắc nghi đ ạ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ ấ vì thế, quang dũng nhớ về những tháng ngày đã qua với một tình cảm yêu thương lắm nhưng chẳng biết gọi lên chính xác nhy nỗi. nhớ chơi vơi! hai liếng chơi vơi dùng ở đây thật là ắc ịa, diễn tả một nỗi nhớ không có hình, không có lượng nhưng hình như rất mangà nặng vặng. cái tâm trạng nhớ ấy ta đã bắt gặp không chỉ một lần trong ca dao:
ra về nhớ bạn chơi vơi
hoặc:
nhớ ai bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa, như ngồi đống que.
quang dũng lấy nỗi nhớ trong ca dao để tượng trứng thêm cho nỗi nhớ chơi vơi của mình, thật là chi tiết đắt giá! ngay từ đầu bài thơ, ông đã miêu tả vùng rừng núi ấy thiết tha như thế làm cho người đọc chú ý ngay. nhớ tây tiến, nhớ về song mã và núi rừng trùng điệp, nhớ with đường hành quân:
sài khao sương lấp đoàn quân mỏi mường lát về trong đêm hơi dốc lên khúc khuỷu dốc the thẳm heo hút cồn mây súng ngửi trời ngàn thên ca. >
with đường hành quân điệp trùng với bao cái khắc nghiệt, dữ dội của mỗi vùng rừng biên ải. Đọc đoạn thơ, chưa cần suy ngẫm nội dung bên trong, chúng ta đã có thể hình dung ra with đường mà quang dũng miêu tả. kết cấu đoạn thơ cứ thanh bằng thanh trắc đan chéo nhau, trải dài ra miên man, vô tận như with đường xa thẳm khấp khểnh. nhạc điệu êm ả, triền miên. Đoàn quân tây tiến đi trong lớp sương dày của núi rừng, tất cả lung linh trong lớp sương khói mờ ảo, như thực, như mộng. thế nhưng, mỗi địa danh đều gợi lên trong người đọc về hình ảnh của một xứ lạ, phương xa; nếu ta chỉ thử thay sài khao bằng một tên gọi khác là lớp sương huyền ảo ấy tan biến ngay. Đoàn quân tây tiến cất bước, trên with đường xa vạn dặm, với cái trắc trở, gập ghềnh của with đường. Đã dốc lên khúc khuỷu mà còn dốc thăm thẳm, đã ngàn thước lên cao rồi lại ngàn thước xuống thì đúng là ến ộộ cao chằt ngó. tất cả những đặc điểm ấy diễn tả nỗi khó khăn của đoàn quân tây tiến khi hành quân. nó ghi lại ấn tượng về một miền rừng núi thật là dữ dội và khắc nghiệt. Quang dũng CC NHữNG Cách Dùng từt rất tinh tế mà cũng hết sức tinh nGhch: number chạm mây nối thành cồn heo hút, và ểi tảh chiều caủa của n noun thì chỉ ữ a ng ng ng ng ng ng. phải chăng đó là cách gọi của lính mà quang dũng ghi lại với tư cách một người trong cuộc? Dù Sao, qua những từ ngữ, chi tiết và cach kết hợp thanh điệu của đoạn thơ cũng đã vẽ lên trước mắt ta hình ảnh một miền rừng ni mà đoàn quân tân tây t đ có những câu thơ dùng toàn vần bằng rất hay:
nhà ai pha luông mưa xa khơi
sau khi ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống người chiến sĩ tây tiến như đứng trên núi cao mà nhìn xuống thung lũng phủ kín trong mà. những ngôi nhà như đang trôi bồng bềnh trong làn mưa trắng. thanh bằng của từng chữ trải ra, mênh mang, diễn tả cái màn mưa phủ giăng thung lũng. rừng núi trùng, ấn tượng về miền rừng núi cũng thật là khắc nghiệt và dữ dội:
chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm mường hịch cọp trêu người.
chỉ hai câu thơ thôi mà gieo vào lòng ta tất cả những sự khắc nghiệt của miền rừng núi này – một miền núi rừng âm u vời ới thú dữ dữ con. hai chữ mường hịch đi với nhau nghe nặng như chân cọp. có một điều kì lạ là nếu ta thay địa danh này bằng hai chữ khác như châu thuận chẳng hạn, thì hiệu lực câu thơ sẽ giảm. qua sự miêu tả của quang dũng, một vùng núi rừng biên ải hiện lên với tất cả sự khắc nghiệt, dữ dội của thiên. Đó là những khó khăn mà người chiến sĩ tây tiến phải vượt qua trên with đường hành quân. cái trắc trở, gian lao của with đường tây tiến chợt làm chúng ta nhớ đến câu thơ của lí bạch:
thục đạo chi nan, nan ư thướng thanh thiên. (Đường xứ thục khó đi, khó hơn lên tận trời xanh).
Đó là tất cả những gian khổ, nguy hiểm do thiên nhiên đem đến mà người chiến sĩ tây tiến phải chịu đựng.
anh bạn dãi dầu không bước nữa gục lên súng mũ, bỏ quên đời!
quang dũng nói cái thực trên with đường tây tiến. bao người chiến sĩ đã nằm lại trên with đường hành quân. Có một điều lạ làm toả sáng cả ý thơ là người linh tây tiến ến lúc gục xuống vẫn cố gắng trong tư tưa người lính, chết rồi nhưng sung mũ vẫn còn c. tục cuộc hành trình. bao cảnh gian khổ khó khăn, khắc nghiệt dữ dội của with ường hành quân, của thiên nhiên xứ lạ đ ử thách người chiến sĩ tây tiến cámgh cámến mết. có những người lính đã vượt qua được, và cũng không ít những người phải nằm lại phía sau. người lính dãi dầu qua mưa nắng, đi từ khó khăn này ến gian khổ khác, chịu hết thử toch này ến thử thác mà dường như vẫn ch; đến khi he kiệt sức phải gục xuống thì he cũng cố gắng gục xuống trong tư thế của người chiến sĩ.
cho dù quang dũng có nói sự thực về một vùng rừng núi che lấp con người, nhưng chynh những phẩm chất cao ẹp của người chiến sĩ đ ưa họ bay lên, vượt lên thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi thi. quang dũng là một người trong cuộc, rừng là chiến sĩ tây tiến, chynh vì vậy mà nhà thơ vết vềc cuộc sống gian khổ của người chiến sĩ tây tiến một cach hết cảt ộm ộm ộm ộm cái khắc nghiệt, khổ và dữ dội của một miền biên ải, những gian truân mà người chiến sĩ tiến phải chịu ựng và nhông ững ấn tƣn qunthê. quang dũng về người lính tây tiến không như những nhà thơ khác; ông nói thật về sự khổ, hello sinh của người lính một thời. thế nhưng, hình ảnh anh bộ đội tây tiến không vì thế mà trở nên uỷ mị, ngược lại càng thêm cao đẹp hơn. he miêu tả net chiến sĩ với cái bi, nhưng là “bi trang”. Nói Cái Gian Khổ ể ề Cao Chiến Thắng Nói Hi Sinh ể Nâng Hình ảNH NGườI LÍNH Lên MộT TầM CAO THờI ạI CũNG Là MộT CACH “Vẽ Mây nảy TRG” TRONG HộI VậY. bởi chiến thắng có giá trị gì khi chiến thắng dễ dàng, không có hi sinh? và hình ảnh người lính sẽ không thật cao đẹp nếu họ không trải qua những thử thách gian truân của cuộc sống chiến đấu khắt ng.
lao xao song vỗ ngọn tùng gian nan là nợ anh hùng phải vay.
Đó là một lời đúc kết kinh nghiệm về giá trị của chiến thắng, giá trị cả phẩm chất with người. giữa bao cái gian khổ, khắc nghiệt đã thành ấn tượng niềm vui, dù ít ỏi, càng đáng nhớ hơn:
nhớ ôi tây tiến cơm lên khói …. trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
<p khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. sức nóg của nó ủ làm tâm hồn dần ấm lại sau những phút giây chứng kiến những gian khổ của người linh, đuốc hoa là hình ảnh có sức khơi gợi, gợi chợi cho lễ hội đông vui. hai liếng kìa em vừa ngỡ ngàng, vừa sung sức nó diễn cả tâm hồn của người chiến sĩ tây tiến. trong cả đoạn thơ dìu dặt thành tiếng nhạc, tiếng khèn, phảng phất hình ảnh vui tươi của cuộc sống ) bình như chến tran chiến biến hình ảnh nhạc về viên chăn xây hồn là hình ảnh đẹp, thơ mộng, diễn tả tâm hồn phong phú của người lính tây tiến. họ tổ chức hội vui, sau bao thử thách khắc nghiệt của núi rừng dữ dội. và mặc dù biết rằng sẽ còn tiếp tục chịu đựng những gian truân, hello sinh, người lính tây tiến vẫn múa hát, đùa vui, vẫn lạu đ yá. Có thể chỉ ngày hôm sau một người nào đó Trong số họ pHải nằm lại nơi noui rừng u tịch, nhưng hôm nay làm hồn họ vẫn mộng mơ, mơnng hình ảnh ảp củt. và như vậy, họ sẵn sàng đón nhận mọi thử thách tiếp theo, coi đó như một việc bình thường mà đời lính phải chấp nhận. Không Lên Gân, Không Khiên Cưỡng, Mọi Gian Khổ Hi Sinh ối Với Người Lísh Là Chuyện Bình Thường và tất yếu, Vậy mà họ vẫn lạc quan, vẫn yêu ời, vẫ cũng vậy mà người lính tây tiến có thể vẫn nhớ một dáng thuyền độc mộc, hoặc một bông hoa trên dòng nước lũ. những hình ảnh rất binh thường ấy, ngỡ rằng sau bao sự thử thách về tinh thần, người lính sẽ quên đi. nhưng không, họ vẫn nhớ. những hình ảnh ấy in sâu vào tâm hồn người lính tây tiến, là nguồn ộng viên thúc giục họ chiến ấu, dù tiếp tục đón nhữn mhữn nhá:
tây tiến đoàn binh không mọc tóc quân xanh màu lá dữ oai hùm mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm của đoàn quân không mọc tóc! có cách nói nào lại khơi dậy nhiều cảm xúc đến thế! như vậy thì hình ảnh của anh bộ đội tây tiến có trở nên quai đản không? không đâu! Đó chính là hình ảnh oai hùng của anh “vệ trọc” nổi tiếng một thời rét nên tóc rụng, vả lại, cái cách nói đoàn quân không mọc tóc ấy phần nào cũng dựng nên hình ảnh người tráng sĩ với dáng dấp thật hùng dũng và hien ngang. quân không mọc tóc, quân lại xanh màu lá, màu xanh ấy có thể do cành lá trang, nhưng chủ yếu là do sốt rét rừng. những cơn sốt rét ghê gớm đã để lại ấn tượng sâu sắc cho người chiến sĩ. ta cảm động trước hình ảnh người sĩ tây tiến, và gợi nhớ đến hình ảnh người chiến sĩ trong một số bài thơ thư>
khuôn mặt đã lên màu bệnh tật, Đâu còn tươi nữa những ngày qua.
người lính tây tiến cũng chịu đựng những cơn sốt rét ghê gớm ấy, thế nhưng, nó không làm nhụt đi ý chí của người chiến sĩ mà ngược lại họ càng chiến đấu dũng cảm hơn, kiên cường hơn, quân xanh màu lá nhưng vẫn dữ oai hùm. cái khí phách hào hùng của người chiến sĩ tây tiến được ghi lại bằng sự so sánh cân bằng. nếu ở khổ thơ trên, người lính chịu sự đe dọa của cọp thì họ cũng chiến đấu với tinh thần dũng cảm của mộtht chúa câu thơ sau nâng đỡ câu thơ trước vút bay lên như ánh hào quang của phẩm chất người lính tây tiến. miêu tả khí thế chiến ấu hào hùng của người chiến thắng một sự so sánh như thế, quang dũng thực sự đã hiểu người lính và Ļử hòi vá. chiến đấu dũng mãnh như thế, nhưng người lính tây tiến vẫn có đời sống tâm hà nội hết sức tinh tế:
mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm.
người chiến sĩ ra đi từ những mái trường, chiến đấu nhưng vẫn không quên hậu phương. phía trước là trận đánh, tình cảm thể hiện qua giấc mộng, có thực, có mơ. dáng kiều thơm gợi nên cái dáng vẻ yêu kiều của người with gái thủ đô, chữ thơm được dùng với nghĩa như “sắc nước! người chiến sĩ của quang dũng ra đi, mang theo cả phong thái hàa hoa của người thanh niên trí thức, cái phong thái đã giúp người chiến sĩ sỚng tâm bằng
cái cuộc sống tâm hồn ấy là nguồn ộng lực giúp người lính tiếp tục chiến ấu ểể giành lấy ộc lập, tự do cho tổc then. và cũng vì thế, người chiến sĩ chấp nhận sự hi sinh:
rải rác biên cương mồ viễn xứ chiến trường đi chẳng tiếc trời xanh.
cứ thử làm công việc tách hai câu thơ thành từng câu một. me! cái ấn tượng bi thảm đến vô cùng mà câu thơ đầu mang đến thật mạnh mẽ. không hiểu sao, cứ mỗi lần đọc đên câu thơ này là tôi lại chìm vào trong suy tưởng và nước mắt cứ rưng rưng! trên with ường gập ghềnh xa thẳm của miền núi rừng biên giới đoàn quây tây tiến cứ đi và thỉnh thoảng có những with người phì raải khời phìhải . những nấm mộ của người chiến sĩ mọc lên. câu thơ thật là bi thảm. những câu thơ sau như một lực nâng vô hình, đã đưa câu thơ đầu lên cao, cái thảm giờ đây đã trở thành bi tráng. nó bi tráng và hào hùng bởi quang dũng nói ược một điều cốt liquti trong nhân cách của người lính: biết hi sinh, biết gian khổ nhưng vẫn cứn quí đi giẺ giế. họ ra đi chẳng tiếc đời xanh, bởi quãng đời tươi đẹp ấy đã hiến dâng cho một lí tưởng cao đẹp: chiến đấu vì qu tổ. họ ra đi và ngã xuống thanh thản không một chút vướng bận, cái chết được xem nhẹ tựa lông hồng:
Áo bào thay chiếu anh về đất song mã gầm lên khúc độc hành.
cách dùng từ áo bào của quang dũng làm cho câu thơ trở nên cổ kính, áo bào chứ không phải chiến bào; người chiến sĩ như những danh tướng thời xưa da ngựa bọc thây là một điều vinh quang. cũng như thế, người lính coi việc hi sinh trên chiến trường là một nghĩa vụ thiêng liêng. người chiến sĩ tây tiến ngã xuống và thanh thản về đất. Đất sinh ra anh và lại đón nhận anh về sau khi làm tròn nghĩa vụ. anh về đất như một hành động tựu nghĩa của những anh hùng. mở đầu bài thơ là hình ảnh song mã, kết thúc bài thơ vẫn là tiếng gầm thét của dòng song này. dòng song tiễn anh ra đi chiến đấu lại đón anh về:
tây tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi ai lên tây tiến mùa xuân ấy hồn về sầm nỳ vôp.
quang dũng khẳng định lại một lần nữa cái ý chí bất khuất ra đi là không trở lại. Đó cũng là ý chí quyết tâm của cả một thế hệ, của một thời đại.
những gian khổ, hello sinh của cuộc kháng chiến là những kỉ niệm không thể quên. sẽ không bao giờ còn có lại thời kì gian khổ đến mức ấy và cũng hào hùng đến mức ấy. và cũng khó có thể có được bài thơ tây tiến thứ hai.
phân tích tây tiến – mẫu 3
mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh, nhưng văc với sứ mệnh thiêng líêng của nón ọ ngã xuống vì nền độc lập của tổ quốc trong suốt ỳịng k. Và “Tây tiến” là 1 trong những bài thơ there, tiêu biểu của quang dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người linh cach mạng Trong cuộc kháng chiến trường trường trường trường trường trường kỳ Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất ng thian thcí>
“sông mã xa rồi tây tiến ơi! … hồn về sầm nứa chẳng về xuôi”
nhắc đến nhà thơ quang dũng, chúng ta nghĩ ngay đến tác phẩm để đời của ông – tây tiến. bởi lẽ nó đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ. tây tiến là 1 đơn vị bộ đội thời kháng chiến chống pháp được thành lập năm 1947 làm nhiệm vụ phối hợp với bộ đội lào đánh tiêu hao sinh lực địch ở vùng thượng lào, trấn giữ 1 vùng rộng lớn ở tây bắc nước ta và biên giới việt lào. quang dũng từng là đại đội trưởng của binh đoàn tây tiến nhưng đến đầu năm 1948 vì yêu cầu nhiệm vụ ông chuyển v sangc đ. bài thơ được sáng tác cuối năm 1948 khi nhà thơ đóng quân ở phù lưu chanh 1 làng ven bờ song Đáy, nhớ về đơn vị về đƿn vith ị c. lúc ầu, ông ặt bài thơ là “nhớ tây tiến” nhưng về sau ổi lại thành “tây tiến” vì cả bài thơ đ- một nỗi nhớ và chỉ v ới 2 từy tiến ”chủ p>
là một người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến ấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chàsất thi thi. 1 thời gắn bó sâu ậm với tây tiến, với ồng ội, với núi rừng đã làm cho ông ko khỏi bồi hồi, xúc ộng khi nỗi nhỿtrây về khề t.
“sông mã xa rồi tây tiến ơi! nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
câu thơ như tiếng gọi chân thành , tha thiết xuất phát từ trái tim và tâm hồn người thi sĩ. bằng cách sử dụng câu cảm thán và thủ pháp nghệ thuật nhân hoá, câu thơ trở nên đẹp diệu kỳ. “Sông Mã” Ko ơn Thuần Là 1 with Sông – Nơi đã Từng là ịa Bàn Hoạt ộng của đoàn quân tây tiến – mà nó đã trở thành 1 hình ảnh hi hi hện hữu, 1 chứng nhân với bao nỗi vui buồn, được mất. “tây tiến” ko chỉ để gọi tên 1 đơn vị bộ đội mà nó đã trở thành 1 người bạn ” tri âm tri kỉ” để nhà thơ giãi bày tâm.
câu thơ thứ 2 với điệp từ “nhớ” được lặp lại 2 lần đã diễn tả nỗi nhớ quay quắt, cồn cào đang ùa ũa t. Tinh từ “chơi vơi” – biểu cảm một nỗi nhớ nhẹ và rất sâu – kết hợp với từ “nhớ” đã khắc sâu ược tình cảm nhớ nhung da diết của nhà thơ. và nỗi nhớ đó như 1 cơn thác lũ tràn vào tâm trí đẩy ông vào trạng thái bồng bềnh, hư ảo. có lẽ quang dũng đã học tập cách diễn đạt nỗi nhớ trong ca dao:
“ra về nhớ bạn chơi vơi nhớ chiếu bạn trải nhớ chăn bạn nằm”
hai câu đầu với cách dùng từ chọn lọc, gợi hình gợi cảm đã mở cửa cho nỗi nhớ trào dâng mãnh liệt trong tâm hồn nhà.
th
“sài khao sương lấp đoàn quân mỏi mường lát hoa về trong đêm hơi dốc lên khúc khuỷu dốc thẳm heo hút cồn mây súng ngửi trời ngỰn cathên ca. p>
quang dũng đã liệt kê hàng loạt các ịa danh như: sài khao, mường lát, pha luông… – ịa bàn hoạt ộng của binh đàn tây tiến – những cáv cáv cáv. núi rừng tây bắc đẹp hùng vĩ mà dữ dội, một vùng đất có địa hình hiểm trở, khí hậu khắc nghiệt, nơi rừng Ực thiêng n. có những đêm dài hành quân người lính tây tiến vất vả đi trong đêm dày đặc sương giăng, ko nhìn rõ mặt nhau. “Đoàn quân mỏi” nhưng tinh thần ko “mỏi”. bởi ý chí quyết tâm ra đi vì tổ quốc đã làm cho những trí thức hà thành yêu nước trở nên kiên cường, bất khuất hơn. quang dũng đã rất tài tình khi ưa hình ảnh “sương” vào đy ể khắc họa rõn hơn sự khắc nghiệt của no rừng tây bắc trong những đm dài lạnh lẽnh lẽnh lẽnh lẽnh lẽnh lẽnh lẽnh lẽ cũng miêu tả về “sương”, chế lan viên cũng đã viết trong “tiếng hát with tàu”:
“nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ nơi nao qua lòng lại chẳng yêu thương khi ta ở chỉ là nơi đất ở khi ta đi đất”
thiên nhiên tây bắc, qua ngòi bút lãng mạn của quang dũng, ược cảm nhận với vẻ ẹp vừa đa dạng vừa ộc đáo, vừa hùgơ mừa. có những lúc người lính tây tiến phải vất vả để trèo lên đỉnh chạm đến mây trời. quang dũng đã khéo léo sử dụng từ “thăm thẳm” mà ko dùng từ “chót vót”. bởi nói “chót vót” người ta còn có thể cảm nhận và thấy được bề sâu của nó nhưng “thăm thẳm” thì khó có ai có thể hình ƣnh dung. Bằng những từ lay gợi hình ảnh rất cao như “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút”, nhà thơ đã làm cho người ọc cảm nhận ược cai hola sơ, dữi dội dội củc. hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ “ súng ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của người lính, cho ta thấy bên cạnh thiên nhiên hiểm trở còn hiện lên hình ảnh người lính với tư thế oai phong lẫm liệt nơi núi rừng hoang vu. câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đã tạo nên vẻ gân guốc, nhọc nhằn đã nhấn mạnh ược cảnh quang thiên nhiên tây bắc che thậm le. Đứng trên đỉnh dốc núi cao, họ nhìn xuống with đường hiểm trở vừa vượt qua và with đường gấp khúc sẽ đi xuống. Đường lên dốc và đường xuống dốc đều thăm thẳm, hun hút. hình ảnh thơ thật đối xứng, câu thơ như một đường thẳng bị bẻ gập lại:
“ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
Điệp từ “ngàn thước” đã mở ra 1 ko gian nhìn từ trên xuống cũng như từ dưới lên thật hùng vĩ. bên cạnh cái hiểm trở, hoang sơ ta cũng thấy được vẻ đẹp trữ tình nơi núi rừng:
“nhà ai pha luông mưa xa khơi”
xa xa, lẫn trong màn mưa núi sương rừng, bản làng mờ ảo, thấp thoáng trong thung lũng, lúc ẩn lúc hiện. có những cơn mưa rừng chợt đến đã để lại bao giá rét cho người lính tây tiến. nhưng dưới ngòi bút của quang dũng, nó trở nên lãng mạn, trữ tình hơn. nhà thơ đã thông minh, sáng tạo khi nói đến mưa rừng bằng cụm từ “mưa xa khơi”. nó gợi lên 1 cái gì đó rất kì bí, hoang sơ giữa chốn núi rừng. câu thơ thứ 8 với 7 thanh bằng như làm dịu đi vẻ dữ dội, hiểm trở của núi rừng và mở ra 1 bức tranh thiênãnhiên nơi núi mừy lng . những câu thơ tây tiến giàu chất tạo hình hôm nay gợi nhớ những dòng thơ trong “chinh phụ ngâm khúc”
“hình khe thế núi gần xa ứt thôi lại nổi, thấp đà lại cao sương ầu núi buổi chiều như dữ dội nước lòng khe nâu còn suốs”
8 câu thơ đầu của bài thơ tây tiến là nỗi nhớ về núi rừng tây bắc, về đồng đội tây tiến. qua những chi tiết đặc tả về thiên nhiên núi rừng tây bắc, nó đã trở thành 1 kí ức xa xôi trong tâm trí nhà thơ. Đó là 1 nỗi nhớ mãnh liệt cuả người lính tây tiến nói riêng và của những người lính nói chung.
hình ảnh người linh tây tiến là một bức tượng đài ẹp ẽ với tư thế hiên ngang, khí phach anh hùng và cả những say mê, ước vọng lãng mạn, ẹp ẽ. nhưng thơ quang dũng còn tả rất thực về những mất mát, hy sinh của đoàn binh tây tiến. không thi vị hóa hiện thực ngòi bút thơ quang dũng dám nhìn thẳng vào những tổn thất tất yếu của with người trong cuộc chiỿn tranh tàcn. hình ảnh người lính tây tiến có những phút giây mệt mỏi:
“anh bạn dãi dầu không bước nữa gục lên súng mũ bỏ quên đời”
chữ “dãi dầu” đã lột tả được hết sự khốc liệt của cuộc chiến đấu. bao nhiêu song gió, hiểm nguy, gian khổ phủ lên đầu người lính nên mệt mỏi, dãi dầu là những phút giây đương nhiên. người linh tây tiến không rũ bỏ, quay lưng lại với kHáng chiến, phải chăng phút giây pHó mặc, bất cần, ầy ngạo nghễa người linh cũng là điều ếu ếu ếu ếu ếu ếu ế các anh đã không bước tiếp được nữa trên with đường hành quân đầy gian khổ. có những người bạn của quang dũng gục lên súng ngủ. “ngục” là một động từ miêu tả động thái rất nhanh, biểu thị không còn sức chịu đựng được nữa. các anh cố gượng dậy bước tiếp nhưng không còn sức. câu thơ: “gục lên súng mũ bỏ quên đời” tả một giấc ngủ ngàn thu, cực tả những gian khổ và hy sinh.
cũng có người hiểu câu thơ này tả một giấc ngủ tranh thủ của người lính để lấy sức tiếp tục đường hành quân. nhưng câu thơ dẫu viết theo nghĩa nào cũng đều nói về sự gian khổ tột cùng. nhưng nhiều người hiểu theo cách ở trên bởi nó phù hợp với chất bi tráng của cuộc đời chiến binh tây tiến: chết rồi màng hẫn ng. ba chữ cuối: “bỏ quên ời” thể hiện tinh thần, thái ộ của người lính trước cái chết, xem như đó là điều hiển nhiên, nhựa lung t. các anh lên đường, đến với núi rừng miền tây và biết rằng: “cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi” (xưa nay chinh chiến mấy ai trở v)
nếu ở mấy câu ầu tác giả mở rộng thiên nhiên miền ty bắc mênh mông qua không gian hùng vĩ, thơng của những cơn mưa rừng v vớ ca . thì đến với hai câu thơ sau đây thiên nhiên lại được khám phá theo chiều thời gian với hai từ láy “chiều chiều” và “đêm đêm”
“chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”
người ta hay nói đến rừng thiêng nước độc, lam sơn chướng khí. Với rừng no tây bắc, cứ mỗi buổi chiều tà lại nghe tiếng top gầm Thét ổ xuống từ trên cao và cứ mỗi đêm sâu ếnghe cm gẍi âm Thanh nào cũng ghê rợn. quang dũng bằng tài thẩm âm của mình đã cụ thể hóa và làm sống động hóa những nhận xét của người đời. vậy chỉ với hai câu thơ, quang dũng đã phát huy tối đa trí tưởng tượng ể cực tả vẻ hoang sơ, hùng vĩ của no rừng, miền ất ấy còn chứa nhiều đi đi
“nhớ ôi tây tiến cơm lên khói mai châu mùa em thơm nếp xôi”
chiến binh tây tiến hào hùng mà cũng rất đỗi hào hoa, rất nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên và sự đằm thắm ngưnh. hai câu thơ không có cảnh thiên nhiên miền tây, chỉ có cảnh sinh hoạt đời sống thường ngày. sau những câu thơ rất dữ dội và gân guốc là một cảm xúc thơ đằm thắm, thiết tha. câu cảm thán gợi nỗi bâng khuâng khi hồi tưởng lại những kỉ niệm ấm áp: lúc đoàn binh dừng lại sau một đoạn đường hành quân vất vả, lều trại được dựng lên ở một bản làng, một bếp lửa ánh đỏ hồng, một nồi xôi hương bay ngào ngạt, khói bếp khói rơm bay lên hòa quyện vào khói lam chiều. Đồng đội lại quây quần bên nhau, quên đi bao vất vả, gian khổ. chiến tranh lùi lại vào một góc khuất nào đó nhường chỗ cho một cảnh sinh hoạt tươi vui.
Ở đoạn hai, thiên nhiên và con người tây bắc lại được mở ra với một vẻ đẹp mới, khác với đoạn đầu. anh hùng trong chiến đấu nhưng người lính tây tiến cũng say mê, lãng mạn trong đêm hội:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa kìa em xiêm áo tự bao giờ khèn lên man điệu nàng e ấp nhạc về về về về về về về về về về về về về về về về về về về trên độc mộc trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
những câu thơ ầy angeg và âm thanh, có thơ vàco nhạc, ối lập hoàn toàn với những with ường hành quân gian lao, nguy hiểm, với những thiếu thốn, nhọc cho tâm hồn người chiến sĩ cất cánh, hòa nhịp vào những điệu khèn, câu hát say mê. Không Gian Tây Bắc Chơi Vơi Trong Một Miền Tâm Thức, Với Dáng Người Trên ộC MộC, Với Dòng NướC Lũ Hoa đong ưA, Khắc Sâu, GHI TạC TRONG TâM HồN NGườI CHIếN Sĩ. những câu hỏi tu từ dịu nhẹ, bâng khuâng làm không gian núi rừng thêm chơi vơi, bảng lảng trong sương, trong khói. ngòi bút tả thực của quang dũng đến đây trở nên mềm mại và uyển chuyển, chứa đựng cái tình sâu lắng, thiết tha.
quang dũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một ời sống tình cảm hết sức phú, những tình lột cảm la. quang dũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính tây tiến trong tác phẩm của mình. nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh, để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người with anh hùng của đất nước, của dân tộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao song sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ:
“Tây tiến đoàn binh không mọc tóc quân xanh màu la dữ oai hùm mắt trừng gửi mộng qua biên giới đêm mơ hà nội dáng kiều thơm rải Rác bên anh về đất song mã gầm lên khúc độc hành”
nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong: ”Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” There are Trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong êm lianm ìm ìm ìm ìm ìm ìm ìm ìm ìm ìm đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. cảm hứng chân thực của quang dũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc. cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. nhưng thế giới tinh thần của người lynh lại cho thấy họ chynh là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa ựng cả một quả một áp. cái giỏi của quang dũng là mô tả người lính với những net khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hùngủa cuộc. bởi vì câu thơ:
“tây tiến đoàn binh không mọc tóc”
với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như “tiến”, “mọc tóc” đã làm âm hưởng của câu thơ vút lên. chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. hai chữ “đoàn binh” – âm hán việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Thủ Phapc tương phản mà quang dũng sử Dụng ở câu thơ “quân xanh màu la dữ oai hùm” không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lynh mà còn thấ sâủc tộc tộc. Ở đây, nhà thơ muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. phạm ngũ lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ: “hoành sóc giang san cap kỷ thu – tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu”. và ngay cả hồ chí minh trong “Đăng sơn” cũng viết:“nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu – thể diện sài long xâm lược quân“
có thể nói quang dũng đã sử dụng một mô-típ mang ậm màu sắc phương đông ểể câu thơ mang âm vangng mửng m tt. Đọc câu thơ: “quân xanh màu lá dữ oai hùm” ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông Á.
người lính tây tiến mạnh mẽ, rắn rỏi trong chiến đấu, nhưng cũng hết sức lãng mạn, say mê trong những giây phút thơ mộng. Ở đây, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư chất của một anh hùng và phong cách của một trí thức lãng mạn. hình tượng người lính tây tiến bỗng trở nên rất đẹp khi quang dũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạmn trong t:ọ>
“mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
bao nhiêu yêu thương, nhớ mong, mộng ước của họ được gửi gắm, dồn tụ ở hình ảnh “mắt trừng”. hình ảnh ấy không chỉ gợi một nỗi niềm đau đáu khôn nguôi mà còn chất chứa bao khắc khoải, between chờ. Bên giới và hà nội hoa lệ có một khoảng cach rất xa xôi, người linh tây tiến muốn thông qua những mộng ẹp, những khát vọng diệt thù ể làm cầu nối nối thu “dáng kiều thơm” và một hà nội phồn hoa xa xôi chính là nguyên do của nỗi niềm mong nhớ ấy. Đó Không phải là một bonger dáng nào cụ thể nào, cũng không chỉ bó hẹp trong một tình yêu đôi lứa, niềm nhớ thương dâng trào của người linh cao hơ . người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về hà nội. người lính tây tiến dẫu “mắt trừng gửi mộng qua biên giới” mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một “dáng kiều thơm”. Đã một thời, với cai nhìn ấu trĩ, người ta pHê phan Thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ ẹp ấy của tâm hồn mà người linh có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người của with người việt nam. quang dũng đã tạo nên một tương phản hết sức ặc sắc – những with người chiến ấu kiên cường với ý chí sắt thrép cũng chính là with người có một ời sống t. người lính tây tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non song mà còn rất hào hoa, giữa nhii gian khổ, thi ề thn ề n. đẹp của hà nội – thăng long xưa. ta bỗng nhớ đến câu thơ của huỳnh văn nghệ: “từ thuở mang gươm đi mở nước – nghìn năm thương nhớ đất thăng long”
nếu như ở 4 câu thơ trên, người linh tây tiến hi ện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân tây tiến vag dội khí thế hào hùng và một thế gi ớ đài người lính tây tiến được khắc tạc bằng những đường net nổi bật về sự hy sinh của họ. quang dũng đã mô tả một cach chân thực sự hy sinh của người lynh bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn cócócco ba ba ba bay bổng.
“rải rác biên cương mồ viễn xứ chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất song mã gầm lên khúc độc hà
ngay chính trong cái chết, người lính tây tiến vẫn thể hiện, khẳng định được khí phách anh hùng, tư thế ngạo nghễ của mình. người tac thể rùng mình ghê sợcc cai lạnh lẽo, hoang vu của những “mồ viễn xứ” nhưng không khỏi tự hào, kiêu hãnh trước sực sự hi sin sin khuất anh hùng của aà. những từ hán việt “biên cương, chiến trường, viễn xứ, độc hành” được sử dụng trang trọng giống như những nén tâm hương tr. ngày xưa, nhà vua vẫn thường ban tặng áo bào cho các tráng sĩ thắng trận trở về, nhưng ở thời của người lính tây tiến thì làm gào. vậy mà quang dũng vẫn gọi những manh áo lính với một cách kiêu hãnh là “áo bào”. những người trong cuộc kể lại rằng ngày ấy lúc đầu có quan tài và bài niệm nhưng sau đó lính tây tiến hi sinh nhiều, người bản xứ đã cho những mảnh chiếu cuốn thân, nhưng rồi chiếu cũng hết, họ đã mặc nguyên những chiếc áo lính để trở về với đất mẹ. quang dũng muốn tránh đi sự thật đau lòng nên he đã gọi đó là chiếc áo bào. Đó là một cách nói sang trọng, an ủi người ra đi và cũng đỡ tủi lòng người đưa tiễn. cụm từ “anh về đất” nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh trán. với hai lần xuất hiện trong bài thơ, sông mã đã luôn gắn liền và dõi theo with đường hành quân, đấu tranh gian khổ của đoàn binh. sự ra đi của người lính tây tiến là một hiện thực tất yếu của chiến tranh và thiên nhiên hòa cùng nỗi đau với with người. song mã gào thét, vang vọng lên “khúc độc hành” giống như một khúc tráng ca tiễn đưa người anh hùng về với đất mẹ. sự hi sinh ấy ược ặt giữa ất trời, thiên nhiên, có ất mẹ dang tay đón ợi, có dòng sông mã anh hùng dạo lhúnc tráng ca, đó là sự hi-sench
qua bài thơ tây tiến của quang dũng, hình ảnh người lính hiện lên chân thực, lãng mạn, đa tình, đa cảm đồng thời cũt hàng r. với nhiều từ ngữ mang sắc thái cổ điển, trang trọng tác giả tạo ược không khí thiêng liêng, làm cho cái chết bing của người lintnh cộnh vangộthing. Âm hưởng bốn câu thơ cuối làm cho hơi thơ cứ vọng dài thăm thẳm không dứt, hòa với bước ường của người chiến sĩ tình nguyện lên ường vì ất nước.
“tây tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi ai lên tây tiến mùa xuân ấy hồn về sầm chn xu”
hơn năm mươi năm qua, bài thơ tây tiến vẫn còn sức quyến rũi với người ọc hôm nay, gợi vềng năm than không thể nào quên trong giai đoạn kháếng chiếng. bằng bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, quang dũng diễn đạt tài tình nỗi gian khổ trên những con đường hành quân của binh đoàn tây tiến, dựng lên được hình tượng vô cùng đẹp đẽ về người lính với hào khí ngất trời trong chiến đấu và net hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn. Bức tượng đài người linh tây tiến ược khắc tạc bằng cả tình yêu của quang dũng ối với những người ồng ội, ối với ất nước của mình.
phân tích tây tiến – mẫu 4
quang dũng là một hồn thơ chiến sĩ thời máu lửa oai hùng!
“tây tiến” là bài thơ của người lính nói về người lính – anh vệ quốc quân thời 9 năm kháng chiến chống pháp. quang dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên thơ ông rất chân thực và hào sảng, dư ba. bài thơ ược quang dũng viết vào năm 1948, khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang nă ba, chặng ường kháng chiến còn gian thầy la.
“tây tiến” nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của quang dũng về đồng đội thân yêu, cùng vào sinh ra tử một thời trận mạc.
mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén chặt, bỗng trào dâng:
“sông mã xa rồi, tây tiến ơi! nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”.
từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. hai chữ “nhớ” như hai điểm nhấn gợi tả nỗi nhớ “chơi vơi” cháy bỏng khôn nguôi. từ phù lưu chanh ông nhớ dòng sông mã, nhớ num rừng miền tây, nhớ đoàn binh tây tiến – một ơn vị bộ ộ`t ộng tại vùng rừn -Mii mi những nĂm ầu kHáng chiến. bao kỉ niệm đẹp một thời chinh chiến bỗng sống dậy. những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn:
“sài khao sương lấp đoàn quân mỏi. mường lát hoa về trong đêm hơi”.
những sài khao, mường lát những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân đoàn chiến binh tây tiến. trong “sương lấp”, trong “đêm hơi” mịt mù, lạnh lẽo, đoàn dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. ngày nối ngày, đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, “đoàn quân mỏi” giữa cái biển sương mù của núi rừng miền tây; “đoàn quân mỏi” tưởng như bị “lấp” đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện “hom tronga vềê”. cái mỏi mệt, cái gian khổ như đã tieu tan. sau thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong tâm hồn người lynh trẻ đi tới đích sau những chặng ường dài hành qun thách: “y
cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền tây. những đèo dốc “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” chưa từng in dấu chân người! những “cồn mây heo hút”.
“dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, heo hút cồn mây súng ngửi trời. ngàn thước lên cao ngàn thước xuống nhà ai pha luông mưa xa khơi”.
các từ lay: “thămw mây mà nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: “áo vải chân không đi lùng giặc đánh” (hồng nguyên). “sung ngửi trời” là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối, bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ tây tiến được đo bằng: “ngàn thước lngên cath”. núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi trong mù sương, trong màn mưa rừng. từ những đỉnh cao ” ngàn thước”, các chiến binh dõi tầm mắt nhìn xa. những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu Thơ Thất Ngôn, Toành Bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng Thanh thản dâng lên Trong tâm hồn người linh trẻt rất lạc quan yêu ời khi dõi ”.
những gì đã xảy ra trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm điệu câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:
“anh bạn dãi dầu không bước nữa. gục lên súng mũ bỏ quên đời!”.
hai tiếng “anh bạn” cất lên như một tiếng khóc thầm. trong gian khổ “dãi dầu”, trong những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã “không bước nữa”,. vĩnh biệt đoàn binh, “bỏ quên đời”, bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân đèo, góc núi. bốn chữ “gục lên súng mũ” thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã xuống, gục xuống trên ường hành quân giữa trận đánh khi cứn mún tún. mặc dù quang dũng đã thay thế từ “chết”, từ “hello sinh” bằng cụm từ “không bước nữa”, “gục lên” … “bỏ quên ời!”, nhưng vẫn trào ƿiῡ lên x ntỻ . sự thật chiến tranh xưa noy vẫn thế! Có điều là vần thơ của quang dũng tuy nói ến cai chết của người linh nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương trai lại, trong sự tt tt ộm ộm ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ sĩ anh hùng đã ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt “gục lên súng mũ…” như vậy!
<p chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu vang động tiếng “gầm thét” của thác. trên một không gian mênh mông của chốn đại ngàn, từ pha luông đến mường hịch hoang vu, cái chết đang rình rập đe dọa. chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật “oai linh”, được nhân hóa như tăng thêm phần dữ dội. thác thì “gầm thét”, cọp thì “trêu người” như để thử thách chí can trường các chiến binh tây tiến:
“chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”.
vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân dân. quên sao được “cơm lên khói”, hương vị đậm đà của “mùa em thơm nếp xôi”. trong cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình sâu nghĩa nặng của bà with dân bẹâm mai, ci. hai tiếng “nhớ ôi” gợi lên nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:
“nhớ ôi tây tiến cơm lên khói mai châu mùa em thơm nếp xôi”
phần thứ hai bài “tây tiến” gồm có 8 câu nói về “hội đuốc hoa” và những chiều sương cao nguyên châu mộc. giving the man mác, bâng khuâng. nhà thơ tự hỏi mình “có thấy” và “có nhớ”. chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được nói đến thết hay trong đêm “hội đuốc hoa”. chữ “kìa” là đại từ để trở từ xa, gợi nhiều ngạc nhiên, tình tứ. Trong ang lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gai mường, cô gai-thai miền tây bắc, những cô gái pHù-xao lào trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡc rỡc rỡc rỡc rỡc đ vui, tinh quân dân thắm thiết. có tiếng khèn “điệu man” của núi rừng, có khúc nhạc du dương “xây hồn thơ”. có dáng điệu duyên dáng “e ấp” của “nàng”, của những “bông hoa rừng” đang múa, đang múa lăm-vông:
“doanh trại bừng lên hội đuốc hoa, kìa em xiêm áo tự bao giờ, khèn lên man điệu nàng e ấp, nhạc về viên chăn xây hồn”.
thơn.
chữ “bừng” là một net vẽ có thần. “bừng” là sáng bừng lên, cháy rực lên từ những ngọn đuốc trong đêm “hội đuốc hoa”. cũng có nghĩa là tưng bừng rộn ràng qua tiếng khèn “man điệu”, qua giọng hát tình tứ, mê say của bài dân ca thái, dân ca lào.
nhớ tây tiến là nhớ đến những chiều sương cao nguyên, nhớ đến những with thuyền độc mộc, nhớ đến “hồn bo lau b n”. nhớ nhiều, nhớ mãi “dáng người trên độc mộc”, nhớ không bao giờ quên hình ảnh nên thơ “trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. nếu không sống mạnh mẽ, sống hết mình của ời người lynh trẻ một thời trận mạc gian nan thì không thể nào viết ược vợc nh. Âm điệu đoạn thơ trầm bổng lâng lâng như đang ru hồn ta vào cõi mộng. Chất nhạc, chất thơ họa toát lên từ vần thơ, cho thấy tíh thẩm mĩ ộc đao của ngòi bút thơ quang dũng, ồng thời khắc họa vẻ ẹp tâm hồ và chết chóc, học vẫn lạc quan và yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng.
những đoạn thơ no nhất trong bài “tây ti ến” đ -thể hiện sự cảm nhận và di -ti đ lo hiện sự nhtm. say người đọc:
“người đi châu mộc chiều sương ấy, có thấy hồn lau nẻo bến bờ, có nhớ dáng người trên độc mộc, trôi dòng nưőg hop”.
phần thứ ba, quang dũng đã dựng lên một tượng đài hùng vĩ, bi tráng về đoàn binh tây tiến. Đoàn quân luồng rừng đi trong biển sương mù, trong những cồn mây trong màn mưa, vượt qua bao nhiêu núi cao, đèo, dốc thẳm, “,”, “,”, “”, “,”, “,”, ” “,”, “,”, “,”, “,”. p>
“tây tiến đoàn binh không mọc tóc, quân xanh màu lá dữ oai hùm mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”.
đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của một dân tột quật khởi ứng lên gửmá giách, dùg giách. hình tượng thơ ược ặt trong thế tương phản ối lập ể khẳng ịnh chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyṇt. “Đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”, có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liṇai: “dẫim”. cũng là một cach nói truyền thống trong thơ ca dân tộc ngợi ca sức mạnh việt nam: “tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu” (phạm ngũ lão), “tỳ hổ ba quó chọn kẻ vuốt nanh ”(Nguyễn trãi). thiếu thốn gian truân, từng đánh những trậán đán ẫm Máu giữa rừng sâu. quang dũng đã kế thừa một cach sáng tạo thơ ca cổ điển dân tộc ể viết nên nên nên nên nên nên nên nên
Đoàn binh tây tiến phần lớn cán bộ và chiến sĩ là thanh niên, học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn vật. là “những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…” ra đi đánh giặc với bao “mộng” và “mơ” tuyệt đẹp:
“mắt trừng gửi mộng qua biên giới, Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”.
mộng chiến công. mộng đánh tan đồn giặc, cướp súng giặc giết giặc. “mắt trừng” gợi tả tư thế chiến đấu lẫm liệt vô song khi đánh giáp lá cà, khi tung hoành trong đồn giặc! Đồng thời trong hành trang và trong tâm hồn những người lính trẻ còn mang theo bao giấc mơ tuyệt vời. nhớ về phố cũ trường xưa, mơ về một tà áo đẹp, một “dáng kiều thơm”, nơi hà nội thân yêu.
câu thơ “Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm” thể hiện chất tài tử, hào hoa của người lính tây tiến. Còn người chiến sĩ Trong bài “ồng chí” của chynh hữu, thì nỗi nhớng vềng ruộng nương, về “gian nhà không mặc kệ gióe Lay”, về giếng nước gốc đc ệc ệ thơ “nhớ” của hồng nguyên là cả một mối tình quê trang trải, đằm thắm, sâu nặng, thiết tha:
… “ba nĂm rồi gửi lại quê hương, more lều gianh, tiếng mõ đêm trường, luống cày ất ỏ ỏ ỏ ỏ ỏ ỏ ỏ ỏ ỏ ỏ ỏ ỏ ỏ ỏ >
qua đó, ta thấy nỗi nhớ, cai mộng mơ của người linh thời trậc mạc là nông dân, there are tưu tư sản thành thị ều ẹp và đáng yêu vì nỗi nhớ, cai hanging this. nếu có ai đó cho rằng câu thơ của quang dũng mang theo cái mộng rớt, buồn rớt, cái đuôi tiểu tư sản thì mới thật buồn thay. thời gian và ộc giả hơn nửa thế kỉ qua đã khẳng ịnh cái hay riêng của thơ quang dũng vì nó gvis phần làm phong phú thêm chân dung “anh bộ ộỻội kháng c.”
cai giá của ộc lập, tự do ược đo bằng tầm vóc lớn lao và khí phach của dân tộc, ược ghi nhận bằng xương Máu của nhân dân dân, mà tước hết là x ủng mág mág mág mág már má. chiến trường. cái ý tưởng cao đẹp: “tổ quốc hay là chết” đã được quang dũng thể hiện bằng những vần thơ bi tráng lay động lòng người:
“rải rác biên cương mồ viễn xứ chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Áo bào thay chiếu anh về đất song mã gầm lên khúc độc hành.”
có biết bao đồng đội thân yêu của nhà thơ đã ngã xuống trong lửa đạn. Với “Áo Bào Thay Chiếu” rất bình dị, chẳng có “da ngựa bọc thây” như những tráng sĩ thời xưa, các site đã thản “về ất”, vĩnh viễn nằm Trong lòng mẹ – Tht ât ât ât ât ât các anh đã “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. hai chữ “về đất” rất sáng tạo. tiếng thác song mã “gầm lên” vang vọng giữa núi rừng như dội lên trầm hùng trong lòng đồng đội. nó như tiếng kèn trong bài “chiêu hồn liệt sĩ”, như loạt đại bác nổ xé trời giữa núi rừng chiến khu, mang sắc thái của một ề thi cêng. Ặt cai chết của những anh hùng vô danh giữa một không gian rộng lớn, giữa một thiên nhiên bao la hùng vĩ, câu thơ “rải Rác biên cương mồ vi x x” càng ượ Cao cả hơn nữa là lí tưởng chiến ấu vì ộc lập, tự do của tổc qốc ược khẳng ịnh như một lời thề, một niềm tin ménh liệt: “chiến trường đi chẳng ếc.
“vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy” (chế lan viên). những câu thơ trên đy của quang dũng thực sự ngang tầm Vóc với các chiến sĩ tây tiến, với những ồng ội đã bỏ mình vì tổc, đã oanh lig ồng ội đ đ đ đ quang dũng đã miêu tả và ngợi ca người lính tây tiến mang chí khí những anh hùng vô danh, những anh h hung thời ại, ra trận với “tình song núi”, v. họ đã đi tiếp with đường tổ tiên, ông cha, đã đem máu xương ra giữ vững sơn hà xã tắc. họ đã sống bình dị, yêu đời, biết mơ ước khát khao, rất hồn nhiên lạc quan. họ đã sống anh dũng, chết vẻ vang, sẵn sàng đem xương máu và cả “đời xanh” hiến dâng cho nhân dân và đất nước. nhà thơ đã làm rung lên niềm thương tiếc, tự hào!
sau này trong bài thơ “sông lào” cũng nói về những “nấm mồ viễn xứ” của những người with ưu you khắp mọi miền, chế lan viên xúc ộng,
ng>
… “tôi qua những with song lào đâu chỉ uống vào thơ gặp nghìn nấm mộ và trăm bản lào bom mĩ đốt ra tro! ngủ lại xê-băng-hiên chàng trai nhỏ đất song hồng ngủ lại xê-băng-phai là chàng phú thọ bóng khộp, bóng bằng lăng che mình bong thay. chàng trai nghĩa bình ngủ ở sê – kông nén hương thơm lẫn với hương rừng những cô gái lào đến thăm phần mộ các anh chưa từng cà mầm tay…
Đúng là “có cái chết hóa thành bất tử” (tố hữu). nhiều nhà thơ việt nam, Trong đóc cóng dũng đã viết nên những bài ca nói lên ý chí chiến ấu quảm cảm và sự hinh oanh liệt của người chiến sĩc vệc trong thờm minhi minhi hihi hihi Harhe harhe harhe harhe harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe Harhe HARHE HARHE HARHE HARHE HARHE chyhi chyhi chyhi chyhi chyhi chyhi chyhi chyhi chyhi chyhi chyhi chy thhi thhi chy
khổ cuối bài thơ, âm điệu trở nên tha thiết sâu lắng, bồi hồi. vẫn là tiếng lòng rung lên theo hoài niệm. biết bao thương nhớ khôn nguôi:
“tây tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi ai lên tây tiến mùa xuân ấy hồn về sầm nỳ vô”.
mùa xuân ấy, khi “tiếng kèn kháng chiến vang dậy non song” (hồ chí minh), đoàn binh tây tiến xuất quân. họ đã tiến ra sa trường với lời hẹn ước: “nhất khứ bất phục hoàn”. Đó là lời thề, là quyết tâm của cả một thế hệ “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. các anh đã giã biệt quê hương. những ai còn ai mất sau những tháng ngày đầy máu lửa? bạn bè, đồng đội thân yêu, những ai đó “hồn về sầm nứa chẳng về xuôi”. nhưng quê hương vẫn đời đời ôm ấp bong hình anh – người chiến sĩ trong binh đoàn tây tiến. bài thơ đã khép lại mà âm điệu của nó vẫn bồi hồi vang vọng trong tâm hồn ta.
có những bài thơ một thời nhưng cũng có một số bài thơ mãi mãi. thơ hay không có tuổi cũng như mùa xuân không ngày tháng. Đó là “đèo cả” của hữu loan, là “nhớ” của hồng nguyên, “ồng chí” của chynh hữu, “tây tiến” ếc ếc ếc ếc ếc ếc ếc ếc ếc ếc ếc ếc ếc. my.
“tây tiến” là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng bảo vệ tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca viῇt nam pháng khời khời . VớI BUTI PHAPP PECAL MạN, VớI CốT CACH Tài Hoa, Phong ộ Hào Hùng của nhà thơ – chiến sĩ, quang dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca và lòng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ng ế ng ng ế ng ng ế ng ng ế ng ng. , của dân tộc việt nam anh hùng. trước linh hồn người liệt sĩ, ta thắp lên nén tâm hương, nghiêng mình với tình cảm biết ơn và kính phục nhà thơ cùng những tình chiến quến quán.
phân tích tây tiến – mẫu 5
tây tiến là một bài thơ xuất sắc, có thể xem là một kiệt tác của quang dũng, xuất hiện ngay trong thời gian ầu của cuộc kháng chiâựpỺn chỿn chỿn. Nhà thơ trần lê văn, người bạn thn, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung vời quang dũng viết về hoàn cảnh quang dũng sáng tonc bài thơ tây tiến như ư ư ư ư
đoàn quân tây tiến, sau một thời gian hoạt ộng ở lào trở về thành lập trung đoàn 52. ại ội trưởng quang dũng ở đó ến Cuti năm 1948 rồi ượ ịn ơ ơó ơn cuuối năm 1948 rồi ượ ược chuy ị ơ ơó ến cuti năm 1948 rồi ượ ược chu. rời xa đơn vị cũ chưa được bao lâu; ngồi ở phù lưu chanh (hà đông) anh viết bài thơ tây tiến.
khoảng cuối mùa xuân năm 1947, quang dũng gia nhập đoàn quân tây tiến. Đó là một ơn vị thành lập vào ầu năm 1947, with nhiệm vụi pHối hợp với bội ội lào, bảo vệ biên giới việt – lào, đánh tiêu hao quân ội pháp ở ỊA Bàn Hoạt ộng của đoàn quân tây tiến khá rộng, bao gồm các tỉnh từ sơn lai châu, hòa bình, miền tây thành hechy sang tận sầm nưa (lào) (r. hiểm trở, núi cao, song sâu, rừng rậm, có nhiều thú dữ.
những người linh tây tiến pHần đông lành niên hà nội, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, Trong đó cả những học sinh, without viên , ốM đau Không Có Thuốc Men, Tử Vong Vì sốt Rét Nhiều Hơn Là vì đánh Tr. Tuy vậy, họn dẫn sống rất lạc quan và chiến ấu rất dũng cảm. sống cực kì gian khổ, họ vẫn giữ ược cái cốt cách hào hoa, thành lịch, rất and ời và cạt.
bài thơ tây tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tính chất bi tráng.
cảm hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi tràn đầy tình cảm cảm xúc của nhà thơ. nó phát huy cao ộ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng ại, những tháp ối lập ể t. p>
thiên nhiên miền tây, qua ngòi bút lãng mạn của quang dũng, ược cảm nhận với vẻ ẹp vừa đa dạng vừa ộc đáo, vừa hùng ƻm vĩ má. hình ảnh những cô gái, những with người miền tây càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Chất Lãng Mạn ượC Thể Hiện chủ yếu cảm hứng hướng tới cai cao cả, sẵn sàng xả thân, hello Sinh tất cả chả cho lír líng chung của cộng ồng, của toàn dân tộc.
tây tiến không hề che giấu cái bi. nhưng bi mà không bi luỵ. cái bi được thể hiện bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng.
chất lãng mạn hòa hợp với chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. ngay từ khi ra đời, tây tiến đã được lưu truyền rộng rãi trong bộ đội và những người yêu thơ. nhưng sau đó, do quan niệm có phần ơn giản và ấu trĩ nên bài thơ này bị coi là mộng rớt, có những rơi rớt của tư tưởng cãng mứ h. vì vậy, trong một thời gian khá dài, tây tiến ít được nhắc đến. Mãi tới thời kì ổi mới, trong xu hướng nhìn nhận lại các giá trị văn học, bài thơ tây tiến mới ược khôi phục lại vị trí của nó trong lịch sử vĂ học. <
bài thơ gồm bốn đoạn thơ:
Đoạn l: những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân tây tiến và khung cảnh thiên nhiên miền tây hùng vĩ, hoang sơ và dữ dội.
Đoạn 2: những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh song nước miền tây thơ mộng.
Đoạn: chân dung của người lính tây tiến.
Đoạn 4: lời thề gắn bó với tây tiến và miền tây.
mạch liên kết giữa các đoạn của bài thơ là mạch cảm xúc. tâm trạng của nhà thơ. bài thơ ược viết trong một nỗi nhớ da diết của quang dũng về ồng ội, về những kỉ niệm của đoàn quey tây tiến liền vớnghng khungh c. bài thơ là những kí ức của quang dũng về tây tiến; những kí ức, những kí niệm ược tái hiện lại một cach tự nhiên, kí ức này gọi kí ức khác, kỉm này khơi dậy kỉmm khác nhưng ợng ợng ợng ợng s. ngòi Bút tinh tế và tài hoa của quang dũng đã làm choc
cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi nhớ (2) da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:
“sông mã xa rồi tây tiến ơi! nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi sài khao sương lấp đoàn quân mỏi mường lát hoa về trong đêm hơi”
nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. hai chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hoá nỗi nhớ; khơi nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày, liên tiếp xuất hiện những câu thơ sau:
“dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm. heo hút cồn mây, súng ngửi trời ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống nhà ai pha luông mưa xa khơi”
khổ thơ này là một bằng chứng trong thơ có hoạ (thi trung hữu hoạ) (3). Chỉ Bằng bốn câu thơ, quang dũng đã vẽ ra một bức tranh hoành trang diễn tả rất ạt sựmmm trở và dữi dội, hoang và heo hút của no rừng miiền tây – đa bàn ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ hai câu thơ ầu, những từ ầy giá trị tạo hình khúc khuỷu, thăm thẳm, cồn mây, súng ngửi trời điền tật ắc ịa sựm . hai chữ “ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh nghịch của ngưhời lín. núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn “heo hút”. người lính trèo lên những ngọn núi cao dường như đang đi trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tảc dốc noui vút lên, ổ xuống gần như thẳng ứng, nhìn lên cao chót vot, nhìn xuống m sâu thẳng ọc câu thứ tư tư tư tư tư tư tư tư DốC NUM, Phone TầM MắT NGANG RA XA qua một không gian mịt mùng sương rừng, mưa noui, thấy thấp thoagang những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi giữa biển khơi.
bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng đặc biệt. sau ba câu thơ được vẽ bằng những net gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một net rất mềm mại (câu thứ tưto bạn thàn). quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một màu lạnh làm dịuạimá máimá.
sự Trùng điệp của no của nó lại gợi nhớ tới câu thơ trong bài thục ạo nan của lý bạch: “ường xứ thục khó đi, khó hơn cả lên trời xanh” (thục ạ ).
.
cái vẻ hoang dại, dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng miền tây được nhà thơ tiếp tục khai thác. nó không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đới with
“chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”
<p những tên đất lạ (sài khao, mường lát, pha luông, mường hịch), những hình ảnh giàu giá trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả, nhọc nhằn được xoa dịu bằng những câu có nhiều vần Bằng ớ cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật Ăn ý, làm hiện hình thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa ộc đao của no rừng mii tềc.
Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
“nhớ ôi tây tiến thơ lên khói mai châu mùa em thơm nếp xôi”
cảnh tượng thật đầm ấm. sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo, những người lính tạm dừng chân, ược nghỉi ở một bản quàn làng n. khói còn nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua tan vẻ mệt mỏi trên gương mặt những người lính, khiến họ tươi tỉnh lên. hai câu thơ này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuẩn bị tâm thế cho người đọc buồi sang đoạn thơ thứ hai.
Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác của miền tây. cảnh núi rừng hoang vu hiểm trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng cềy. những nét vẽ bạo, khỏe, gân guốc ở đoạn thơ ầu, ến đoạn thơ này ược thay bằng những nét mềm mết.n, chuyển, ore thơ này.
hồn thơ lãng mạn của quang dũng bị hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn của with người và cảnh vật xa ng, nơi x. cảnh ấy, người ấy ược hiện lên trong một khoảng thời gian làm nổi lên rõ nhất vẻ linh, huyền ảo của nó: cảnh một đm liên hoan lửa đuốc bập bùp bù /p>
“doanh trại bừng lên hội đuốc hoa. kìa em xiêm áo tự bao giờ khèn lên man điệu nàng e ấp nhạc về viên chăn xây hồn thơ”
cả doanh trại “bừng sáng”, tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. TRONG ANH SÁG LUNG LINH CủA LửA đUốC, TRONG âM THANH RÉO RắT CủA TIếNG KHèN, Cả CảNH VậT, Cả WITH NGườI ềU NHư NGả NGHIêng, ảR NG.C MEN SAY, ảR NG.C MEN SAY. hai chữ “kìa em” thể hiện một cái nhìn vừa ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vừa mê say, vui sướng. NHân Vật Trung Tâm, Linh Hồn Của đêm văn nGhệ Là những cô Gái nơi nosi rừng miền tây bất ngờ hiện ra trong những bộ xim ála lộng lẫy (“xiêm áo tự bao, vừ”, vừ ” “,”, “,”, “,”, “,”, “,” “,”, “,”, v. nàng e ấp”) trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ (“man điệu”) đã thu hút cả hồn via những chàng trai tây tiến.
nếu cảnh một đêm liên hoan đem ến cho người ọc không khí mê Say, ngây ngất, thì cảnh sông nước miền tây lại gợi lên ược cảm g g g g g g of m. thelos
“người đi châu mộc chiều sương ấy có thấy hồn lau nẻo bến bờ có nhớ dáng người trên độc mộc trôi dòng nướa lİ>
không gian dòng song trong một buổi chiều giăng mắc một màu sương. song nước, bến bờ lặng tờ, hoang dại như thời tiền sử. trên dòng song ậm màu sắc cổ tích, huyền thoại ấy, nổi bật lên dáng hình mềm mại, uyển chuyển của một cô gái thái trên chiộcỿc thuy. và như hòa hợp với with người, những bông hoa rừng cũng “đong đưa” làm duyên trên dòng nước lũ.
ngòi bút tài hoa của quang dũng không tả mà chỉ gợi cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngòi bút của ông như có hồn phảng phất trong gió, trongấ có. Ông không chỉ làm hiển hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn gợi lên cái phần thiêng liêng củnha cập
Đọc đoạn thơ này, ta như lạc vào thế giới của cải đẹp, thế giới của cõi mơ, của âm nhạc (4). bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như nhạc điệu cất lên từ tâm hồn ngây ngất, say mê của những người ỿh tây. hơn ở đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà tách biệt. với ý nghĩa đó, xuân diệu có lí khi cho rằng đọc bài thơ tây tiến, ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng.
trên cai nền hùng vĩ, hiểm trở, dữi của no rừng (ở đoạn một) và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ của miền tây những người lính tây tiến xuất hiện với một vẻ đẹp đầy chất bi tráng:
“tây tiến đoàn binh không mọc tóc ………. Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
quang dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất của những người linh tây t ểển ểểc nên bức tượng đài tập thể ược gươt. Cái Bi Và Cái Hùng là hai chất liệu chủ yếu của bức tượng đài, chung hòa quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng ỡ nhau tạo nên vẻp bi tráng – thm ứng đNg đ nhau tạo nên vẻ >
thơ ca thời kì kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. chính hữu trong bài Đồng chí đã trực tiếp miêu tả căn bệnh ấy:
“anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”
còn tố hữu, khi vẽ chân dung anh vệc quân trong bài ca nước với những hình ảnh thật cụ thể: giọt giọt mồ hôi rơi, – trên má anh vàng Che giấu những gian khổ, khó khĂn, những cănh hiểm nghèo và sự hi sin sinh lớn lao của người linh. Chỉcc một ãi nhìnủn lng màc m. những cái ầu không mọc tóc của những người lynh tây tiến đu phải là hình ảnh ly kì, giật gân, sản phẩm trí tưởng tượng xa rờc tự củtm. những người lính tây tiến, người thì cạo trọc ầu ể thuận tiện khi đánh nhau giáp la cà với ịch, người thì bị sốt rér ến rụng tóc, trọc ầu. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt relet về oai phong, dữn của những with hổng thiêng. sự oai phong lẫm liệt ấy còn ược thể hi ện qua ang mắt giận dữ (mắt trừng gửi mộng) của họ. phải là những người khổng lồ không tim. cai nhìn nhiều chiều của quang dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cai vẻ oai hùng, dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồnn, những trai tim rực, khá đ đ đ ươ ươ ươ ). như vậy, trong khổ thơ này, quang dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người lính tây tiến không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bên ngoài mà còn thể hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
ngòi bút của quang dũng khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính tây tiến không hề nhấn chìm người đọc vho ƥy. cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của hình tượng, của tinh thần lãng mạn. chynh vì vậy mà cái bi thương ược gợi lên qua hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giạnh lẽo, xa xa xa, đct. trang trọng: “rải rác biên cương mồ viễn xứ”; MặT KHÁC, CHYNH CAI BI THươNG ấY CũNG LạI Bị Mờ đI TRướC Lí tưởng quên mình, xả thân vì tổc của những người linh tây tiến Chói ngời vẻ ẹp lí tưởng, mang dáng dấp của những trang sĩ thuở xưa, coi cai cho ết nhẹ như lông h hồng. , qua cai nhìn của quang dũng, lại ược bọc trong những tấm áo bào sag trọng (5). Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cach nói giảm (anh về ất), và rồi bị át hẳn của dong song mã:
“Áo bào thay chiếu anh về đất song mã gầm lên khúc độc hành.”
trong âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hola sinh của người lính tây tiến không bi luỵ mà thấm bihẫm trán. <
giọng điệu chủ ạo của đoạn thơ thứ ba này trag trọng, thể hiện tình cảm đau thương vôn hạn và sự trân trọng, kính cẩn của nhà thơc sự hinh củ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ ộ
bài thơ khép lại bằng bốn câu thơ, một lần nữa, tô đậm thêm không khí chung của một thời tây tiến, tinh thần chung của nghờty. nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng linh hồn của đoạn thơ thì vẫn toát lên vẻ hào hùng:
“tây tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi. ai lên tây tiến mùa xuân ấy hồn về sầm nứa chẳng về xuôi.”
cái tinh thần “một đi không trở lại” (nhất khứ bất phục hoàn) thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm của cả, đoàn and tiân. tâm hồn, tình cảm của những người lính tây tiến vẫn gắn bó máu thịt với những ngày, những nơi mà tây tiến đã đi qua. “tây tiến mùa xuân ấy” đã thành thời điểm một đi không trở lại.
lịch sử dân tộc sẽ không bao giờ lặp lại cai thời mơ mộng, lãng mạn, hào hùng ến nhường ấy trong một hoàn cảnh khó khĂn, gian khổ, khh ốt ết ết ết ật ậy.
………….
phân tích bài thơ tây tiến ngắn gọn
phân tích bài tây tiến – mẫu 1
quang dũng là nhà thơ tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. với lời thơ hào hùng, lãng mạn những sáng tác của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. và “tây tiến” là một trong những tác phẩm như thế.
tây tiến là tên của một đoàn quân với đa số là những chàng trai sinh viên hà thành. Đoàn quân được thành lập đầu năm 1947 và đại đội trưởng không ai khác chính là quang dũng. cuối 1948, quang dũng chuyển sang đơn vị khác. tại làng phù lưu chanh, ông viết bài thơ” nhớ tây tiến” sau in trong “mây đầu ô” đổi tên thành tây tiến. nổi bật của tác phẩm là cảm hứng lãng mạn và bi tráng của từng câu thơ. mở đầu tác phẩm là nỗi nhớ miên man trải dài.
“sông mã xa rồi, tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
tác giả gọi tên dòng song mã- một nhân chứng theo suốt bước chân hành quân của đoàn quân. quang dũng nhớ về đồng đội, “nhớ về rừng núi”. nỗi nhớ ấy cứ cồn cào, da diết để rồi bật lên thành tiếng gọi “tây tiến ơi”. Đặc sắc nghệ thuật của hai câu thơ đầu chính là cách gieo vần “ơi” và từ láy “chơi vơi”. bằng sự thành công của đặc sắc ấy, nhà thơ đã diễn tả hết được nỗi lòng của mình. nỗi nhớ của ông cứ miên man, cồn cào, da diết khôn nguôi. nỗi nhớ từ tận đáy lòng rồi bật lên vang vọng.
nhớ về tây tiến là nhớ đến những khó khăn gian khổ suốt chặng đường hành quân. một loạt các địa danh được nhà thơ nhắc đến ở những câu tiếp: sài khao, mường lát, pha luông, mường hịch, mai châu. Đây đều là những địa danh heo hút, hoang vu, là những minh chứng cho chặng đường đầy gian khổ của người lính tây tiến.
“sài khao sương lấp đoàn quân mỏi mường lát hoa về trong đêm hơi”
hai câu thơ này thể hiện rất rõ cảm hứng lãng mạn trong thơ của quang dũng. trong đêm lạnh ở vùng cao, sương giăng phủ kín, mặc dù đã “mỏi” nhưng con đường hành quân hiện ra vẫn đẹp, vẫn thơ mềhêng “hoa” những câu thơ tiếp theo thể hiện rõ sự khắc nghiệt của thiên nhiên trên đường hành quân. một loạt các từ ngữ diễn tả sự gập ghềnh của hành trình ấy đã diễn tả một cach chân thực vềc về thiên nhiên hoang sơn ni rừng no: “câu thơ thật rõ sự gập ghềnh của núi, củnga chặ Điều đó càng được tăng lên gấp bội nhờ “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”. chặng đường ấy cứ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau. thế nhưng trước thiên nhiên hoang sơ kì vĩ ấy là hình ảnh “sung ngửi trời”. Đây là một hình ảnh tuyệt đẹp, lãng mạn của chàng lính tây tiến. giữa núi rừng thiên nhiên hùng vĩ, người chiến sĩ vác súng trên vai. câu thơ giúp người đọc cảm thấy như Mũi súngc có thể chạm ến ỉnh trời. giữa thiên nhiên hoang sơ ấy, tinh thần người chiến sĩ vẫn rất vững vàng:
“anh bạn dãi dầu không bước nữa ………… Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”
bằng ngòi bút chân thực, quang dũng đã tái hiện sự thật đau thương của cuộc hành quân. Đã biết bao người đã ra đi “anh bạn dãi dầu không bước nữa”. nhưng hình ảnh ấy qua lời thơ quang dũng không hề bi thương mà hào hùng “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. người chiến sĩ hào hùng hi sinh bên súng mũ trong tư thế hiên ngang “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. hình ảnh người chiến sĩ hi sinh đã đi sâu vào lòng người đọc cho đến tận ngày nay. quả đúng không ngoa “tượng đài tự do được xây bằng máu và nước mắt”. những khó khăn mới lại đến với đoàn quân. Đó là hiểm nguy rừng núi, chốn hoang sơ luôn rình rập “cọp trêu người”, “thác gầm thét”. nhưng không vì thế mà người lính tây tiến nao núng. trái lại họ còn lạc quan nhớ đến sự ấm áp của con người nơi đây “nhớ ôi tây tiến cơm lên khói-mai châu mùa em thơm xôi”. cặp từ sáng tạo “mùa em” đã chứa bao tình thương nỗi nhớ của tác giả.
thơ quang dũng đâu chỉ có hiện thực khắc nghiệt mà còn có phút lãng mạn, vui tươi:
“doanh trại bừng lên hội đuốc hoa …….. trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Đoạn thơ này làm thay đổi không khí của toàn bài. với âm hưởng vui tươi lạc quan, tác giả đã cho người đọc thấy sự hào hoa của người lính tây tiến. Đêm liên hoan văn nghệ thắm đượm tình dân quân đã in hằn trong tâm trí quang dũng khiến ông không thể nào quên. hình ảnh những cô gái thái xinh đẹp trong xiêm áo, e ấp trong điệu nhạc tiếng khèn, đã khiến người lính phải ngỡ ngàng “kìa em”. bằng tâm hồn lãng mạn, nhà thơ đã vẽ lên viễn cảnh mơ mộng của châu mộc trong chiều sương với “hồn lau”, “hoa đong đưa”. phải chăng bông hoa ấy chính là hình ảnh cô lái đò trên dòng nước lũ? net duyên dáng thơ ngây của with người và cảnh vật đã được vẽ thành bức họa tuyệt trần qua thơ của quang dũng.
nối tiếp mạch thơ là hình ảnh người lính tây tiến với vẻ đẹp kì dị, lạ lùng:
“tây tiến đoàn binh không mọc tóc quân xanh màu lá dữ oai hùm mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
bút pháp tả thực lại một lần nữa được quang dũng thực hiện triệt để. “Đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” là kết quả của những trận sốt rét rừng. thời kì này, chiến sĩ của ta chiến ấu trong hoàn cảnh hết sức khó khĂn, thiếu thốn lương thực, thuốc men, ngay cả trang bị chiến ấu “áo anh rách vày -cu Chết bệnh còn hơn chết trận. nhưng dù với dáng vẻ như vậy, người linh tây tiến vẫn hiên ngang, uy hùng không hề yếu ớt ”dữ oai hùm”, “mắt trừng.” Bi Tráng của nhà thơ. quyết tâm giết giặc “gửi mộng qua biên giới” không làm giảm sự lãng mạn của người linh.
“rải rác biên cương mồ viễn xứ chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh Áo bào thay chiếu anh về đất song mã gầm lên khúc độc hà
một mùi chết chóc sực lên ở đoạn thơ này. một màu sắc ảm đạm, uất bao trùm khổ thơ. nhưng dưới ngòi bút của quang dũng, nó hiện lên bi tráng mà không bi lụy. cái chí khí của người lính đã được bộc lộ rõ ràng. họ quyết tâm đi “chẳng tiếc đời xanh” để đem lại nền độc lập cho dân tộc. họ ngã xuống nhưng vẫn mang trong mình bầu máu nóng nhiệt huyết. “Áo bào thay chiếu anh về đất” như một cách nói giảm nói tránh. người chiến sĩ ngã xuống là về với đất mẹ bao la. một lần nữa, hình ảnh song mã lại hiện lên như tiễn đưa linh hồn người lính.
“tây tiến người đi không hẹn ước Đường đi thăm thẳm một chia phôi ai lên tây tiến mùa xuân ấy hồn về ề nỳ vôp”
quang dũng một lần nữa khẳng định ý chí sắt đá của người lính tây tiến. họ ra đi không hề “hẹn ước”. họ đã ra đi không hẹn ngày trở về, họ quyết tâm giành lại độc lập cho dân tộc.
bằng bút pháp nghệ thuật tả thực cùng cảm hứng lãng mạn, quang dũng đã tạo ra một thi phẩm tuyệt vời. chân dung người lính tây tiến đã được khắc họa rất rõ qua lời thơ và nỗi nhớ của tác giả dành cho tiểu đội của mình. quả thực, “tây tiến” xứng đáng là bản anh hùng ca của chùm thơ cách mạng việt nam thời bấy giờ.
phân tích bài tây tiến – mẫu 2
thiên nhiên núi rừng tây bắc thơ mộng trữ tình là thế nhưng ẩn sau đó là vẻ hoang sơ với đầy những hiểm nguy đang rìp. trước cảnh hùng vĩ của non nước, hình tượng người línnh tây tiến của quang dũng hiện lên như một tượng đài bất diệt dũng, mang vẹp vẻ h. bài thơ tây tiến đã tái hiện chân thực lại sự tàn khốc của chiến tranh, những gian lao vất vả mà người lính phải trải qua trêng khến chẻn chẻ. thế nhưng chưa bao giờ họ lùi bước trước khó khĂn thử toch, những người linh vĩi ại ấy vẫn sống lạc quan yêu ời và chiến ấu anh dũng kiên cường.
quang dũng (1921 – 1988) tên thật là bùi Đình diệm, quê gốc ở hà tây (nay là hà nội). Ông là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. thế nhưng nhắc ến quang dũng trước hết phải một nhà thơ tài hoa, giọng thơ ông vừa hồn nhiên, tinh tế lại không kém phần bin lãg hần hầ mạ. những sáng tác chính của ông gồm có: mây đầu ô (1986), thơ văn quang dũng (1988). năm 1948, quang dũng chuyển sang ơn vị khác, tại phù lưu chanhông đã viết nên bài thơ nhớ tây tiến sau ổi tên thành tây tiến và trong tợc in.
mở ầu bài thơ tác giả đã tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên miền tây hùng vĩ, hoang sơ mà mĩ lệ c cuar. những người lính trẻ chẳng ngại hiểm nguy họ cứ tiến về phía trước với tinh thần hồn nhiên, lạc quan của tuổi trẻ :
“sông mã xa rồi tây tiến ơi! …….
mai châu mùa em thơm nếp xôi ”
cảm xúc chủ đạo xuyên suốt tác phẩm đó là nỗi nhớ da diết của tác giả khi nghĩ về những kỷ niệm xưa, tại đƩa cn v. “Sông Mã xa rồi tây tiến ơi” câu thơ cất lên như tiếng lòng nhà thơ, tiếng gọi tha thiết ầy tiếc nuối và chứa ựng ầy những hoài niệm trong qua khứ hu nhà thơ nhớ tây tiến bằng nỗi nhớ “chơi vơi” thật da diết, mênh mông và sâu nặng. nỗi nhớ luôn thường trực, bao trùm lên cả không gian và trái tim người lính.
bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sống ộng với những ịa danh “sông mã”, “sài khao”, “mường lát”, “pha luông”, “mường hịch”, “mai cheh đđ đ đắ” bó với binh đoàn, là địa bàn hành quân của những người lính tây tiến. Một vùng ất xa xôi, hiểm trở nhiều lần tưởng chừng như làm lu mờ ý chí chiến ấu của người linh cụ hồ, “sương lấp đoàn quân mỏi” ị quân đang mệt mỏi giờ đây lại phải đối diện với cái lạnh cắt da của tây bắc. Địa hình núi non hiểm trở “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” đoạn đường đi cũng chẳng bằng phẳng dễ dàng, có đoạn lên cao gập ghềnh khúc khuỷu, có khi lại “thăm thẳm” như vực sâu chỉ cần một phút lơ đãng người lính có thể bỏ mạng ngay tức khắc. sương dày che lấp tầm nhìn, ường đi nhỏ quanh co lại thêm sự trơn trượt của mặt ất, đoàn quân vẫn đi trong gian khổ từtt mưaannn rơi rơi xuống phảt c ct ct ct. quang dũng vận dụng nghệ thuật đối lập một cách tài tình để miêu tả sự dữ dội của núi rừng tây bắc “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” những câu thơ sinh động đầy sáng tạo gợi ra trước mắt người đọc khung cảnh cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng, bí hiểm với đầy rẫy những hiểm nguy “oai linh thác gầm thét”, đêm đêm “cọp trêu người”.
quả là một nơi “rừng thiêng nước ộc” thế nhưng những khó khĂn ấy cũng chẳng thể nào cản bước chân người linh, họ vẫn đi với sự anh một vùng đất thơ mộng trữ tình và chứa chan tình người. những hình ảnh “hoa về trong đêm hơi”, “mưa xa khơi” thật huyền ảo tạo xúc cảm thư thái, nhẹ nhàng cho người đọc. người dân miền tây hiện lên thật giản dị, nghĩa tình, họ gắn bó với cách mạng, yêu thương che chở cho những người tây
quang dũng miêu tả thiên nhiên noui rừng rộng lớn mênh mông, hiểm trở như thế chynh là ể ểi nổi bật lên hình tượng người lynh trên chặng ường họnh c ọnh c ọnh c ọ Đoàn quân đã đi Ròng rã hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” là cách nói gi ảm, nói tránh của quang dũng, có những người lynh đ hy sinh nơi chiến trường chến chến. tác giả nhắc đến cái chết một cách gián tiếp để tránh gây nỗi đau qua sâu sắc, làm giảm di ý chí chiến đấu của đoàn quân. những người lính thật đáng khâm phục họ sẵn sàng hy sinh quên mình cho tổ quốc, họ trẻ trung ngang tàn và rất yêu ời “gục lên súng mỏ mũ b”. cái chết nhẹ tựa lông hồng chẳng thể làm người lính run sợ, tâm hồn họ vẫn bay bổng tinh nghịch xen lẫn sự lãng mạn tài hoa.
những khổ thơ tiếp theo tac giả gợi nhớ vềng kỷ niệm ẹp, sâu nặng của tình quân và dân trong những đêm liêng hoban tƈhi: ựn nhữn liên hoan tƈhi: ựn>
“doanh trại bừng lên hội đuốc hoa ……… trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
binh đoàn tây tiến gắn bó với chiến trường suốt nhiều năm trời, có biết bao kỷ niệm hằn sâu trong tâm hồn mỗi with người. Sau những ngày chiến ấu vất vả, gian lao “doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” những chàng trai cô gái nắm tay nhy điệu nhạc “e ấp” , bí ẩn cócht hoang dại làm say ắm tâm hồn biết bao người linh trẻ hào hoa, lã nơ tử hà. cùng với đó là cảnh sông nước tây bắc một chiều sương thật lãng lãng mạn
đoàn binh tiếp tục cuộc hành quân chiến ấu, những người linh ược tac giả khắc họa như những tượng dài hiên ngang bất diệt, chân dung họn hện lên với vẻi ẹ /p>
“tây tiến đoàn binh không mọc tóc ,………… song mã gầm lên khúc độc hành”
chất bi tráng lẫm liệt ược thể hi với khí thế ngút trời “tây tiến đoàn binh không mọc tóc” bệnh sốt relet hoành hành, da có xanh nhợt chiến đấu. người lính khoác trên mình bộ quân phục màu xanh lá mang theo bao ước mơ, hy vọng vào một tương lai tươi sáng, một đất nướân khthông qubón. “mắt trừng”, “dữ oai hùm” thể hiện khí thế ngang tàn, mạnh mẽ khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ. thế nhưng đau xót thay, người lynh tây tiến cũng co khi bỏ mạng nơi chiến trường “rải Rác biên cương mồ viễn xỏ”, những nấm mồ vô n dani biên gi ễ n ẻ ẻ ẻ ẻ ẻ Mẹ Già đang Trông ngóng nơi quê hương yêu dấu. thương đưa tiễn, dòng sông mã lại xuất hiện cuối bài như tấm lòng trân trọng của nhà thơ muốn gửi gắm tiễn đưa người lính ở những phút giây cuối đời, những người lính vô danh ấy đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường khốc liệt
chân dung người lính còn được tác giả miêu tả qua vẻ hào hoa, lãng tử. họ đều là những chàng trai thành phố vì nghiệp lớn mà rời bỏ nơi nơi phồn hoa đô thị. những chàng ấy đang còn tuổi trẻ rạo rực với những mộng tưởng, khát khao yêu ương “gửi mộng qua biên giới”, họ mơ về hônà hữgá. tất cả tạo nên một hình ảnh người lính trẻ trung, yêu đời với những khát khao hạnh phúc mãnh liệt của tuổi trẻ.
đoạn thơ cuối vang lên mạnh mẽ, quyết liệt như lời khẳng ịnh quyết tâm của đoàn binh, đó cũng là lời thề trung thành với t
“tây tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi ai lên tây tiến mùa xuân ấy hồn về ều xuân.”</ầm xuầm.
người linh tây tiến kiên cường, tự tin thể hi một tinh thần chiến ấu ầy nhiệt huyết “người đi không hẹn ước”, họ r đi chẳng hẹn ngày trở cho tổ quốc, cho độc lập dân tộc. Dù Biết chặng ường cor “thăm thẳm” Chia pHôi thế nhưng người linh đã thề với ất nước một lời thề sắc are “hồn vềm nứa chẳng về xuôi”. tâm hồn người lynh dường như đã vượt qua những mơ ước ca nhân tầm thường, giờ đy họ mang trên vai mình trọng trach sứnh vô vông to lớn: sẵng chi ấn ến ến ến p>
tây tiến là bài thơ đặc sắc nhất gop phần đưa tên tuổi quang dũng lên một tầm cao mới của nghệ thuật. VớI NGòi Bút Tài Hoa, Lãng Mạn Của Mình Quang dũng đã Xây Dựng Thành Công Hình Tượng Người Lính Vừa Bi Tráng Vừa Tài Hoa, Hai Chất Thơ ấy không thể tách tách tách rời m. hình tượng thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ được xây dựng làm nền góp phần tô đậm vẻ đẹp của người linh tây tiến lđi.
phân tích bài tây tiến – mẫu 3
quang dũng là một nhà thơ rất ặc biệt, bởi ông không chỉ là một nhà thơ cầm bút sáng tac mà còn là một người ông không chỉ là một nhà thơ cầm bút sáng sáng sáng tá. dog. có lẽ bởi vì vì vậy mà những bài thơ của quang dũng luôn gắn liền với hình ảnh những người lính, cũng là những người đồng cô. nổi bật nhất trong các sáng tác của ông là bài thơ tây tiến. với bút pháp lãng mạn xen lẫn với tả thực, bài thơ đã khắc họa thật thành công hình ảnh đoàn binh tây tiến với khí thhn ng.
mở đầu bài thơ là tiếng gọi tha thiết với đoàn quân của mình được vang lên trong tâm thức của nhà thơ:
‘sông mã xa rồi, tây tiến ơi! nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
nhớ về ồng ội của mình, nhà thơ nhớ ngay ến with sông mã, nó là with sông đã cùng những người chiến sĩ đi qua bao khó khĂn, thatch, l àng nh ử đ đ đ đ đ đ đ oai hùng của các anh. bởi lẽ, dòng sông mã là con sông chảy dọc theo một loạt các ịa điểm mà những người linth hành quân ở vùng biên giới phía bắc: lai châu, lào cai, sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơng sơn. mỗi một nơi dừng chân mà người lính đi qua, họ có thể không nhớ hết nhưng hình ảnh with song luôn in hằn trong tâm thức của nghững nhƻn. nhớ về song mã, nhà thơ cất tiếng gọi thân thương: “tây tiến ơi!” nỗi nhớ như tràn về, nhà thơ nhớ noui rừng, nhớng người bạn ồng hành Trong những nĂm thang gian lao lao, một nỗi nhớ chơi vơi không nắm bắt ượược. bao nhiêu kỉ niệm dần hiện lên trong trí nhớ của quang dũng:
“sài khao sương lấp đoàn quân mỏi mường lát hoa về trong đêm hơi.”
nếu ở hai câu thơ ầu, khi kí ức chưa riqu ràng, nhà thơ nhớ về hình ảnh hi hi hữu nhiều nhất là with sông mã thì ở đy, mọi thứ đ ần hi ra rõ né. tác giả nhắc lại những tên làng, tên bản, nơi những người chiến sĩ dừng chân. Đêm xuống, đoàn binh tây tiến đã thấm mệt sau cả một ngày dài chinh chiến. trong kho ảnh khắc dừng chân ngắn ngủi, người lính vẫn cảm nhận ược thiên nhiên, núi rừng tây bắc thật mộng, trữ tình vữt “mưlám hong trong.
những chặng đường hành quân khó khăn, gian khổ khiến người lính mỏi mệt được khắc họa ở các câu thơ tiếp theo:
“dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm heo hút cồn mây súng ngửi trời ngàn thước lên cao ngàn thước xuống nhà ai pha luông mơi” x a kh
nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” như vẽ lên một khung cảnh thiên nhihn với ịa hình hi. núi rừng tây bắc hoang vu, khó lường với những khó khăn chồng chất dọc trên đường hành quân của người lính. nhà thơ đã rất khéo léo khi sử dụng biện phapp nGhệ thuật ối lập: “ngàn thước lên cao” – “ngàn thước xuống”, gợi tả ộ ộ ộ ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể ể . hậu quả khôn lường. nhưng trong khó khăn ấy, qua with mắt của người lính, ta vẫn thấy có chút gì đó thật thơ mộng “súng ngửi trời”. Ứng trên ộ cao có thể nhìn thấy mọi cảnh vật, người linh đánh mắt nhìn ra pHía xa, Thy một căn nhà của bản làng như là nỗi nhớ với quê hương của Mayh “
phải chịu đựng vô vàn những thách thức, đã có lúc người lính gục xuống:
“anh bạn dãi dầu không bước nữa gục lên súng mũ bỏ quên đời”
cụm từ “bỏ quên ời” cho thấy khí thế bất khuất, oai hùng của các sh, trong phút giây nghỉ chân dọc ường, người lynh quên hết mọi âu lo bộn bền củ củc sốc sốc sốc sốc. hình ảnh thơ còn ngụ ý nói ến cái chết của những người lính, họ đã hi sinh vì tổ quốc nhưng nhà thơ lại miêu tả sự hi sinh ấty. những tưởng bao khó khĂn của người linh chỉng lại ở đó, nhưng quang dũng còn Hé lộ thêm cho người ọc những hiểm nguy khonc mà đoàn binh tiến ốtối ối ối ối ối ố
“chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm mường hịch cọp trêu người”
“thác gầm thét” và “cọp trêu người” là hai hình ảnh nhân hóa khắc họa những hiểm nguy đe dọa tính mạng người lính. vượt lên nghịch cảnh đó, người chiến sĩ nhớ đến những gì đã thúc đẩy các anh có động lực để bước tiếp:
“nhớ ôi tây tiến cơm lên khói mai châu mùa em thơm nếp xôi”
hai câu thơ cuối của khổ thơ đầu tiên là hình ảnh thơ đầy thi vị. nỗi nhớ lại cất thành lời “nhớ ôi” là một nỗi nhớ da diết của người lynh, các anh nhớ về những bữa cơm thơm mùi . dù thiếu thốn nhưng họ vẫn chiêu đãi các anh bằng những gì chân thành nhất, làm sao quên ược những bữa cơm thắm ượm tình chỉ dân – quán.
khổ thứ hai của bài thơ là những kỉ niệm của người lính trong đêm liên hoan văn nghệ:
“doanh trại bừng lên ngọn đuốc hoa kìa em xiêm áo tự bao giờ khèn lên man điệu nàng e ấp nhạc về viêng chăn xây hồn thơ”
cụm từ “bừng lên” gợi tả một không khí vui tươi, náo nhiệt, những người chiến sĩ cùng với người dân thắp sáng ngọn liọn đlọn đlả. câu chữ, lời thơ tình tứ “kìa em” cho thấy cách xưng hô thân mật, gợi tả tình cảm thắm thiết giữa quân và dân. người lính say mê những khúc hát, điệu nhảy của người dân tộc ở nơi đây. Đó là những khúc hát dân ca thái, dân ca lào. tất cả như xây đắp nên tâm hồn người lính, khiến cho họ trở nên lãng mạn, bay bổng hơn bao giờ hết. chất thơ của người chiến sĩ được thể hiện qua cái nhìn với thiên nhiên ở 4 câu thơ tiếp theo:
“người đi châu mộc chiều sương ấy có thấy hồn lau nẻo bến bờ có nhớ dáng người trên độc mộc trôi dòng nướa lİ>
hình ảnh “người đi” là sự chia tay của người lính với những người dân đã cưu mang họ, người lính ra đi trong một chiờu mờu. trong làn sương ấy thấp thoáng những hình ảnh “cỏ lau”, “dáng người trên độc mộc” và đặc biệt là hình ảnh “hoa đong đưa”. thiên nhiên hiện lên thật buồn, đó là nỗi buồn man mác, lưu luyến khi phải chia xa. người lính phải tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ.
nhà thơ quang dũng miêu tả hình ảnh chân dung người lính tây tiến thật ngang tàn ở khổ thơ cuối:
“tây tiến đoàn binh không mọc tóc quân xanh màu lá dữ oai hùm mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
chân dung người lính hiện lên thật khác lạ “không mọc tóc”. nhà thơ đã ảo từ “không” lên phía trước, cách nói “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc” cho thấy tinh thần bất khuất, hiên ngang Ὼn của. quân xanh màu lá ngụ ý chỉ làn da xanh xao của họ. NHư VậY, NGườI LINH PHảI CHịU NHữNG CơN SốT RÉT RừNG, KHIếN CHO Làn da của họ không còn hồng hào mà trở nên xanh xao, gầy guộc c cùng với máó tóc rụng hết. trong hiện thực tàn khốc đó, người lính vẫn thản nhiên, ung dung với khí thế ngang tàn, không thèm mọc tóc.
nhưng nhà thơ quang dũng không chỉ miêu tả chân dung người lính tây tiến mà còn cho thấy tâm hồn của họ:
“mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm”
người lính nhớ về quê hương tha thiết. Khi nhớ về quê hương, trong tâm thức của người chiến sĩ hi hìr hình ảnh “dáng kiều thơm”, đó có lẽ là hình ảnh người and, người đang ngóng ngày họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ họ nhưng họ cũng chẳng rõ ngày mình trở về có được toàn vẹn hay không:
“rải rác biên cương mồ viễn xứ ……….. hồn về sầm nứa chẳng về xuôi”
cái chết, sự ra đi vì quê hương, đất nước là minh chứng cho việc các anh đã chiến đấu hết mình. Ở nơi chiến trường kia, biết bao người lính đã hy sinh không tiếc tuổi xuân của mình cho dân tộc. Hình ảnh “Áo Bào Thay Chiếu” Cho Thấy sự tiếc thương của nhà thơ dành cho họ, các shat đã yên tâm vềi với ất mẹ thân thương, ể ược ất mẹ chở che mé mãi mãi. chứng kiến chặng ường của người lính, nay lại chứng kiến cả cái chết của các anh, sông mã như gầm lên đau xót, tiếng thérg tic lêning tin man tig tiư man. nhưng dù có biết trước rằng mình có thể sẽ hy sinh, người lynh tây tiến vẫn chẳng thể nào bỏ cuộc, bởi thiên nhiên núiâđừng t.
“ai lên tây tiến mùa xuân ấy hồn về sầm nứa chẳng về xuôi.”
bài thơ tây tiến với ba khổ thơ, lần lượt khắc họa những khó khăn, những khoảnh khắc vui tươi cũng ần ần dmng hàlín tân. qua đó làm hiện lên cho ta hình ảnh một đoàn binh oai hùng, bất khuất trong thời kì chiến tranh. ta thầm cảm ơn những anh hùng ấy vì đã chiến đấu ngoan cường, đem về cho đất nước nền độc lập như ngày hôm nay.
phân tích tây tiến – mẫu 4
chiến tranh, người lính luôn là đề tài không bai giờ cũ đối với những nghệ sỹ thời chiến. chúng ta bắt gặp hình ảnh những người lính trong “Đồng chí” của chính hữu, “bài thơ về tiểu đội xe không kính” của phạm tiếtn. nhưng có lẽ ấn tượng, trữ tình và chân thực là hình ảnh người lính trong bài thơ “tây tiến” của quang dũng. với cách khắc họa hình tượng người lynh ththnh công, người ọc đã không thể quên ược hình ảnh những người lính cụ hồồ khánchín fencing
bài thơ cũng chính là nỗi nhớ của chính tác giả về những năm tháng chiến tranh ác liệt nơi chiến trường xưa. bài thơ được mở đầu bằng một tiếng gọi tha thiết:
sông mã xa rồi tây tiến ơi nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
phù lao chanh là mảnh đất mà trước đây đoàn quân đã từng đi qua. quang dũng cùng rất nhiều thanh niên khác ở hà thành đã xếp but nghiên lên đường ra chiến trường theo tiếng gọi của tổ quốc. câu thơ cất lên như một tiếng gọi tha thiết về qua khứ từng trải qua. song mã là with song lớn, in dấu nhiều cuộc chiến tranh đổ lửa cũng như để lại bao nhiêu hoài niệm thời xa vắng của tác giả. nỗi nhớ trong lòng tác giả là một nỗi nhớ “chơi vơi”. một từ ngữ rất nhẹ nhưng dường như lại khiến cho nỗi nhớ thêm đầy, không thể nào vơi đi bớt.
quang dũng đã cụ thể hóa nỗi nhớ đó bằng những hình ảnh còn đọng lại trong ký ức về vùng đất chiến tranh ác liệt này:
sài khao sương lấp đoàn quân mỏi
………..
nhà ai pha luông mưa xa khơi.
với những địa danh quen thuộc như “sài khao” và “mường lát” gợi nhớ về những năm tháng chiến tranh đó. hai câu thơ với giọng rất êm, hình ảnh rất thi vị, nhẹ nhàng khiến cho người đọc cảm nhận được sự thi vịng và sâlu. Đoàn quân tây tiến hành quân trong khói sương mù mịt, cái lạnh dường như len lỏi vào sâu trong tim. một khung cảnh lãng mạn, trữ tình giữa chiến tranh ác liệt thật khiến nhiều người ngưỡng mộ. Đó chính là một sự cảm nhận tinh tế và sâu sắc về thiên nhiên giữa núi rừng thăm thẳm.
giữa thiên nhiên thơ mộng, trữ tình, hình ảnh kì vĩ, bao la của thiên nhiên và ất trời ược phác họa qua net but của t ă kh ƻợc ư. của đoàn quân. từ ngữ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” đã phần nào diễn tả được sự gồ ghề, khó khăn, khập khiễng của núi rừng. có cảm giác như đoàn quân phải vượt qua bao nhiêu ngọn núi, đối mặt với bao nhiêu hiểm nguy mới có thể giành được chiến.