Bài thơ Mời trầu hay truyện tình giả tưởng của Hồ Xuân Hương

Qua bài viết này mvatoi.com.vn xin chia sẻ với các bạn thông tin và kiến thức về Bài thơ mời trầu của hồ xuân hương hot nhất được tổng hợp bởi M & Tôi

do dấu ấn sâu đậm về bài thơ từ nhỏ, tôi xin gọi tên bài thơ là “mời trầu”. và quả thực, tôi không thích chữ “ăn” đặt trong tiêu đề bài thơ này.

“what cau nho nhỏ miếng trầu hôi,

này của xuân hương mới quệt rồi.

có phải duyên nhau thì thắm lại,

Đừng xanh như lá, bạc như vôi”

(mời trầu – hồ xuân hương)

ngỡ… ông tơ, bà nguyệt

“mời trầu” nằm trong tâm trí tôi ngay thuở đầu đời, thuở làm quen với đời sống quanh mình, thuở chưa rõ bightín gin n. hồi ấy, tôi có nghe lỏm ược một số bài thơ khac của hồ xuân hương, nhưng cứ thấy rờn rợn những câu thơ qua bạo của bà trong một số bài như đh ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả ả , “trống thủng”, “vịnh cái quạt”…

khi chưa bước qua ngưỡng “nữ thập tam nam thập lục”, có lẽ “mời trầu” là vừa đủ và hợp với tâm trạng tôi khi ấy. hợp, bởi cái tình trong bài thơ vừa đủ bén, nồng đượm mà e ấp, cả tin xen lẫn với xét đoán, nghi ngờ. còn đủ, bởi hình ảnh quả cau, lá trầu luôn là nơi nương tựa chốn quê, gần gũi da diết và cô lẻ âm thầm.

đúng là khi ấy tôi đâu biết ến nghệ thuật thi ca, hay khai phá câu chữ, cũng như chưa minh ịnh ược tài năng của hồ xuân h Đường luật thế nào.

Đọc bài thơ, tôi chỉ cảm thấy bóng hình cô xuân hương lồng lộng, trẻ trung, mang quyền uy choán hết cả không gian. nỗi am ảnh ấy sau này mỗi lần nhớ ến “mời trầu” tôi lại hình dung nữ sĩ chính là ông tơ bà nguyệt, một hình tượng ộc đá trung quốc). trong bài thơ “mời trầu”, hồ xuân hương đã thành người ướm duyên, se duyên, nối duyên bởi chữ “thắm”.

câu thơ “có phải duyên nhau thì thắm lại” gợi tôi nhớ đến nhiều câu ca dao mang nỗi khát khao giao hòa của tuổi trẻ, củân…

“lòng tôi yêu trộm nhớ thầm

trách ông nguyệt lão xe lầm duyên ai

duyên tôi còn thắm chưa phai

there is là người đã nghe ai dỗ dành”

điển tích ông tơ bà nguyệt sele

cau – trầu rất… khác

“quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi” – câu thơ đầu tiên trong bài vọng ra tiếng thưa nhỏ nhẹ như bao thôn nữ hiền thục, dịu dàng. Đúng với phong tục việt nam: “miếng trầu là ầu câu chuyện”, tác giả như đã lùi lại ể hình ảnh miếng trầu hiện ra nhức ột.

nghi thức khiêm cung này khác biệt với pHần lớn hình ảnh táo bạo khác mà tc giả đã Hóa thn trong những câu mở ầu một số bài thơ: “Thân em như của em bưng bít vẫn bùi ngùi” (trống thủng)…

quả cau nhỏ là lẽ thường tình, nhưng nó được đặt bên cạnh “miếng trầu hôi” thì thật độc đáo. chữ “hôi” ở đây mang hàm nghĩa quê mùa, bình dị, chân chất, thậm chí xoàng xĩnh. tac giả như đã Bóc hết lớp vỏc mỹ từ, ểể trơ cai lõi của sựt vật chân thật ến trần trụi, cho thấy hết vẻ ẹp của sự lấm pen, tro bụi.

trong ca dao, dân ca, nhất là những khúc hat ru của người việt xưa, những tíh từ đi liền với “trầu” thường mang màu sắc sặc sỡc sỡc sỡ như vàng, xanh, thắm…, am , non, úa, tàn, xơ xác…, hoặc mang hương vị cay, nồng, mặn, chát, nhạt. xin dẫn một số câu ca dao sau:

“ba đồng một mớ trầu cay

sao anh không hỏi

những ngày con không”

“cho anh một miếng trầu vàng

mai sau anh trả

cho nàng đôi mâm”

“trầu này ăn thật là say

dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng”

“quả cau”, “miếng trầu” trong tay hồ xuân hương đã khác, rất khác. hình ảnh câu thơ ầu tiên trong

và con sóng ấy “sinh sự” ngay trong câu thơ tiếp theo: “này của xuân hương mới quệt rồi”. chữ “này” ược nhà thơ ặt ở ngay ầu câu thơ gây cảm giác ột ngột, mang cho người ọc sự ngỡ ngàng, đu ngờ tac giả của nó bỗng ứng phắt nhanh nhanhư tac. và cũng cho thấy, cái tư thế của bà thật kiêu hãnh, như ella chủ động nhận lấy cái phần “của xuân hương đã quệt”.

chữ “quệt” thật sự đáo để, cho thấy bà thoăn thoắt bước tới với tâm thế chủ động, tự tin. câu thơ thứ hai này có thêm dị bản: “này của xuân hương đã quệt rồi”. theo tôi chữ “mới” hay hơn chữ “đã”, nó làm cho tinh thần bài thơ mạnh mẽ hơn, người đọc cảm nhận tác giả cũng trẻ trung hơp.n bẺ

hai câu thơ đầu trong bài như cách bầy biện, xếp đủ những quân cờ cho ván cờ một kiếp hồng nhan, kiếp người. tôi cho rằng ến đy, toàn bộ không gian trong bài thơ đã ược hiển lộ, nhưng mọi vật thể trong đó chưa ược chuyển dịch, vẟ thán.

“thắm” kiểu… hồ xuân hương

Đến câu thơ thứ ba, “có phải duyên nhau thì thắm lại” đã kích hoạt mọi chuyển động trong không gian vừa ngưng đọng ấy. nó vang lên như một khẩu lệnh, tiếng gọi kết duyên của ông tơ bà nguyệt.

viết ến đy tôi bỗng nảy một ý nghĩ hoang ường, nếu có một dụng cụ đo lường ểể Biết ược sức nặng của ngôn từ, thì “thắm” Trong c c c n. b?i sau ch?

cũng chẳng ai quên ược hình ảnh “quả cau”, “miếng trầu” mà xuân hương vừa mời ấy thôi, giờ nó ược hòa quyện, ược nghi

nhân đy xin nói thêm đôi dòng về tập tục Ăn trầu, vềc quết trầu, mà Theo tôi đã làm nên nghĩa đen của chữ “thắm” nặng ký trong bài thơ này. tập tục ăn trầu đã tồn tại ở châu Á và châu Đại dương từ nhiều thế kỷ trước đây. mỗi quốc gia, vùng miền có cách ăn trầu khác nhau, nhưng nguyên liệu chính vẫn là trầu không và cau.

tại các nước nam Á và Đông nam Á, tục ăn trầu còn thể hiện nét văn hóa giao tiếp, nhất là các vùng nông thôn việt nam xưa. người Ăn trầu ở bắc bộ nước ta thường thêm vôi, vỏ chay, vỏ quạch, vỏ quế và thuốc lào, hoặc Ăn kèm với vỏ trầm, rễ sen, vỏ khoai, vỏ ỏ …

trước khi Ăn, người ta dùng vôi pHết nhẹ lên la trầu tươi đã cắt xéo, mà hồ xuân hương viết là “quệt” (“này của xuân hương mới quệt rồi”), sau đ đ rồi nhai. miếng trầu phải có vôi, không có vôi bã trầu không đỏ. do vậy có câu ca dao: “có trầu có vỏ không vôi/ có chăn có chiếu không người nằm chung”.

ngược lại, nếu phết nhiều vôi thì bã trầu cũng nhạt: “tội tình thiếp lắm chàng ơi/ trầu ăn không đỏ vì da vôi qu”. miếng trầu được têm đúng cách, thơm nồng trong miệng sẽ có bã và nước màu nâu đỏ. ngày nay trong hội họa và ngành thời trang có một màu nâu đỏ càng nhìn càng bắt mắt gọi là màu bã trầu.

trở lại với chữ “thắm” của hồ xuân hương trong bài thơ. theo tôi, giữa câu thơ thứ hai “này của xuân hương mới quệt rồi” và câu thứ ba “có phải duyên nhau thì thắm lại” có khoảng trống vá

trong khoảng trống đó là sự chuyển dịch của thời gian, của quá trình ăn trầu. người được mời đã nhận lấy miếng trầu từ tay xuân hương, đặt vào miệng, nhai. thời gian nhai trầu đến khi biết bã của nó có “thắm” hay không được tính bằng đơn vị đặc biệt dân dã.

nguyễn bính, thi sĩ sin Sau hồ xuân hương hơn một thế kỷ đã đo khoảng thời gian nhai trầu ấy bằng câu thơ ộc đc đ đ đ đ đ đ đ đ đ nghi vấn. “có phải duyên nhau” được hiểu có thủy chung, hết lòng, có tử tế thì hãy “thắm lại”.

câu thơ cuối cùng trong “mời trầu” ược coi như một giả thiết, ướm hỏi, nhưng ý tứ lại nghiêng về pHía hiện thựh mà chính xuân hương đ ừp tho ”.

vẫn đang câu chuyện của miếng trầu, nhưng nhà thơ đã mở ra cái kết bất ngờ, chua xót, có phần tàn nhẫn. SAU CHữ “THắM” KHAO KHÁT KếT DUYêN ở TRRên, NếU Sự KHông Thành, Dĩ NHIêN ườNG AI NGườI ấY đY, NHưNG LA thật trơ chẽn của thứ vôi “bạc”.

c sự thật tàn nhẫnc có xảy ra này, hồ xuân hương đã ặt chữ “ừng” ngay ầu câu thơ mang tinh giả ịnh thay ch lời khuyên, cũng là lời bầy tỏ. “Đừng” cũng là mở cửa thoát hiểm cho kẻ tự biết mình là thứ vôi bạc.

tôi coi bài thơ “mời trầu” là một chuyện tình giả tưởng. kết cấu truyện có phần dẫn nhập trong hai câu thơ đầu, nút thắt ở chữ “thắm” và cái kết mở ở câu thơ cuối. nhân vật xuân hương xưng danh, xuất hiện từ đầu đến cuối câu chuyện, chủ động trong cuộc thoại.

nhưng còn một nhân vật nữa, đó là người được xuân hương mời trầu. theo tôi, anh ta mới là nhân vật chính của truyện siêu ngắn (mini) này. người ấy có thể là đấng nam nhi, một hiền nhân quân tử, hoặc kẻ đại diện cho thần quyền, giai cấp thống trịừa mût kít.

bóng dáng nhân vật nam ấy khi ẩn khi hiện, im lặng từ ầu ến kết thúnc truyện, nhưng bạn ọc vẫn nhìn riqu những khoống, t.

vậy “kẻ ăn trầu” ấy là ai trong thời đại của hồ xuân hương, cả thời no và mãi sau này? diện mạo nhân vật ấy thế nào xin tùy thuộc vào suy đoán của mỗi người bạn đọc.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *